Lịch sử Việt Nam từ 1919-1945 (Giáo trình)

lịch sử Việt Nam từ 1919-1945 (Giáo trình) Chương 1 - Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 1930 I. Tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội Việt Nam từ 1919 đến 1930 1. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp và những biến đổi trong nền kinh tế Việt Nam. 1.1 Cuộc khai thác thuộc địa lần II của thực dân Pháp Khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, mặc dù là nước thắng trận nhưng Pháp cũng là một trong những nước bị tổn thất nặng nề nhất. Các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, hoạt động giao thông vận tải, thương nghiệp giảm sút nghiêm trọng hoặc bị đình trệ. Trong khi những khoảng tiền lớn chi phí cho chiến tranh và những số vốn lớn đầu tư ở nước ngoài ( riêng ở nước Nga Sa hoàng là 14 tỉ Phơ-răng) bị mất trắng, thì số nợ quốc gia của Pháp, chủ yếu nợ Mĩ, tăng từ 170 tỉ Phơ-răng (năm 1918) lên tới 300 tỉ Phơ-răng (năm 1920). Đồng Phơ-răng ngày càng mất giá, giá cả leo thang, đời sống dân thuộc địa khó khăn càng làm tăng thêm nỗi bất bình, đấu tranh chống Chính phủ của các tầng lớp nhân dân lao động Pháp. Để hàn gắn vết thương chiến tranh, nhanh chóng khôi phục, phát triển kinh tế trong nước (Pháp), cạnh tranh với các đế quốc khác trên thị trường quốc tế, các tập đoàn tư bản độc quyền Pháp một mặt tăng cường bóc lột giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong nước, mặt khác ráo riết đẩy mạnh khai thác, bóc lột nhân dân các nước thuộc địa. Tại Đông Dương, một thuộc địa quan trọng, giàu có vào bậc nhất trong hệ thống thuộc địa của Pháp, Chính phủ Pháp đã thi hành chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai trong thời gian từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933). Nhằm khai thác, bóc lột được nhiều hơn kho tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân công dồi dào, rẻ mạt và độc chiếm thị trường Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam, với một quy mô rộng lớn và tốc độ nhanh gấp nhiều lần so với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất trước chiến tranh. Vốn đầu tư tăng nhanh qua các năm, chỉ tính riêng năm 1920, tổng số vốn đầu tư của tư bản Pháp vào các cơ sở kinh doanh ở Đông Dương lên tới 255,6 triệu Phơ-răng vàng. Không kể vốn đầu tư của Nhà nước Pháp, chỉ tính trong 6 năm (1924 – 1929), riêng tư bản tư nhân Pháp đầu tư khai thác Đông Dương là gần 4 tỉ Phơ-răng, gấp 8 lần vốn đầu tư của tư bản tư nhân Pháp ở Đông Dương (492 triệu) trong khoảng 30 năm trước chiến tranh (1888 – 1918) Về kinh tế, nếu trong thời kì khai thác lần thứ nhất, tư bản Pháp tập trung vốn nhiều nhất cho ngành khai mỏ, rồi lần lượt đến giao thông vận tải, thương nghiệp và nông nghiệp. Nhưng với cuộc khai thác lần thứ hai, chúng tăng cường tập trung vốn nhiều nhất để khai thác nông nghiệp, tiến đến ngành mỏ, công nghiệp chế biến, thương nghiệp, giao thông vận tải, sau đó là ngành ngân hàng và kinh doanh bất động sản.

docx79 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 4856 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử Việt Nam từ 1919-1945 (Giáo trình), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ột chừng mực nhất định phù hợp với yêu cầu của các tầng lớp trí thức tiến bộ, tiểu tư sản, trung, tiểu địa chủ và một bộ phận tư sản dân tộc. Tuy nhiên, Đảng cũng xác định sự liên minh đó là tạm thời ở một số lĩnh vực nhất định và thời gian nhất định, đây là sách lược tạm thờ nhằm phục vụ cho mục tiêu cách mạng. Phong trào dân chủ 1936 – 1939 là một bộ phận của phong trào vô sản thế giới, đấu tranh cho hòa bình, chống chiến tranh. Cùng mục tiêu chung với nhân dân thế giới, Đảng Cộng sản Đông Dương tạm thời rút khẩu hiệu đánh đuổi đế quốc Pháp xâm lược, thay bằng khẩu hiệu đánh đổ bọn phản động thuộc địa Pháp ở Đông Dương, kết hợp đấu tranh giải quyết yêu cầu trước mắt của nhân dân Đông Dương với cuộc đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh của nhân dân thế giới, ủng hộ Mặt trận Bình dân Pháp. Cách mạng Việt Nam được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, sự giúp đỡ và ủng hộ của Đảng Cộng sản và nhân dân Pháp. Phong trào đấu tranh giành dân chủ 1936 – 1939 đã thu được những thắng lợi cụ thể trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Chính quyền thực dân đã có một số nhượng bộ, như thả nhiều chính trị phạm, ban hành luật báo chí, cải thiện một phần điều kiện lao động, lương bổng cho công nhân, viên chức. Nhưng thắng lợi to lớn nhất là phong trào đấu tranh, quần chúng đã được tổ chức, giác ngộ về chủ nghĩa Mác – Lênin; cán bộ, đảng viên được thử thách, toi luyện, được đào tạo trong thực tiễn cách mạng. Đảng tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm, như xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, đinh ra các hình thức tổ chức, phương pháp đấu tranh, phương thức hoạt động. Đảng cũng rút được kinh nghiệm từ những thiếu sót, thất bại, như chưa nêu được những khẩu hiệu thích hợp để phát huy tinh thần dân tộc trong khuôn khổ đấu tranh giành dân chủ, hoặc đôi lúc, đôi nơi chưa cảng giác với bọn Tơ-rot-kit.  Qua phong trào đấu tranh, đội quân chính trị quần chúng đã được Đảng tập hợp, xây dựng, giáo dục và phát huy được sức mạnh; uy tín và ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Đông Dương sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Đó là kinh nghiệm quí báu nhất, đồng thời là thắng lợi to lớn nhất của phong trào đấu tranh công khai giành dân chủ 1936 – 1939 là biết đề ra đường lối, quán triệt tinh thần cách mạng tiến công, biết triệt để lợi dụng những khả năng hợp pháp để động viên, giáo dục và tổ chức đội quân chính trị quần chúng, đấu tranh trong một mặt trận dân chủ rộng rãi. Qua báo chí, sách xuất bản và những cuộc mit tinh, biểu tình, đường lối của Đảng của Đảng dược phổ biến sâu rộng trong tầng lớp nhân dân. Tóm lại, Phong trào dân chủ 1936 – 1939 là cuộc tổng diễn tập thứ hai nhằm chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám 1945. III. Cuộc vận động cách mạng tháng Tám (1939 - 1945) 1. Biến động mạnh mẽ của tình hình kinh tế, xã hội Việt Nam trong thế chiến thứ II 1.1. Bối cảnh thế giới trong những năm đầu của Cuộc chiến tranh lần II  Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai không chỉ là làm thay đổi cục diện chính trị trên thế giới mà còn tác dụng trực tiếp đến các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam. Từ giữa những năm 30 của thế kỉ XX, các thế lực phát xít đã bành trướng ở nhiều quốc gia. Chúng câu kết với nhau, tiến hành chạy đua vũ trang, chuẩn bị gây chiến tranh thế giới. Ngày 25 – 11 – 1936, Đức và Nhật Bản kí kết “Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản”. Một năm sau, ngày 6 – 11 – 1937, Italia tuyên bố tham gia Hiệp ước này. Trục Beclin – Rôma – Tôkyô hình thành. Liên minh phát xít đã mở rộng từ Châu Âu sang Châu Á. Trong thời gian này, các cuộc chiến tranh xâm lược cục bộ đã được phát động ở một vài khu vực. Tháng 7 – 1937, Nhật Bản mở cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. do chính sách chống Nhật Bản tiêu cực của tập đoàn cầm quyền Tưởng Giới Thạch, quân Nhật trong một thời gian ngắn đã được nhiều thành phố, trung tâm công nghiệp và các vị trí đầu mối giao thông quan trọng của Trung Quốc. Tháng 7 – 1938, quân Nhật mở nhiều cuộc tấn công vào vùng hồ Khát-xan thuộc lãnh thổ Liên Xô để thăm dò. Trong khi đó, ở châu Âu, Anh và Pháp thực hiện chính sách nhượng bộ Phát xít Đức. Ngày 29 – 8 – 1938, chính phủ hai nước này kí với Đức một hiệp ước tại Muyních (Đức), chấp nhận cho Đức chiếm đóng Tiệp Khắc [1] với hy vọng hướng mũi tiến công của Đức về phía Đông, đáng Liên Xô. Tháng 2 – 1939, Nhật chiếm đảo Hải Nam, phong tỏa hoàn toàn lục địa Trung Quốc. Tháng 3 – 1939, quân Nhật tấn công vào khu vực sông Khan Khin Gôn của Mông Cổ, khiêu khích Liên Xô. Hồng quân Liên Xô phối hợp với quân Mông Cổ tiêu diệt toàn bộ tập đoàn quân số 6 của Nhật Bản. Ngày 23 – 8 – 1939, Liên Xô kí với Đức hiệp ước không xâm phạm, để tránh rơi vào tình thế bị tấn công từ hai phía Đông và Tây, đồng thời để tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng quốc phòng và triệt để lợi dụng mâu thuẩn giữa hai khối đế quốc và Phát xít. Ngày 1 – 9 – 1939, Phát xít Đức mở cuộc tấn công Ba Lan, trái với những toan tính của Anh và Pháp. Ngày 3 – 9 – 1939, Anh và Pháp buộc phải tuyên chiến với Đức. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở nước Pháp, chính phủ Đalađiê lợi dụng tình hình chiến tranh thi hành các biện pháp đàn áp Đảng cộng sản và lực lượng tiến bộ trong nước cũng như các nước thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Ở đông Dương, toàn quyền Catơru bắt tay vào chiến dịch khủng bố. Ngày 8 – 9 – 1939, Catơru cấm mọi hoạt động chính trị, trước hết nhằm đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương và các tổ chức quần chúng của Đảng. “Cấm hết thảy mọi hoạt động có tính chất trực tiếp hay gián tiếp tuyên truyền các khẩu hiệu của Quốc tế cộng sản hay những tổ chức do Quốc tế cộng sản kiểm soát. Giải tán hết thảy các hội hữu ái hay cá nhân nào có liên hệ với Đảng Cộng sản mà hoạt động theo khẩu hiệu của Đệ tam Quốc tế cũng bị giải tán (…). Cấm hết thảy những đồ in, phát hành, tặng hay bán, hay tưng bày, những đồ in hay tranh vẽ, nói chung là cấm hết thảy những tài liệu tuyên truyền của Đệ tam Quốc tế [11; 466 – 467]  Trên khắp đất nước Đảng viên Đảng Cộng sản bị truy lùng bắt bớ. Hàng ngàn người Cộng sản và yêu nước bị giam cầm trong các nhà tù. Hàng loạt báo chí cách mạng và tiế bộ bị đóng cửa. Về kinh tế, chính quyền thực dân Pháp thực hiện chính sách “Kinh tế chỉ huy”, tăng cường vơ vét tài nguyên, nhân lực của Đông Dương phục vụ cho chiến tranh ở nước Pháp. Trong diễn văn khai mạc Đại Hội đồng kinh tế và tài chính Đông Dương, tháng 11 – 1939, toàn quyền Ca-tơ-ru nói :  “Dù có tham gia trực tiếphay không vào cuộc chiến Đông Dương cũng không được tự do có khuynh hướng riêngcủa nên kinh tế và tài chính của mình mà phải quy tụ nó vào những mục đích do mẫu quốc chỉ định. Đông Dương phải xác nhập hệ thống mậu dịch của mình vao hệ thống mẫu quốc, phát triển sản xuất của mình vì lợi ích của mẫu quốc, cung cấp những sản phẩm của đất đai và trong lòng đất mà nước Pháp đòi hỏi. Đồng thời, Đông Dương phải để cho nước Pháp sử dụng nguồn nhân lực của mình, hoặc làm trong các công, binh xưởng, hoặc cung cấp những quân số quan trọng được tổ chức và biên chế để điều đến các chiến trường ở phương Tây [31;305] Bước sang năm 1940, Đức bất ngờ đánh chiếm các nước Bắc Âu (Đan Mạch và Na Uy) và từ tháng 5 mở cuộc tấn công vào các nước tây Âu. Lợi dụng những khó khăn của Pháp phải đối phó với Đức ở Châu Âu, Nhật Bản tăng sức ép với chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Trong những tháng đầu năm 1940, máy bay Nhật Bản hai lần ném bom tuyến đường sắt Hải Phòng – Vân Nam của Pháp (đoạn nằm trên lãnh thổ Trung Quốc). Ngày 8 – 6 – 1940, Nhật Bản đe dọa sẽ dùng vũ lực nếu chính quyền Đông Dương không đóng cửa biên giới Việt - Trung. Đêm 16 – 9, toàn quyền Ca-tơ-ru đã chấp nhận yêu sách của Nhật. Lúc này ở Châu Âu, quân Đức đánh tan các tuyến phòng thủ của Hà Lan, Bỉ, Pháp. Ngày 16 – 6 – 1940, quân Đức chiếm Pari, thủ đô của nước Pháp. Ngày 22 – 6 – 1940, Chính phủ Pê-tanh kí hiệp ước đầu hàng Đức. 1.2. Tình hình Đông dương và những tác động đến Việt Nam từ 1939 đến 1945  Ở Đông Dương, toàn quyền Catơru bị triệu hồi. Ngày 20 – 7 – 1940, phó đô đốc Đơcu, nguyên Tư lệnh lực lượng hải quân Pháp ở Viễn Đông được bổ nhiệm làm toàn quyền Đông Dương. Ngày 2 – 8 – 1940, Nhật Bản trao cho toàn quyền Đơcu một bức công hàm với nội dung: Pháp phải cho Nhật tự do chuyển quân trên lãnh thổ Đông Dương để đánh Trung Hoa Quốc dân Đảng; được sử dụng một số sân bay và bảo vệ những vị trí này ; Pháp phải giúp đỡ việc vận tải vũ khí và đạn dược cho quân đội Nhật. Ngoài ra Nhật Bản đòi được hưởng những điều kiện về thương mại bình đẳng với Pháp ở Đông Dương. Nếu bị từ chối, Bộ ngoại giao Nhật Bản sẽ tiến vào Đông Dương. Ngày 19 – 9 – 1940, Bộ ngoại giao Nhật bản thông báo cho đại sứ Pháp ở Tôkiô rằng, ngày 22 – 9, quân đội Nhật sẽ vào Đông Dương dù có đạt được hiệp ước quân sự với Đơcu hay không. Ngày 22 – 9, đại diện Pháp và Nhật đã kí kết một Hiệp ước, trong đó quy định : 1. Quân đội Nhật được quyền sử dụng 3 sân bay lớn ở Bắc Kỳ (các sân bay Gia Lâm, Hải Phòng, Phủ Lạng Thương). 2. Bộ tư lệnh Nhật có quyền đóng 6000 quân ở Bắc sông Hồng. 3. Quân đội Nhật được quyền đi qua Bắc Kì để lên đánh quân Tưởng Giới Thạch ở Vân Nam. Tổng số quân Nhật đồn trú trên đất Đông Dương không lúc nào được quá 25.000 người. 4. Sư đoàn quân Nhật ở Quảng Tây được quyền đi qua đồng bằng Bắc Kì để đi ra biển. Mặc dù chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương chấp nhận những đòi hỏi của Nhật, vào lúc 22 giờ cùng ngày, Sư đoàn 5 Ngự lâm quân của Nhật do tướng Nakamura chỉ huy vượt biên giới Trung - Việt tấn công các vị trí quân Pháp ở Đồng Đăng và Lạng Sơn. Các vị trí quân Pháp ở Na Sầm, Đồng Đăng, Điểm He, Lộc Bình bị tiêu diệt. Ngày 24 – 9 quân Nhật tiến tới thị xã Lạng Sơn. Quân Pháp bỏ chạy về Đồng Mỏ, và ngày 25 – 9, kéo cờ trắng xin hàng. Ngày 25 – 9 – 1940, ở một hướng khác, quân đoàn viễn chinh Đông Dương thuộc Pháp của Nhật do tướng Nishimura Takuma chỉ huy đổ bộ vào Đồ Sơn. Ngày hôm sau, 26 – 9, quân Nhật tiến vào chiếm đóng Hải Phòng không tốn một viên đạn. Mặc dù quân Nhật đã làm chủ Bắc Đông Dương nhưng chúng vẫn chưa thỏa mãn. Ngày 14 – 7 – 1941, Nhật Bản đưa yêu sách cho Pháp đòi đưa quân vào Nam Đông Dương và được sử dụng ác sân bay, hải cảng ở khu vực này. Phía pháp đã chấp thuận. Ngày 25 – 7 – 1941, một hạm đội Nhật gồm 4 chiến hạm, 12 tuần dương hạm thả neo ở Ô Cấp (Vũng Tàu).  Ngày 27 – 7 – 1941, tại Visi nước Pháp, đại diện của Nhật và Pháp kí hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, với những điều khoản : 1. Pháp và Nhật cùng hợp tác quân sự trong việc phòng thủ chung Đông Dương. 2. Chính phủ Pháp đồng ý cho chính phủ Nhật những tiện nghi sau đây: a. Gửi qua nam Đông Dương một số lượng bộ binh, hải quân, và không Nhật cần thiết. b. Sử dụng như căn cứ không quân 8 điểm như: Siemreap, Phnom-Pênh, Tourane (Đà Nẵng), Nha Trang, Biên Hòa, Sài Gòn, Sóc Trăng và Kompong Trach và căn cứ hải quân: Sài Gòn và Cam Ranh. c. Các đơn vị Nhật được toàn quyền thực tập và điều động không bị hạn chế bởi hiệp ước Nashihara – Martin (23 – 9 – 1940). d. Chính phủ Pháp đồng ý cung cấp cho quân đội Nhật số tiền 23 triệu đồng trong tài khoản 1941, tức là 4,5 triệu đồng một tháng. Số tiền này sẽ được bồi hoàn, hoặc bằng “yên”, hoặc bằng mỹ kim hay vàng. [ 29;45.] Ngày 28 – 7 – 1941, quân Nhật đổ bộ lên đất Sài Gòn. Đến cuối năm 1941 đã có 125.000 quân Nhật đóng trên đất Đông Dương và thực chất đã làm chủ Đông Dương, tuy trên danh nghĩa Đông Dương vẫn là thuộc địa của Pháp  Chính sách thống trị của phát xít Nhật ở Đông Dương: Về kinh tế, Nhật vẫn để hệ thống kinh tế của pháp ở Đông Dương tiếp tục hoạt động, nhưng nắm quyền điều khiển nó. Với Hiệp định Tôkiô ngày 6 – 5 – 1941, phía Pháp thừa nhận địa vị đặc biệt ưu đãi của Nhật trong các quan hệ kinh tế ở Đông Dương, thực chất là Nhật độc chiếm Đông Dương. Nhật Bản yêu cầu chính quyền thực dân Pháp để 50% giá trị nhập khẩu và 15% giá trị xuất khẩu của Đông Dương cho các công ty thương mại cho Nhật. Ngoài ra, nhật còn mua của Đông Dương mănggan, apatit, crôm, thiết, càphê,…với giá rẻ so với thị trường thế giới. Một số công ty của Nhật cũng đầu tư vào những ngành cần cho những ngành quân sự như khai khoáng. Năm 1941, tư bản Nhật ở Đông Dương chiếm gần 50% tổng số vốn đầu tư của các công ty nước ngoài. Tư bản Nhật đặt vốn khai thác quặng mănggan và sắt ở Thái Nguyên, phốt phát ở Lào Cai và quặng Crôm ở Thanh Hóa. Nhật bắt chính quyền thực dân Pháp hàng năm nộp cho chúng một khoản tiền khá lớn. Năm 1940, nộp 6 triệu đồng, năm 1941 – 58 triệu đồng, năm 1942 – 86 triệu đồng, năm 1943 – 117 triệu đồng, năm 1945 – 90 triệu đồng. Trong 4 năm 6 tháng, chính quyền thực dân Pháp phải nộp một khoản tiền là 723.786 nghìn đồng [15;145] Về quân sự, Hiệp định ngày 29 – 7 – 1941 với danh nghĩa phòng thủ chung Đông Dương, quân Nhật được tự do di chuyển trên khắp lãnh thổ Đông Dương không hạn chế số lượng,… Hiệp định quân sự ngày 8 – 12 – 1941 nêu rõ chính quyền thực dân Pháp phải cung cấp các phương tiện chiến tranh, thiết lập các căn cứ quân sự, cung cấp vật chất cho quân đội Nhật. Chính quyền thực dân Pháp phải cam kết đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương, đảm bảo an ninh hậu phương cho quân Nhật. Trong chiến tranh, việc giao thông vận tải có một vai trò quan trọng. Quân đội Nhật ở Đông Dương buộc Pháp phải để chúng sử dụng mọi phương tiện giao thông. Chúng kiểm soát hệ thống đường sắt, các tàu biển chở hàng có trọng tải 200.000 tấn đậu ở các cảng Đông Dương. Quân Nhật còn cướp ruộng đất của nông dân để xây dựng trại lính, bắt nông dân nhổ lúa, ngô để trồng đay, thầu dầu để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Về chính trị và tư tưởng, sau khi chiếm đóng Đông Dương, bọn quân phiệt Nhật không lật đổ chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương mà sử dụng nó như một công cụ với ba mục đích: Thứ nhất, để đàn áp phong trào cách mạng Đông Dương, giữ yên hậu phương cho quân đội Nhật; thứ hai, để vơ vét, bóc lột sức người, sức của ở Đông Dương để phục vụ cho cuộc chiến tranh của Nhật; thứ ba, để che dấu bộ mặt xâm lược của mình, đóng vai “người giải phóng” nhân dân Châu Á. Chính sách đó khác với chính sách bọn Nhật thi hành ở các nước Đông Nam Á vì lợi dụng được tình hình Chính phủ Pháp đã đầu hàng Đức. Chính sách của quân phiệt Nhật đối với thực dân Pháp ở Đông Dương là chính sách hai mặt. Trong khi “cộng tác” với Pháp, Nhật Bản ra sức tuyên truyền tư tưởng Đại Đông Á, như mở các phòng thông tin, xuất bản tạp chí Tân Á bằng tiếng Việt, mở các cuộc triển lãm bằng tranh ảnh,… Đồng thời Nhật cũng chú trọng xây dựng cơ sở xã hội cho mình.  Từ năm 1942, Nhật đã hồi phục các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam bị Pháp đàn áp trong những năm 1940 – 1941, như Phục Quốc, Cao Đài, Hòa Hảo,…giúp đỡ các nhóm Đại Việt dân chính, Đại Việt quốc xã, Đảng Việt nam ái quốc,…dựa vào nhóm này Nhật hy vọng lúc cần thiết sẽ lật đổ chính quyền thực dân Pháp. Với cuộc đảo chính ngày 9 – 3 – 1945, bọn thân Nhật càng hy vọng vào lời hứa hẹn Nhật sẽ trao trả độc lập cho Việt Nam. Hàng loạt đảng phái thân Nhật xuất hiện. Chỉ riêng Bắc Kì đã có hơn 30 tổ chức thân Nhật [15;146] Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương một mặt cam chịu khuất phục quân Nhật, phải thực hiện các yêu sách của Nhật, mặt khác ngấm ngầm chuẩn bị lực kượng chờ cơ hội lật lại. Chính sách của Pháp nhằm tranh thủ giới thượng lưu ở Đông Dương, cho họ tham gia những chức vụ quản lí và thừa hành, ràng buộc họ trung thànhvới nước Pháp. Được dịp, các nhóm thân Pháp cũng hoạt động. Nhóm bảo hoàng Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi hô hào trở lại hiệp ước 1884, yêu cầu Pháp tăng quyền cho vua quản quan bản xứ để chống lại bọn thân Nhật. Nhóm Nguyễn Phan Long, Bùi Quang Chiêu, ra sức tuyên truyền khẩu hiệu “cách mạng quốc gia”, “Pháp - Việt phục hưng” của chính phủ phản động Pêtanh. Nhận biết rõ ràng hoạt động của Pháp nhưng vẫn làm ngơ vì chưa đến lúc cần thiết phải hành động. Đến 3 – 1945, quân Nhật lâm vào tình trạng nguy ngập ở chiến trường Thái Bình Dương, Nhật làm đảo chính Pháp ở Đông dương để loại trừ mối hiểm họa. Từ ngày 9 – 3 – 1945, quân đội Nhật độc chiếm Đông Dương. Chính sách thống trị và bóc lột của Pháp - Nhật khiến cho tình cảnh và đời sống các giai cấp, tầng lớp xã hội ở Đông Dương thay đổi sâu sắc. Giai cấp công nhân bị tước đoạt một số quyền nhân sinh, dân chủ đạt được trong thời kì Mặt trận dân chủ 1936 – 1939. Theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 10 – 4 – 1939, giờ làm việc của công nhân tăng từ 60 lên 78 giờ mỗi tuần. Tiền lương bị giảm. Một số công nhân bị sa thải hoặc thất nghiệp, một số bị động viên đi lính phục vụ cho chiến tranh. Giai cấp nông dân bị sưu cao, thuế nặng. Ruộng đất của họ bị tước đoạt, tài sản bị vơ vét để phục vụ cho chiến tranh. Họ còn phải đi phu làm đường, đào kênh, xây dựng các công trình công cộng. Không chỉ bần, cố nông bị đói khổ, mà cả những tầng lớp khá giả như trung, phú nông cũng bị sa sút. Tầng lớp tiểu tư sản : Nhiều tiểu thương, tiểu chủ bị phá sản, viên chức bị giảm lương, những người lao động trí óc như nhà văn, nhà báo không kiếm được việc làm. Giai cấp tư sản dân tộc: Việc inh doanh, sản xuất không tăng trưởng vì mức thuế cao của nhà nước thực dân và sức tiêu thụ hàng của dân giảm. Giai cấp địa chủ: trừ một số ít đại địa chủ có thế lực chính trị, lợi dụng chiến tranh để làm giàu, còn địa chủ nhỏ và vừa cũng bị thiệt hại về chính sách thuế, thu thóc tạ, mua ngũ cốc rẻ của nhà nước. Nhìn chung, các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều chịu những tác động xấu bởi chính sách bóc lột của Nhật, Pháp và bọn phong kiến. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Pháp - Nhật, giữa nông dân với địa chủ phong kiến ngày càng gay gắt. Toàn thể nhân dân Việt Nam sẵn sàng đứng lên giành độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. 2. Sự chuyển hướng chiến lược của Đảng cộng sản Đông Dương Ngày 1 tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới nổ ra tại Châu Âu, một tuần sau, ngày 8 – 9 – 1939, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, Nguyễn Văn Cừ triệu tập Hội nghị Xứ ủy Bắc Kì tại làng Vạn Phúc, Hà Đông. Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước đã thay đổi, Hội nghị đề cập tới việc tận dụng thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Tiếp đó, từ ngày mồng 6 đến ngày 8-11-1939, tại Bà Điểm, quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định (cách Sài Gòn khoảng 20km), Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng) được triệu tập. Tham gia hội nghị có Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn. Dựa vào các phân tích những vấn đề cơ bản của cuộc chiến tranh đế quốc, chính sách của Liên Xô đối với chiến tranh, vị trí Đông Dương trong cuộc chiến tranh, chính sách của chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương, vị trí, thái độ của các giai cấp xã hội, các đảng phái chính trị, vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng Đông Dương…, Hội nghị đề ra đường lối đấu tranh vũ trang nhằm lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng của Đông Dương. Về vấn đề dân tộc, Hội nghị nêu rõ: “Vấn đề dân tộc ở Đông Dương phải xét theo hai mặt: Một mặt là các dân tộc Đông Dương đoàn kết thống nhất đánh đổ đế quốc Pháp đòi Đông Dương hoàn toàn độc lập và các dân tộc được quyền tự quyết, một mặt nữa là các phong trào dân tộc giải phóng ở Đông Dương phải liên lạc khăng khít với cách mệnh thế giới (là một bộ phận của cách mệnh vô sản thế giới) để đánh đổ kẻ thù chung là tư bản đế quốc và xây dựng một thế giới không có dân tộc bị áp bức, không có ranh giới quốc gia và chia rẽ dân tộc, nghĩa là thế giới cộng sản [6;532]. “…Không có một dân tộc nào có thể giải phóng riêng rẽ vì Đông Dương ở dưới quyền thống trị duy nhất của đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh tế và binh bị. Không thể có một bộ phận nào thoát khỏi nền thống trị ấy mà chẳng liên quan đến cả toàn thể nền thống trị của đế quốc Pháp. Sự liên hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất thiết bắt buộc các dân tộc phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc như Việt Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền giải quyết vận mệnh theo ý muốn của mình, song sự tự quyết không nhất định là rời hẳn nhau ra” [6;541-542] Về tương quan lực lượng  “a) Một bên là đế quốc Pháp cầm hết quyền kinh tế, chính trị, dựa vào bọn vua quan bổn xứ thối nát và bọn chó săn phản bội dân tộc; b) Một bên là cả các dân tộc từ Việt Nam, Miên, Lào đến Thổ, Thượng, v.v..tất cả các giai cấp trừ bọn phong kiến và một số bộ phận phản động trong đám địa chủ và tư sản, tất cả các đảng phái, trừ bọn chó săn đế quốc phản bội quyền lợi dân tộc…” [6;533-534] Về mục tiêu trực tiếp của Cách mạng Đông Dương trong tình hình mới: “Dưới đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống lại tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng dân tộc. Đế quốc Pháp còn, dân chúng Đông Dương chết, đế quốc Pháp chết, dân chúng Đông Dương còn" [6; 536] Về phương hướng chiến lược cách mạng: “…đứng trong tình thế khác ít nhiều với tình thế 1930-1931, chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới. Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh tư sản dân quyền, không giải quyết được cách mệnh điền địa – cái nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào mà để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Hiện tình hình có thay đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư bản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết [6;538 -539] Về hình thức tiến hành đấu tranh, Nghi quyết viết: “Phải biết xoay tất cả phong trào đấu tranh lẻ tẻ vào cuoậc đấu tranh chung, phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế quốc Pháp và bè lũ, dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc [6;552] Về mặt tổ chức, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng quyết nghị thành lập Mặt Trận Thống nhất phản đế Đông Dương, trong đó “lực lượng chính của Cách Mệnh là công nông”, “dưới quyền chỉ huy của vô sản giai cấp” [6;539-540] Hội nghị đã đưa ra một cương lĩnh cụ thể của công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, gồm 14 điểm: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc ta. 2.Đông Dương hoản toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). 3.Lập Chính Phủ Liên bang Cộng hoà dân chủ Đông Dương. 4.Đánh đuổi hải, lục, không quân của đế quốc Pháp ra khỏi xứ, lập Quốc dân cách mạng quân. 5.Quốc hữu hoá những nhà hàng, các cơ quan vận tải, giao thông, các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch kí và quốc hữu hoá tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc, bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc. 7.Tịch kí và quốc hữu hoá đất ruộng của đế quốc thực dân, cố đạo và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, cố đạo, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nhân dân cày cấy. 8.Thi hành Luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ chia cho các hầm mỏ, luật xã hội bảo hiểm hoàn toàn, tiền hưu trí cho thợ, tìm công ăn việc làm cho thợ thất nghiệp, công việc ngang nhau đồng lương ngang nhau. 9. Bỏ tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. Lập nhà băng nông phố và bình dân ngân hàng. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, các quyền nghiệp đoàn, bãi công, phổ thông đầu phiếu. 12.Phổ thông giáo dục cưỡng bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế, chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao [6;541-542]. Tóm lại, với đường lối Cách mạng được đề ra tại Hội nghị lần 6 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng, cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới – giai đoạn trực tiếp chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành độc lập dân tộc. (Còn nữa) Like "Cổ kim hận sự thiên nan vấn, Phong vận kỳ oan ngã tự cư" Trả lời   Trả Lời Với Trích Dẫn    Thanks   CommentBlog this Post        03-24-2010, 09:13 PM#8 Dĩ Vãng 10  Thành viên Join Date May 2009 Bài gởi 1,555 Thanks 0 Thanked 713 Times in 438 Posts 3. Quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị, vũ trang, và căn cứ địa Cách mạng tháng Tám 3. 1 Quá trình chuẩn bị lực lượng chính trị Vào cuối những năm 30 của thế kỉ XX, tình hình thế giới diễn ra rất căng thẳng, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc không thể điều hoà. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới đang đến gần. Trước tình hình đó, tháng 10 – 1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sáng ngày 28 – 1 – 1941 (tức mồng 2 tết Tân Tỵ), Nguyễn Ái Quốc rời đất Trung Quốc và đến Pác Bó, Cao Bằng cùng ngày 28 – 1. Sau một thời gian nắm tình hình và chuẩn bị những công việc của Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị tiến hành từ ngày 10 đến 19 – 5 – 1941, với sự tham dự của Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, đại biểu Xứ uỷ Bắc Kì và Trung Kì và một số đại biểu hoạt động ngoài nước. Sau khi phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình trong nước, Hội nghị xác định nhiệm vụ đánh Pháp, đuổi Nhật không phải là nhiệm vụ riêng của giai cấp công nông mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được [7;113 ] Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất cảu bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm địa tôm giảm tức”. Hội nghị chủ trương giải quyết vần đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, để thức tỉnh tinh thần dân tộc của các nước trên bán đảo Đông Dương; thành lập ở mỗi nước một Mặt trận dân tộc thống nhât rộng rãi. Ở Việt Nam, mặt trận đó lấy tên là Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Các tổ chức quần chúng của Mặt trận đều lấy tên thống nhất là “Hội cứu quốc”, như “Hội Công nhân cứu quốc”, v.v… Hội nghị chủ trương thực hiện “quyền dân tộc tự quyết” đối với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Sau khi đánh đuổi Pháp – Nhật thì các dân tộc trên cõi Đông Dương sẽ tuỳ theo ý muốn, tổ chức thành Liên bang Cộng hoà dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc, một quốc gia tuỳ ý, “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng" [7;113.] Hội nghị đã chính thức bầu ra Ban chấp hành Trung ương mới với một Ban Thường vụ gồm có: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, do Trường Chinh làm Tổng bí thư. Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hàon chỉnh đường lối đấu tranh mới của Đảng được nêu ra ở Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (tháng 11 -1939).Đó là đặt nhiệm vụ giải hpóng dân tộc lên hàng đầu, đàon kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước trong Mặt Trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quần chúng ở cả nông thôn và thành thị; tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang; tích cực chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa giành độc lập. Ngày 19 – 5 – 1941, Việt Nam Độc lập đồng minh ra đời, ngày 10 – 1941, Việt Minh công bố tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ. Tuyên ngôn nêu rõ: “Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao giờ dân tộc ta nhục nhằn, đau khổ như lúc này […].Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời, chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật, Pháp, trừ khử Việt gian. Mở con đường sống cho đồng bào, “Việt Nam Độc lập đồng minh” (Việt Minh) ra đời, chào các bạn. Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm, bao gồm các chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhắm thực hiện hai điều cốt yếu mà quốc dân đồng bào đang mong ước là: “1.Làm cho dân Việt Nam được hoàn toàn độc lập. 2.Làm cho dân tộc Việt Nam được sung sướng, tự do” [ 7;470.] Chương trình cứu nước của Việt Minh sau khi được đúc kết thành 10 chính sách lớn đem thực hiện ở Khu giải phóng Việt Bắc và được Đại hội Quốc dân ở Tân Trào thông qua tháng 8-1945, trở thành chính sách cơ bản sau này của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Bước phát triển mới của cách mạng Việt Nam: Thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941) và Thư kêu gọi toàn dân đánh đuổi Pháp-Nhật của Nguyễn Ái Quốc (6 – 6 – 1940), Đảng ta xúc tiến công cuộc xây dựng lực lượng mọi mặt, trước hết là xây dựng các đoàn thể Việt Minh trên toàn quốc. Công tác tuyên truyền, vận động được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng như truyền đơn, ca dao, hò vè…nhất là xuất bản báo chí Cách mạng. Tại Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp phụ trách báo “Việt Nam độc lập” (gọi tắt là “Việt Lập” – cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh. Ngày 1 – 8 – 1941, báo “Việt Lập” là vũ khí sắc bén của Mặt Trận Việt Minh trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, góp phần giáo dục, động viên quần chúng hăng hái tham gia các tổ chức cứu quốc. Ngày 25 – 1 – 1942, Tổng bộ Việt Minh xuất bản báo Cứu quốc – cơ quan tuyên truyền đường lối, chính sách của Mặt Trận Việt Minh. Từ cuối năm 1941, ở Cao Bằng đã có những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh (gọi là “xã hoàn toàn”, “tổng hoàn toàn”). Đến cuối năm 1942, Cao Bằng có 3/9 châu là Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Binh, trở thành “châu hoàn toàn”.Ở những nơi này, bộ máy chính quyền địch chỉ tồn tại về mặt hình thức, còn thực tế quyền hành do Việt Minh nắm giữ. Phong trào Việt Minh, phát triển từ Cao Bằng, đến các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên. Mặt trận Việt Minh với 3 hình thức cơ bản là Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốx, Nông dân cứu quốc còn được xây dựng ở các tỉnh đồng bằng, ở nông thôn và thành thị, như Hà Đông, Hà Nội, Hà Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Phú Thọ, Sơn Tây, Phúc Yên, Hoà Bình (Bắc Kì), Thanh Hoá, Quảng Bình (Trung Kì). Chủ trương của Mặt trận Việt Minh cũng đến được số bộ phận đảng viên còn lại ở Nam Kì. Vì vậy, ở một số nơi thuộc ngoại thành Sài Gòn, vùng Bà Điểm, Hoóc Môn (Gia Định), Đức Hoà (Chợ Lớn), Lái Thiêu (Thủ Dầu Một) đã xuất hiện cơ sở của Việt Minh. Một số nơi ở Nam Kì do chưa nhận được chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, cán bộ Đảng và quần chúng yêu nước đã lập ra tổ chức quần chúng với các hình thức, như “Nhóm công nhân nòng cốt”, “Hội đá banh”, “Hội đổi công”, “Hội tương tế”. Những tổ chức này đã góp phần vào việc bảo vệ cán bộ, đảng viên, giữ vững tinh thần cho quần chúng trong hoàn cảnh bị khủng bố trắng. 3.2.2 Quá trình chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Ngay từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11 – 1940), Đảng ta chủ trương phát triển Đội du kích Bắc Sơn làm vốn quân sự lâu dài của Đảng. Thực hiện chủ trương của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, Hoàng Văn Thụ đã tổ chức một cuộc họp với Ban chỉ huy Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân, làm lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai. Đội cứu quốc quân vừa tích cực chiến đấu, mở rộng địa bàn hoạt động,vừa phát triển lực lượng, chuẩn bị cho ngày lễ thành lập chính thức Cứu quốc quân. Ngày 1 – 5 – 1941, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể tại Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn) kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đồng thời làm lễ ra mắt “Đệ nhất trung đội du kích Bắc Sơn”.Tham gia mít tinh có đông đảo quần chúng cách mạng thuộc nhiều dân tộc. Sau hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, “Đệ nhất Trung đội đội du kích Bắc Sơn” đổi tên thành “Trung đội cứu quốc quân I”. Trung đội cứu quốc quân I lúc đầu có 32 cán bộ, chiến sĩ, gồm con em các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh.Đây là đơn vị vũ trang chính quy đầu tiên của Đảng, ra đời trong phong trào quần chúng. Ngay sau khi thành lập, Trung đội Cứu quốc quân I vừa tổ chức huấn luyện, vừa tham gia những hoạt động quân sự nhằm chống khủng bố, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ Cách mạng. Giữa năm 1941, thực dân Pháp huy động một lực lượng gồm 4.000 quân mở cuộc càn quét vùng Bắc Sơn – Vũ Nhai với âm mưu tiêu diệt Cứu quốc quân, phá phong trào cách mạng. Trung đội Cứu quốc quân I bám đất, bám dân, kiên trì chiến đấu. Sau 8 tháng chiến đấu gian khổ (từ tháng 7-1941đến tháng 2-1942), một bộ phận Cứu quốc quân vượt vòng vây địch, rút lên biên giới Việt-Trung. Trên đường rút, Cứu quốc quân bị địch phục kích đã bị tổn thất lớn. Bộ phận Cứu quốc quân còn lại hoạt động phân tán trong dân, gây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng. Ngày 15 – 9 – 1941, Trung đội Cứu quốc quân II* được thành lập tại rừng Khuôn Máy (xã Tràng Xá, châu Vũ Nhai). Trung đội cứu quốc quân II lúc đầu có 47 chiến sĩ chia thành 5 tiểu đội. Sau khi thành lập, Ban chỉ huy Cứu quốc quân II đã phân công các đơn vị đến các địa phương đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống địch khủng bố. Mục tiêu chiến đấu của Cứu quốc quân lúc này là tiêu diệt những tên mật thám đầu sỏ, phá các cuộc hành quân càng quét của địch. Địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Cuối tháng 10 – 1941, thực hiện chỉ thị Trung ương về việc kiện toàn lực lượng chiến đấu lâu dài, Cứu quốc quân rút vào rừng sâu để chấn chỉnh đội ngũ.Lúc này toàn độicó khoảng 60 người, phiên chế thành 7 tiểu đội. Sau đó, toàn Đội bước vào học tập đường lối, chính sách của Đảng, Chương trình và Điều lệ Việt Minh, cách tổ chức các Hội Cứu Quốc, học chiến thuật du kích, các động tác quân sự cơ bản, học 10 điều kỉ luật và 5 lời thề của Đội. Cứu quốc quân ra tờ báo Bắc Sơn, in bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp để giáo dục trong nội bộ và làm tài liệu tuyên truyền trong quần chúng. Ở Nam Kì, sau cuộc khởi nghĩa 23 – 11 – 1940, những Đảng viên còn lại lãnh đạo các đội ngũ quân tiếp tục hoạt động diệt ác, trừ gian, tuyên truyền Cách mạng. Tại vùng Đồng Tháp Mười, các đội nghĩa quân của các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An rút vào Mương Xanh, Kinh Bo Bo, hoạt động trong một khu vực rộng lớn nằm giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng du kích Mĩ Tho với hơn 100 đội viên vẫn hoạt động ở Phú Mĩ, Tân Hoà Thành, Tân Thạch Mĩ…Du kích đã diệt nhiều tên tay sai, chỉ điểm cho giặc. Đến giữa năm 1942, địch tập trung càn quét, hoạt động của du kích đã tạm dừng. Tại vùng Lạc An (Tân Uyên, Biên Hoà), một đội vũ trang đã rút vào rừng thực hiện chiến tranh du kích. Những hoạt động của các đội du kích trên tiêu biểu cho tinh thần anh dũng, bất khuất của các Đảng viên và nhân dân Nam Kì.Trong lời kêu gọi đồng bào, các Đảng phái cách mạng và các dân tộc bị áp bức Đông Dương, Trung Ương Đảng đã viết “Những đội du kích Nam Kì rút vào rừng sâu,sau cuộc khởi nghĩa cuối năm ngoái cũng vẫn chiến đấu không ngớt”.Thông báo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng”, ngày 21-12-1941, Trung ương kêu gọi: Đối với những bộ đội du kích Bắc Sơn, Nam Kì […], các đảng bộ cần phải xem xét những điều kiện có thể mở rộng những bộ đội ấy, gây thêm những bộ đội mới để mở rộng du kích chiến tranh.Đồng thời phải tăng gia gấo việc cổ động ủng hộ các bộ đội du kích về mọi phương diện [7;251]. Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang. Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc còn đẩy mạnh xây dựng căn cứ địa. Sau Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương, nhiều cán bộ được cử đến tăng cường cho Bắc Sơn. Khi các Trung Đội cứu quốc quân ra đời, khu căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai được củng cố và mở rộng. Từ tháng 4-1941, một vùng núi hiểm trở, rộng lớn thuộc các xã Vũ Lễ, Vũ Lăng, Ngư Viên (châu Bắc Sơn), Lán Thượng, Tràng Xá (châu Vũ Nhai) được nối liền với nhau, trở thành khu trung tâm của căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai, trong đó vùng Khuổi Nọi (thuộc xã Vũ Lễ) là trung tâm chính. Vùng Khuồi Nọi được cứu quốc quân cùng lực lượng tự vệ tổ chức canh phòng, bảo vệ chặt chẽ. Trên các ngả đường vào khu vực này đều được canh gác.Ở khu trung tâm căn cứ địa, phong trào quần chúng diễn ra công khai. Trật tự trị an các làng bản được bảo đảm. Mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc ở đây đều hăng hái ủng hộ cách mạng. Các lớp huấn luyện quân sự, chính trị của Xứ uỷ Bắc Kì được tổ chức ở Khuổi Nọi đã đào tạo nhiều cán bộ cho căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và cho cá tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang. Một trong những công việc quan trọng trong khu căn cứ địa là xây dựng các đoàn thể Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và phong trào quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Tháng 10-1941, đội du kích tập trung đầu tiên của Cao Bằng được thành lập gồm 13 người. Nhiệm vụ của đội là bảo vệ cơ quan Đảng, bảo vệ cán bộ, xây dựng cơ sở cho lực lượng tự vệ, thực hiện công tác đặc biệt, giao thông liên lạc. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương và Nguyễn Ái Quốc, căn cứ địa Cao Bằng đã hình thành và từng bước phát triển vững chắc, trở thành một trung tâm lãnh đạo phong trào cách mạng của cả nước. Trong thời gian này ở Bắc Trung Kì,Tỉnh Uỷ Thanh Hoá đề ra chủ trương thành lập căn cứ địa cách mạng, làm cơ sở phát triển lực lượng, thúc đẩy phong trào phản đế. Tỉnh ủy chọn vùng Ngọc Trạo để xây dựng chiền khu ở vùng Đông Bắc của tỉnh. Tháng 7- 1941, Ban lãnh đạo chiến khu được thành lập, Đội du kích Ngọc Trạo cũng ra đời với 21 đội viên. Cuối tháng 9 – 1941, Đội tăng lên 80 đội viên, ảnh hưởng và phạm vi chiến khu ngày càng lan rộng. Thực dân Pháp đã điều lực lượng đến đàn áp. Do chênh lệch về quân số, lại thiếu kinh nghiệm và vũ khí, Đội du kích bị tổn thất lớn.  Ban lãnh đạo chiến khu ra lệnh cho Đội du kích rá khỏi Ngọc Trạo phân tán về các địa phương. Cuối tháng 10 – 1941, chiến khu Ngọc Trạo chấm dứt hoạt động. Trong khi đặt trọng tâm công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Đảng chú trọng vận động các tầng lớp nhân dân đấu tranh dưới nhiều hình thức để duy trì và hướng phong trào quần chúng vào mục tiêu cứu quốc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương viết: “…ta phải khôn khéo huy động toàn thể nhân dân cùng với địa chủ, phú nông đấu tranh chống lại sự tịch thu lúa, gạo, đậu phụng…của Pháp – Nhật. Huy động thợ thuyền tranh đấu chống lại sự bắt làm công như nô lệ dưới báng súng, ngọn roi của quân Nhật trong những công xưởng quan hệ đến quân sự. Huy động nhân dân đấu tranh chống lại sự tàn bạo của lính Nhật. Ngoài ra, hằng ngày phải mở rộng tranh đấu cứu quốc, như tổ chức ra tuần lễ cứu quốc, tuần lễ ủng hộ Bắc Sơn, tuần lễ ủng hộ Liên Xô bằng những hình thức mít tin, diễn thuyết, mở lạc quyên, rải truyền đơn, biểu tình,.v.v." [7; tr129] Theo chủ trương đó, trong những năm 1941 – 1942, các cuộc đấu tranhcủa công nhân ở một số thành phố và các khu công nghiệp đã bùng phát, như các cuộc đấu tranh của công nhân ngành in, cưa gỗ, giặt (Hà Nội), xưởng bột giấy Việt Trì (Phú Thọ) hay xưởng giầy Bata, đồn điền Bình Lộc (Biên Hòa), đồn điền Lộc Ninh (Thủ Dầu Một)…Những cuộc đấu tranh này diễn ra dưới hình thức đình công, bãi công, bãi thực, đưa yêu sách, phản đối đánh đập, đòi tăng lương, trả tiền lương đúng hạn…Nhìn chung, phong trào đấu tranh của công nhân còn ít về số lượng, nhỏ về quy mô. Nông dân đấu tranh dưới hình thức biểu tình, đưa kiến nghị, chống hào lí, chủ đồn điền người Pháp cướp đoạt ruộng đất, lấn chiếm đất công, tham ô công quỹ, chống bắt phu, bắt lính…Tiêu biều là phong trào ở Tuyên Quang, Phú Thọ, Hà Đông, Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên…Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của nông dân còn thiếu bề rộng lẫn bề sâu, chưa liên kết được với các phong trào khác. Tầng lớp thanh niên trí thức ở các thành phố lớn tập hợp trong các đoàn thể, tiến hanh các hoạt động xã hội,khêu gợi lòng yêu nước trong nhân dân, kêu gọi thanh niên phụng sự dân tộc. Ở Sài Gòn – Chợ Lớn xuất hiện phong trao yêu nước công khai lấy tên là “Phong trào câu lạc bộ học sinh”, phong trào thu hút tới ba, bốn nghìn học sinh, sinh viên, trí thức trong các trường Trung học kĩ thuật và Bách khoa ở Sài gòn tham gia. Song song với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng ta cũng đề ra chủ trương đối ngoại đúng đắn, tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, góp phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít , ủng hộ Liên ban Xô viết, giao thiệp với chính phủ kháng chiến Trung quốc, thực hiện khẩu hiệu “Hoa – Việt kháng Nhật trên đất Đông Dương” trên nguyên tắc “bình đẳng, tương trợ” và liên hiệp có điều kiện với Anh – Mỹ để chống phát xít Nhật. Với tinh thần trên, ngày 13-8-1942, Nguyễn Ái Quốc (với tên ghi trên giấy tờ tùy thân là Hồ Chí Minh) lên đường sang Trung Quốc để liên hiệp với các lực lượng cách mạng ngừơi Việt Nam và Đồng minh, nhằm tranh thủ sự viện trợ từ bên ngoài.  Ngày 27-8-1942, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt gaim 13 tháng, sau mới trả tự do cho Người. Một công tác quan trọng nữa của Trung ương Đảng thực hiện trong thời gian này là xây dựng các khu an toàn ở Hà Nội – cơ quan đầu não của địch. Từ đầu năm 1942, ban thường vụ Trung ương lập các khu an toàn ở Đông Anh, Yên Lãng (Phúc Yên), Từ Sơn, Gia Lâm (Bắc ninh), Hoài Đức (Hà Đông). Các khu an toàn này cách Hà Nội từ 10 đến 20km, sau đó Trung ương còn xây dựng các khu an toàn dự bị ở Hiệp Hòa (Bắc Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên). Cơ quan đầu não của Đảng chuyển về xuôi. Ban thường vụ Trung ương bám sát Hà Nội theo dõi phong trào chung và chỉ đạo toàn Đảng. Sang năm 1943, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn. Hồng quân Liên Xô chiến thắngở Xtalingrat, đánh dấu bước ngoặt căn bản của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô. Mùa hè năm 1945, quân đội Xô Viết đập tan cuộc phản công của Hitle vòng cung ở cuôcxơ. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô cổ vũ manh mẽ phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đầu năm 1943, cách mạng Việt Nam bứơc vào giai đoạn phát triển mới. Những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi Đảng ta phải có chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Từ ngày 25 đến 28-2-1943, Ban thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) bàn việc mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Về cuộc chiến tranh thế giới, Hội nghị nhận định: “Năm 1943 này là năm phe dân chủ sẽ đánh phe phát xít một cách quyết liệt hơn để sửa soạn điều kiện cho bước thắng lợi cuối cùng. Dưới sức thúc đẩy mạnh mẽ của nhân dân, Anh – Mỹ sẽ phải đánh vào Âu lục, mặt trận thứ hai sẽ phải mở. Đó là lúc Liên Xô tổng phản công đuỏi hẳn quân Trục ra khỏi nước, phe dân chủ sẽ thừa thắng phản công Trục bên Viễn Đông. Chiến tranh còn kéo dài. Nhưng những thắng lợi của Liên Xô, sự tan rã của phát xít quốc tế và sự cùng khổ của nhân dân các nước phát xít sẽ thúc đẩy cho cách mạng các nước bùng nổ trong nhiều nước” [7;279] Về đặc điểm của phong trào cách mạng Đông Dương, Hội nghị nhận định: 1. Ở Đông Dương, Đảng cộng sản, chính đảng cách mạng của thợ thuyền, là Đảng duy nhất lãnh đạo phong trào cách mạng. song những cuộc đấu tranh của thợ thuyền lại không được mạnh mẽ và rộng rãi xứng đáng với vai trò lãnh đạo ấy. 2. Với Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh. Do đó, cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hòi, có tính cách công nông hơn là tính cách toàn dân tộc. 3. Phong trào quần chúng đấu tranh hàng ngày tuy không bao gồm những hình thức biểu tình thị uy, tổng bãi công…nhưng trái lại có nhiều cuộc tranh đấu vũ trang có tính cách du kích và khởi nghĩa. Nhân dân Đông Dương cực khổ dưới hai tầng áp bức, lai được tình hình thế giới kích thích, nên phong trào cách mnạg Đông Dương có thể bổng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao.[7;290] Vì vậy, Đảng phải xúc tiến hơn nữa công việc khởi nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương, coi việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại”. Hội nghị vạch ra một kế hoạch cụ thể về công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang, như tổ chức huần luyện các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, phổ biến kinh nghiệm về khởi nghĩa và chiến tranh du kích qua sách báo và các lớp huấn luyện. Nghị quyết cũng nêu rõ phải đưa quần chúng ra đấu tranh chống Nhật – Pháp áp bức, bốc lột, tăng thuế, phá hoại hoa màu…Qua đó, rèn luỵện tập dượt họ. Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, vận động công nhân tham gia khởi nghĩa. Thực hiện nghị quyết Hội nghị, trong các năm 1943 – 1944, ở Bắc Kì các đoàn thể Việt Minh được xây dựng và củng cố cả ở nông thôn và thành thị. Ở Hà Nội, tồ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học, khu phố, nhu nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ô tô Avia, xưởng đóng tàu, trường Bưởi, trường Gia Long, trường kĩ nghệ thực hành…nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, uông bí, nam định, việt trì… Nông dân các tỉnh đồng bằng Bắc Kì đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu, chồng cướp thóc, cướp đất…Tổ chức Việt Minh đã phát triển ở hầu khắp các huyện. Ở Bắc Sơn – Vũ Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh mẽ gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, tuyên quang, vĩnh yên, phú thọ, bắc ninh, Bắc Giang…Trong quá trình đó, lực lượng cứu quốc quân phát triển thêm một trung đội nữa – Trung đội cứu quốc quân III. Ngày 25 – 2 – 1944, lễ thành lập trung đội cứu quốc quân III được tổ chức trọng thể tại khu rừng Khuổi Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang). Trung đội có 30 cán bộ, chiến sĩ. Ở Cao Bằng, khắp nơi trong tỉnh sôi nổi chuẩn bị khởi nghĩa, thành lập thêm các đội tự vệ vũ trang, đội du kích, mở liên tiếp các lớp huấn luyện quân sự, chính trị…Khu căn cứ được mở rộng ra các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng cử ra 19 đội xung phong “Nam tiến” gặp đội “Bắc tiến” của cứu quốc quân ở chợ Đồn (Bắc cạn). hai trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai đã được nối liền với nhau bằng một hành lang chính trị, những căn cứ liên đoàn. Để đẩy mạnh hơn nữa việc kởi nghĩa, ngày 7 – 5 – 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi nghĩa”. Ngày 10 – 8 – 1944, kêu gọi toàn dân “sắm vũ khí, đuổi thù chung”. Đáp lại kêu gọi của Đảng và Việt Minh, nhân dân khắp nơi góp tiền mua vũ khí, ra sức huấn luyện quân sự, củng cố và phát triển đội tự vệ. Tháng 10 – 1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào vùng Vũ Nhai (Thái Nguyên). Cấp ủy Đảng địa phương phát động quần chúng khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khi chưa có thời cơ, làm cho lực lượng cách mạng bộc lộ sớm, bị cô lập và tổn thất lớn. thường vụ Trung ương Đảng đã nghiêm khắc phê bình lãnh đạo Đảng bộ địa phương và kịp thời chỉ thị chuyển hướng hoạt động để bảo toàn lực lượng. Cũng trong thời gian này, liên tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong phạm vi 3 tỉnh. Khi công việc chuẩn bị nổi dậy hoàn thành, Hồ Chí Minh từ trung quốc trở lại Cao Bằng, đã quyết định hoãn, vì kế hoạch đó “mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục" [ 10; 129]  Hồ Chí Minh đã nhận định: “bây giờ thời kì cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kì toàn dân khởi nghĩa chưa tới. nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị không đủ để đấy mạnh phong trào đi tới. nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ pahỉ từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. phải tìm ra một hình thức thích hợp thì mới có thế đấy manh phong trào tiến lên.[10;130]  Người và Trung ương Đảng ra “Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải Phóng quân”. Nó là đội quân tuyên truyền, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Đội có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sắp tới. Thực hiện chỉ thị này, ngày 22 – 12 1944, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân trong khu rừng Sau Cạo nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) Sau ngày thành lập, Đội xuất quân giành được chiến thắng đầu tiên, tiêu diệt gọn hai đồn Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng) trong hai ngày 25 và 26 – 12 – 1944. Song song với công tác xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa, Đảng cũng tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng, nhằm chống lại văn hóa, tư tưởng phản động của Nhật – Pháp và tay sai, không để ảnh hưởng đến quần chúng. Đồng thời Đảng tuyên truyền, phổ biến văn hóa, tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng. Nhiều tờ báo của Đảng và Việt Minh lần lượt ra đời: Giải phóng, Cờ giải phóng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Chặt xiềng, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập…Ngay trong một số nhà tù đế quốc, các chiến sĩ cộng sản cũng ra báo như Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ chu), Dòng sông cong (Bá vân). Việt Minh còn cử cán bộ hoạt động công khai, nữa công khai trong lĩnh vực văn hóa, tư tưởng để tổ chức, đoàn kết, hướng dẫn trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, hướng họ tham gia vào sự nghiệp giái phóng dân tộc. Năm 1943, Đảng đưa ra “Đề cương văn hóa Việt Nam”. Đề cương vạch rõ tính chất phản động trong chính sách văn hóa nô dịch ngu dân của Pháp – Nhật, nêu lên tầm quan trọng của văn hóa cách mạng. Văn hóa mới Việt Nam mang tính chấtdân tộc, dân chủ, xây dựng trên 3 nguyên tắc cơ bản, khoa học, dân tộc và đại chúng. Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời và tham gia mặt trận Việt Minh. Đảng còn vận động một số tư sản, trí thức yêu nước, tiến bộ thành lập Đảng dân chủ Việt Nam. Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời tháng 6 – 1944 và đã gia nhập Việt Minh. Đảng Dân chủ Việt Nam và hội văn hóa cứu quốc đã tích cực hoạt động góp phần mở rộng khối đại doàn kết dân tộc, đóng góp vào công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxLịch sử Việt Nam từ 1919-1945 (Giáo trình).docx