Không dừng lại ở loại hình kịch nói, sự tiếp nhận kịch Tào Ngu ở Việt Nam còn
diễn ra trong đời sống của một loại hình sân khấu đặc trưng của vùng Nam bộ Việt Nam
– sân khấu cải lương. Sự tiếp nhận gắn liền với một vấn đề: Vấn đề “cải lương hóa” kịch
bản kịch nói. “Cải lương hóa” kịch bản kịch nói mà chúng tôi đặt ra ở đây thực ra có bản
chất là sự chuyển thể tác phẩm kịch nói sang loại hình cải lương. Sở dĩ chúng tôi không
dùng “vấn đề chuyển thể” bởi vì chúng tôi quan niệm quá trình chuyển thể là một bình
diện chuyển ngữ văn hóa loại hình nghệ thuật. Mà tiêu chí phân loại nghệ thuật xưa nay
vẫn lấy chất liệu tạo dựng làm cơ sở phân chia. Theo đó, văn học là nghệ thuật của ngôn
từ, âm nhạc là nghệ thuật của âm thanh, điện ảnh là nghệ thuật của hình ảnh và những
hiệu ứng hình ảnh, hội họa là nghệ thuật của màu sắc - đường nét, và sân khấu là nghệ
thuật của sự trình diễn. Nói như vậy, hoạt động chuyển thể chính là công tác đem một tác
phẩm thuộc loại hình nghệ thuật này biến đổi thành một loại hình nghệ thuật khác. Tức là
hình thái biểu hiện ở đây đi từ ngôn ngữ biểu hiện này sang biểu hiện ngôn ngữ khác.
Trong khi đó, cả kịch nói lẫn cải lương đều thuộc phạm vi nghệ thuật sân khấu, nên cách
đặt “vấn đề chuyển thể” là không phù hợp. Do vậy, chúng tôi chỉ xem xét việc biến đổi
ngôn ngữ của tác phẩm kịch thành tác phẩm cải lương ở mức độ “cải lương hóa” kịch bản
kịch nói mà thôi.
11 trang |
Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 1197 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lịch sử, văn hóa - Vấn đề tiếp nhận kịch tào ngu ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1/11
VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN KỊCH TÀO NGU Ở VIỆT NAM
Vương Hoài Lâm1
Đặt vấn đề
Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, mối quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc đã sớm định hình và biểu hiện khăng khít với nhau trên nhiều phương diện đời
sống văn hóa, văn học. Từ thời kỳ trung đại, văn học Việt Nam đã học tập và tiếp thu ở
Trung Hoa nhiều luồng tư tưởng triết học - văn học, nhiều hình thức thể loại văn chương.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy tinh hoa của thơ ca Trung Hoa thời trung đại là thơ
Đường luật đã được vận dụng rộng rãi bởi nhiều thế hệ văn nhân Việt Nam. Trong đó, có
những sáng tác đảm bảo tính chuẩn mực thi luật gốc mẫu, song cũng có những hình thức
sáng tạo riêng dựa theo phong cách cá nhân cũng như thể hiện tinh thần dân tộc. Văn học
cổ điển Việt Nam càng không thể không công nhận ảnh hưởng của các thể văn xuôi
Trung Quốc như Phú, Chiếu, Biểu, Cáo, Hịch, Tựa, Truyền kỳ, Tiểu thuyết chương hồi
đến văn học dân tộc. Không những vậy, ta còn nhận thấy mối quan hệ tiếp biến sâu sắc
của Hý khúc Trung Quốc ở các thời kỳ Nam Tống, Liêu, Kim, đặc biệt là Hý khúc
Nguyên - Minh đến thể loại sân khấu cổ điển dân tộc: Tuồng - Hát bội.
Sự tương giao về mặt loại thể nêu trên cho ta thấy tác động ảnh hưởng qua lại và
mối liên hệ mật thiết giữa hai nền văn học Việt Nam - Trung Quốc trên cả ba phương
diện: thơ, văn xuôi và kịch văn học. Tuy nhiên, trong sinh hoạt học thuật và nghiên cứu
văn học, trước nay vẫn còn tình trạng chú trọng nhiều hai mảng thơ và văn xuôi. Trong
khi đó, kịch văn học, một loại thể văn học khác lại thiếu sự quan tâm thích đáng. Kịch nói
Trung Quốc với tuổi đời gần 100 năm, trong thời kỳ giao lưu mở cửa đã có ít nhiều ảnh
hưởng đến sự sôi động của kịch nói dân tộc. Đó là một tình trạng đáng để lưu tâm tìm
hiểu.
1
NXB Văn hóa – Văn nghệ TP.HCM
2/11
Vấn đề tiếp nhận kịch Tào Ngu ở Việt Nam là những nghiên cứu phác thảo ban đầu,
về giá trị và tầm ảnh hưởng của kịch tác gia Tào Ngu - một trong những ngọn cờ tiên
phong của văn học kịch Trung Quốc hiện đại - đối với nền kịch nói Việt Nam.
Kịch tác gia Tào Ngu trong tiến trình văn học kịch Trung Quốc hiện đại
Kịch tác gia Tào Ngu (1910 - 1996) là một nhà nghiên cứu, một nhà cách tân sân
khấu hiện đại của Trung Quốc. Ông được mệnh danh là “Shakespeare của Trung Hoa”.
Nhiều kịch bản văn học của ông đã đi sâu vào lòng bao thế hệ khán giả Trung Quốc cũng
như trên thế giới. Trong đó, Lôi vũ (雷雨 - 1933) được xem là đỉnh cao nghệ thuật kịch
nói hiện đại Trung Quốc, được công diễn nhiều nhất trong các thời kỳ.
Tài năng và sức sáng tạo sâu rộng của Tào Ngu trong lĩnh vực văn học kịch Trung
Quốc hiện đại là kết quả của sự hun đúc nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Từ thời
niên thiếu, Tào Ngu đã sớm tiếp xúc với nghệ thuật sân khấu truyền thống và bộc lộ
những thiên bẩm sân khấu đầy tiềm năng. Thời Trung học ông từng tham gia hoạt động
của đoàn Tân kịch Trung học Nam Khai, tổ chức cách tân sân khấu theo khuynh hướng
Tây phương, hoạt động vững mạnh ở miền bắc Trung Quốc. Vai trò của một người diễn
viên đã trang bị cho Tào Ngu có được những nhận thức sắc bén về đời sống sân khấu
rộng lớn của một nhà soạn kịch.
Sau đó, khi theo học Văn học phương Tây ở Đại học Thanh Hoa - Bắc Kinh. Tào
Ngu say mê thưởng thức các tác phẩm kịch của những kịch tác gia vĩ đại trên thế giới
như Aeschylus, Shakespeare, Chekhov, Henrik Ibsen, George Bernard Shaw và Eugene
O’ Neill. Ông đặc biệt ngưỡng mộ lý tưởng dùng kịch nói như là một công cụ để phơi
bày hiện thực xã hội của các nhà soạn kịch trên và hướng bản thân theo khuynh hướng đó
để xây dựng những tác phẩm đầu tay của mình.
Xuất thân trong một gia đình phong kiến suy sụp, bản thân từng trải qua những
biến động thăng trầm của lịch sử, công thêm một tâm hồn bén nhạy mẫn cảm với những
biến đổi của thời cuộc, ông có điều kiện “mắt thấy tai nghe” hiện thực cực kỳ hủ bại, thối
nát của xã hội đương thời. Diện mạo ấy đã được ông đưa vào trong những tác phẩm kịch
của mình. Những trăn trở về thời thế, về con người, về đời sống nhân văn đã nhanh chóng
3/11
được thai nghén và cho ra đời kiệt tác Lôi vũ (雷雨 - 1933) và theo sau đó là những kịch
bản có nội dung sâu sắc như Nhật xuất (日出 - 1935), Nguyên dã (原野 - 1936), Thuế
biến (蜕变 - 1940), Bắc Kinh nhân (北京人 - 1941), vở kịch chuyển thể từ tiểu thuyết
Kích lưu tam bộ khúc của Ba Kim: Gia (家 - 1942)
Khởi nguồn văn học kịch Trung Quốc là loại hình sân khấu kịch hát truyền thống
đặc trưng: thể loại hý khúc. Nghệ thuật sân khấu hý khúc Trung Quốc là một loại hình
nghệ thuật có bề dày lịch sử lâu đời gần 800 năm thăng trầm, không ngừng biến đổi. Đầu
thế kỷ XX, do đế quốc Đại Thanh đang trên đường suy tàn, một loạt những nguyên nhân
khách quan và chủ quan đã tạo điều kiện cho kịch nói phương Tây thâm nhập vào đời
sống văn nghệ Trung Quốc. Trong sự va chạm quyết liệt giữa văn hóa Trung Quốc và
phương Tây, một hiện tượng văn học nghệ thuật nảy sinh như biểu hiện của một hình
thức quá độ, đó là sự xuất hiện của “kịch văn minh”. Dần dần “kịch văn minh” tạo tiền đề
cho sự ra đời của tân kịch “Ngũ Tứ”. Năm 1928, nhà soạn kịch Hồng Thâm đã định danh
tân kịch này là “thoại kịch” (tức kịch nói). Sự xuất hiện của kịch nói hiện đại đã xác lập
một nền văn học kịch hiện đại trong đó kịch nói đóng vai trò chủ thể.
Là một kịch tác gia trưởng thành từ những ngày đầu kịch nói Trung Quốc ra đời,
Tào Ngu đã đóng vai trò không nhỏ trong tiến trình văn học kịch hiện đại Trung Quốc.
Với những tác phẩm kịch của mình, Tào Ngu đã tham gia vào việc định hình và phát triển
một nền văn học kịch mang dáng dấp Trung Hoa, có ý nghĩa hiện thực sâu rộng.
Kịch Tào Ngu trong hoạt động dịch thuật ở Việt Nam
“Khi nhà văn kết thúc trang viết cuối cùng của tác phẩm thì lúc đó tác phẩm mới
bắt đầu vòng đời của nó, như đứa con được cắt rốn khỏi lòng mẹ”(Huỳnh Như Phương
(2010), Lý luận văn học (Nhập môn), NXB Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ
Chí Minh, tr. 188), đó chính là quan niệm của lý thuyết tiếp nhận hiện đại về tác phẩm
văn học. Ra đời từ những năm thập niên 30, 40 của thế kỷ XX trong bối cảnh xã hội giao
thời ở Trung Quốc, những kịch bản của Tào Ngu đã thực hiện cuộc du hành qua không
gian và thời gian để khẳng định vị trí của mình trong một nền văn học khác. Quá trình
4/11
tiếp thu và tri nhận đó đòi hỏi sự tham gia tích cực của hoạt động dịch thuật văn học nước
ngoài, cụ thể là văn học Trung Quốc, ở Việt Nam.
Bắt đầu sự nghiệp sáng tác kịch nói từ những ngày còn là sinh viên, cho đến cuối
đời tác giả Tào Ngu đã để lại một số lượng không nhỏ các kịch bản văn học. Sau ngày
chiến tranh giải phóng thành công, Nhân dân văn học xuất bản xã đã cho tập họp và xuất
bản một tập Tào Ngu kịch bản tuyển. Tuyển tập này đã lựa chọn ba kịch bản quan trọng
trong sự nghiệp sáng tác của Tào Ngu là Lôi vũ, Nhật xuất và Bắc Kinh nhân. Sự lựa
chọn ngẫu nhiên hai tác phẩm thời kỳ đầu (Lôi vũ - 1933, Nhật xuất - 1935) và một tác
phẩm sáng tác trong giai đoạn cao trào kháng Nhật (Bắc Kinh nhân - 1941) của tác giả đã
cho thấy tầm quan trọng và giá trị tương đồng của cả ba. Tuy nhiên, các kịch bản trên dù
mang những nội hàm nghệ thuật tinh tế, sâu sắc nhưng hẳn là chúng sẽ không thể xác lập
vị trí của mình trong lòng nhiều độc giả, khán giả Việt Nam nếu không có công lao đóng
góp to lớn của dịch giả Đặng Thai Mai và dịch giả Nguyễn Kim Thản. Thông qua hoạt
động dịch thuật có trách nhiệm của các dịch giả, ba kịch bản này đã được đem đến cho
người tiếp nhận Việt Nam, đặt được nền tảng về chất lượng nội dung trong tổng quan văn
học nước ngoài ở Việt Nam.
Giáo sư Đặng Thai Mai là một nhà cách mạng, nhà nghiên cứu đồng thời cũng là
một nhà văn hóa có sự quan tâm đặc biệt đối với nền văn học - nghệ thuật Trung Quốc,
nhất là nền văn học mới sau cuộc vận động Ngũ Tứ (1919). Bởi lẽ, nền văn học thời kỳ
này là một bộ phận hữu cơ trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng do giai cấp vô sản lãnh
đạo. Giới thiệu văn học Trung Quốc từ Ngũ Tứ vận động chính là cách mà người chiến sĩ
Đặng Thai Mai trình bày quan điểm của giai cấp vô sản về văn học và cách mạng trên
báo chí công khai.
Từ những luận giải nêu trên, chúng ta đã ngầm đoán định được những động cơ
tiếp nhận của dịch giả Đặng Thai Mai khi lựa chọn kịch Tào Ngu để dịch và giới thiệu tại
Việt Nam. Chỉ riêng kịch bản Lôi vũ, dịch giả Đặng Thai Mai đã có đến hai lần đọc,
chỉnh lý và viết lời nói đầu cho bản dịch. Tương tự thế, kịch bản Nhật xuất của Tào Ngu
cũng đã được ông dịch, chỉnh lý và viết lời nói đầu. Đồng thời ông còn đảm nhiệm vai trò
5/11
duyệt và viết lời giới thiệu cho kịch bản Người Bắc Kinh (Bắc Kinh nhân) mà dịch giả
Nguyễn Kim Thản đã phiên dịch.
Khoảng cuối năm 1955, trong dịp được tham gia cùng đoàn nhà văn, nhà báo
Việt Nam sang thăm Trung Quốc, dịch giả Đặng Thai Mai đã có điều kiện gặp gỡ, đối
thoại với chính nhà soạn kịch Tào Ngu tại Bắc Kinh. Cuộc gặp gỡ này đã góp phần giúp
cho dịch giả tiệm cận được với tư tưởng, thiên hướng sáng tạo của tác giả Tào Ngu. Đây
chính là một kênh giao lưu thiết thực để Đặng Thai Mai có thể hình dung chính xác hơn
nữa chân trời đón đợi mà Tào Ngu cụ thể hóa trong những kịch bản của mình, giúp kết
quả của thao tác phiên dịch đạt hiệu quả cao hơn trong các lần chỉnh lý.
Dưới góc độ lý thuyết tiếp nhận, khi dịch kịch bản Lôi vũ, lẫn Nhật xuất Đặng
Thai Mai phải đảm bảo quy tắc sự “song trùng thân phận”. Theo đó, dịch giả tất yếu phải
đối diện cùng lúc với hai lần tiếp nhận. Thứ nhất là dịch giả phải tham gia thể nghiệm vai
trò người đọc tiềm ẩn của tác giả, tìm kiếm một tần số cộng hưởng tinh thần với tác giả,
để phát hiện và chuyển tải được ý tưởng của nguyên tác vào trong bản dịch. Thứ hai, dịch
giả phải định hướng được tầm đón của công chúng. Bởi “việc họ chọn dịch tác phẩm nào
thể hiện hứng thú, mối quan tâm không chỉ của họ mà cả của công chúng” (Trần Thị
Quỳnh Nga (2010), Tiếp nhận văn xuôi Nga thế kỷ XIX ở Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà
Nội, tr. 13).
Trong các bản dịch của Đặng Thai Mai, bút pháp nghệ thuật ở thời kỳ đầu của
Tào Ngu hiện ra rõ ràng. Ra đời trong khoảng thời gian còn là sinh viên năng lực phác
họa của tác giả còn hằn sâu dấu vết của văn chương. Trong Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật
kịch Tào Ngu, Lưu Thu Hương đã từng đánh giá: “kịch bản của Tào Ngu vừa thích hợp
để diễn xuất, vừa thích ứng với người đọc là những áng văn chương, những tác phẩm
văn học đích thực” (Lưu Thu Hương (2006), Nghệ thuật kịch Tào Ngu, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội, tr. 19-20).
Về phong cách dịch, ngôn ngữ dịch giả sử dụng hoàn toàn thuần chất Bắc bộ. Từ
địa phương đậm đặc tính vùng miền. Trong một sự ngẫu nhiên, chất “bắc” lại phù hợp
hơn cả với hai kịch bản vốn lấy bối cảnh miền Bắc Trung Quốc. Tùy theo từng bối cảnh,
6/11
từng đối tượng sử dụng, trong mỗi kịch bản, dịch giả đã có sự linh hoạt dịch trung thành
hay dịch thoát ý sao cho bản dịch đạt được hiệu quả chuyển tải kịch bản gốc cao nhất.
“Vở kịch đã làm sôi nổi dư luận lên một dạo. Làng kịch của ta vốn rời rạc, bỗng
hoạt động hẳn lên như một con bệnh được tiếp máu. Tôi vẫn thường nói với mình rằng,
sở dĩ công chúng Việt Nam hoan nghênh nhiệt liệt Tào Ngu như thế là có phần đóng góp
của ông Đặng Thai Mai. Và phần đóng góp đó không phải là nhỏ”. Đó là những nhận xét
của Giáo sư Trương Chính khi bàn về vở kịch Lôi vũ. (Dẫn theo Nguyễn Văn Hiệu, “Tìm
hiểu nghiên cứu, giới thiệu văn học Trung Quốc hiện đại ở Việt Nam trước Cách mạng
tháng Tám 1945”).
Năm 2006, nhà xuất bản Sân khấu xây dựng một kế hoạch và cho ra mắt Tủ sách
kiệt tác sân khấu thế giới. Trong đó bao gồm 100 tác phẩm sân khấu, có ảnh hưởng lớn
không chỉ về sân khấu mà còn đến sự phát triển văn học nghệ thuật Việt Nam. Trong số
những tác phẩm sân khấu hiện đại Trung Quốc được nêu tên trong Tủ sách, hai tác phẩm
của Tào Ngu là Lôi vũ và Nhật xuất cũng được vinh dự giới thiệu, thông qua hai bản dịch
của dịch giả Đặng Thai Mai.
Chính tầm ảnh hưởng và sức sống dài lâu đó của hai bản dịch đã cho thấy hiệu quả
sự tiếp nhận kịch Tào Ngu trong lòng công chúng Việt Nam.
Tương tự như thế đối với kịch bản Bắc Kinh nhân, thông qua việc phân tích những
sáng tạo thẩm mỹ của bản dịch, chúng ta vẫn xác định được vai trò “song trùng thân phận”
của dịch giả dựa trên góc độ lý thuyết tiếp nhận.
Tuy nhiên, riêng với bản dịch Bắc Kinh nhân này, chúng tôi còn đề xuất thêm
nhân tố quán tính của sự tiếp nhận những bản dịch trước (Lôi vũ và Nhật xuất). Như vậy,
chúng tôi có cơ sở tin rằng Nguyễn Kim Thản dịch Bắc Kinh nhân cũng có phần dựa trên
sự kế thừa hoạt động dịch của Đặng Thai Mai ở Lôi vũ và Nhật xuất. Trong thực tế, bản
dịch này được chính Giáo sư Đặng Thai Mai duyệt, vì vậy dấu ấn tiếp nhận của Đặng
Thai Mai không thể không có.
Trong bối cảnh lịch sử những năm 40, 50 của thế kỷ trước, kịch nói cũng như văn
học Việt Nam thường chú ý đến mặt nội dung của tác phẩm nói được điều gì, chứ không
quan tâm nhiều đến mạch nghệ thuật trừu tượng của tác phẩm. Đó chính là lý do vì sao
7/11
Bắc Kinh nhân ra đời từ năm 1941, năm 1955 giáo sư Đặng Thai Mai đã có nguyên tác
kịch bản trong tập Tào Ngu kịch bản tuyển, nhưng mãi đến năm 1963 mới có bản dịch
xuất hiện ở Việt Nam.
Hơn nữa, kịch bản Bắc Kinh nhân phức tạp hơn Lôi vũ và Nhật xuất ở chỗ kịch
bản này chứa đựng khá nhiều những nhân tố biểu tượng thuộc loại thể kịch văn học. Lý
thuyết tiếp nhận cho rằng loại hình tác phẩm được tiếp nhận quyết định quan trọng đến
phương thức tiếp nhận. Như vậy, tiếp nhận kịch bản Bắc Kinh nhân còn phải chú trọng
giá trị của hệ thống những yếu tố mang đặc trưng động hình hoá, trực quan hóa của loại
thể kịch văn học.
Về phong cách dịch, bản dịch vẫn đậm dấu ấn Bắc bộ, nhưng đó lại là màu sắc
Bắc bộ hiện đại, vốn từ đã thuộc vào toàn dân. Ngoài ra, vì không phải là người làm văn
chương nên văn phong của ông gãy gọn, khúc chiết, từ ngữ vận dụng linh hoạt nhưng vẫn
không làm mất đi màu sắc “lý tính” vốn có ở một kịch bản thuần thục của Tào Ngu.
Với ba bản dịch Lôi vũ, Nhật xuất và Bắc Kinh nhân, chúng ta đã nhận thấy một
sự tiếp nhân tinh tế, có chiều sâu, có trách nhiệm về kịch Tào Ngu. Những bản dịch này
đã thực sự khẳng định vai trò không nhỏ của nó trong việc giới thiệu và nghiên cứu kịch
Tào Ngu ở Việt Nam. Hơn thế nữa, điều đó còn là một sự định hướng khả quan cho việc
tiếp nhân các kịch bản có gia trị khác của Tào Ngu.
Kịch Tào Ngu trong đời sống sân khấu ở Việt Nam
“Tác giả mơ thấy một tác phẩm, ông viết ra một tác phẩm thứ hai, các diễn viên
trình diễn một tác phẩm thứ ba và khán giả được xem một tác phẩm thứ tư” (Đình Quang
tuyển dịch (2003), Về mỹ học và văn học kịch (theo các tác giả phương Tây), NXB Sân
khấu, Hà Nội, tr. 16). Từ trước đến nay cả những nhà soạn kịch lẫn những người nghiên
cứu sân khấu đều công nhận mối liên hệ mật thiết giữa kịch bản và nghệ thuật sân khấu.
Tuy nhiên, kịch bản không thể thay thế và bộc lộ được đầy đủ vẻ đẹp của một tác phẩm
kịch như khi được trình diễn trên sân khấu. Và đối tượng kịch Tào Ngu cũng không phải
là một ngoại lệ. Trên sân khấu kịch nói Việt Nam, có lẽ kịch Tào Ngu được biết đến
8/11
nhiều nhất là chính là Lôi vũ. Hầu như mọi cứ liệu về dàn dựng kịch Tào Ngu ở Việt
Nam mà chúng tôi thu thập đều xoay quanh kịch bản Lôi vũ.
Cũng như các quốc gia phương Đông khác, kịch nói bắt đầu du nhập vào Việt
Nam từ đầu thế kỷ XX. Ban đầu, loại hình này được gọi là “kịch Tây”, “kịch Thái Tây”,
“kịch drame”, dần dần mới được chung là “thoại kịch” (kịch nói), để phân biệt với các
loại hình kịch hát bản địa. Sở dĩ có tên gọi “Thái Tây” vì kịch nói Việt Nam ra đời, về cơ
bản, trên nền tảng nghệ thuật sân khấu phương Tây, mà kịch nói là chủ thể. Kịch nói Việt
Nam xem cột mốc năm 1921 là thời điểm khai sinh kịch nói dân tộc, và vở diễn Chén
thuốc độc của Vũ Đình Long là vở kịch đánh dấu sự mở đầu cho kịch nghệ Việt Nam. Từ
đó đến nay, kịch nói Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển dài lâu, qua nhiều giai đoạn,
chặng đường. Sự phân kỳ lịch sử kịch nói cũng tương tự sự phân kỳ văn học sử chia làm
ba thời kỳ cơ bản: trước Cách mạng tháng Tám 1945, 1945 - 1975, từ 1975 đến nay. Đời
sống của kịch bản Lôi vũ trên sân khấu kịch nói Việt Nam bắt đầu nở rộ trong bối cảnh
chặng đường từ năm 1985 (sau Hội diễn sân khấu toàn quốc) đến nay.
Phác họa khung cảnh kịch nói chặng đường này, tác giả Phan Trọng Thưởng
(“Tổng quan tiến trình văn học kịch Việt Nam nửa sau thế kỷ XX”, Nhìn lại văn học Việt
Nam thế kỷ XX, tr. 586) nhận định: “Công chúng bắt đầu đến sân khấu để giải trí chứ
không còn đến với sân khấu để tìm kiếm câu trả lời như trước đây. Thậm chí có người
còn tỏ ra ghẻ lạnh với sân khấu. Trong cơ chế thị trường, trước sức mạnh ồ ạt của của các
loại hình nghệ thuật và các phương tiện thông tin đại chúng khác, sân khấu kịch lâm vào
cuộc khủng hoảng kéo dài suốt 5 năm cuối thế kỷ XX”. Sự tiếp nhận kịch Tào Ngu trên
sân khấu đã diễn ra trong một hoàn cảnh đầy “vấn đề” như thế.
Sự thành công của kịch bản Lôi vũ trên sân khấu Việt Nam thường gắn liền với
một hiện tượng sân khấu nảy sinh vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX: loại
hình sân khấu nhỏ. Một cách khái quát, khái niệm “sân khấu nhỏ” được đặt ra để phân
biệt với loại hình “sân khấu lớn” vẫn tồn tại xưa nay, xuất hiện đầu tiên tại thành phố Hồ
Chí Minh, cụ thể là tại Câu lạc bộ thể nghiệm của Hội Sân khấu thành phố. Về phương
diện hình thức, không gian diễn của sân khấu nhỏ chỉ là một gian phòng. Về phương diện
nghệ thuật biểu diễn, người diễn viên phải tập trung trau dồi diễn xuất để đảm bảo sao
9/11
cho khán giả nghe thật rõ những điều họ nói, thấy thật rõ những cử chỉ nhằm biểu đạt nội
dung, thể hiện nội tâm, tình cảm nhân vật.
Làm công tác đạo diễn cho vở kịch, đạo diễn Hoa Hạ phải đầu tư nhiều vào việc
rút gọn nội dung trong thời lượng một vở kịch hiện đại cho phép. Chủ yếu trong việc thu
gọn chính là lược bớt những đoạn lời thoại dung lượng lớn. Bên cạnh đó, đạo diễn Hoa
Hạ đã có những sáng tạo nghệ thuật hết sức tài tình đối với kịch bản này, đó là sự sân
khấu hóa cuộc tình của Chu Bình và Phồn Y, Chu Bình và Lỗ Tứ Phượng bằng những
đoạn cảnh vũ đạo. Không những vậy, trong kịch bản của Tào Ngu, so với Nhật xuất hay
Bắc Kinh nhân, Lôi vũ chưa có một cái kết kịch tính. Hoa Hạ đã mạnh dạn rút bỏ những
lối “diễn” dông dài mà tăng mức độ dồn dập của sự kiện cuối vở kịch, tạo độ căng tuyệt
đối cho một kết thúc hấp dẫn. Chính ý định táo bạo, đúng đắn đó đã giúp kịch bản thành
công và có sức gợi cao, tạo dấu ấn sâu đậm ở người xem.
Những thành công trong khâu dàn dựng của đạo diễn và khâu diễn xuất của người
diễn viên mà chúng tôi trình bày ở trên cho thấy con đường tiếp nhận Lôi vũ của đội ngũ
làm công tác chuyển ngữ từ kịch bản sang vở diễn trên sân khấu. Ở đó, chúng ta vừa
nhận thấy sự dung hợp tầm nhìn giữa văn bản tác phẩm với tầm đón của người đọc, theo
quan niệm Mỹ học tiếp nhận hiện đại. Hơn nữa, người đọc cụ thể ở đây (đạo diễn Hoa Hạ
và đội ngũ diễn viên Lôi vũ) đã phát huy được cá tính sáng tạo để bổ sung những điểm
chưa xác định trong kịch bản.
Bên cạnh các phiên bản dàn dựng Lôi vũ trong mô hình sân khấu nhỏ, chúng tôi
còn đi vào khảo sát và mô tả những phiên bản dàn dựng của những nghệ sĩ cải lương, của
nghệ sĩ Việt Nam ở nước ngoài. Thông qua những phiên bản dàn dựng này, chúng tôi
phân tích những điểm hợp lý và chưa hợp lý trên bình diện diễn xuất, dàn dựng do những
khác biệt về tầm đón nhận của mỗi đối tượng tạo ra. Đặc biệt, mặc dù từ trước đến nay,
kịch Tào Ngu chưa bao giờ được giới thiệu đến cho sinh viên, học sinh ở các cấp Phổ
thông cũng như môi trường Đại học. Tuy nhiên, trong qua trình tìm hiểu chúng tôi nhận
thấy một tín hiệu đáng mừng là kịch Tào Ngu đang dần dần chiếm được sự quan tâm nhất
định của sinh viên Việt Nam.
10/11
Không dừng lại ở loại hình kịch nói, sự tiếp nhận kịch Tào Ngu ở Việt Nam còn
diễn ra trong đời sống của một loại hình sân khấu đặc trưng của vùng Nam bộ Việt Nam
– sân khấu cải lương. Sự tiếp nhận gắn liền với một vấn đề: Vấn đề “cải lương hóa” kịch
bản kịch nói. “Cải lương hóa” kịch bản kịch nói mà chúng tôi đặt ra ở đây thực ra có bản
chất là sự chuyển thể tác phẩm kịch nói sang loại hình cải lương. Sở dĩ chúng tôi không
dùng “vấn đề chuyển thể” bởi vì chúng tôi quan niệm quá trình chuyển thể là một bình
diện chuyển ngữ văn hóa loại hình nghệ thuật. Mà tiêu chí phân loại nghệ thuật xưa nay
vẫn lấy chất liệu tạo dựng làm cơ sở phân chia. Theo đó, văn học là nghệ thuật của ngôn
từ, âm nhạc là nghệ thuật của âm thanh, điện ảnh là nghệ thuật của hình ảnh và những
hiệu ứng hình ảnh, hội họa là nghệ thuật của màu sắc - đường nét, và sân khấu là nghệ
thuật của sự trình diễn. Nói như vậy, hoạt động chuyển thể chính là công tác đem một tác
phẩm thuộc loại hình nghệ thuật này biến đổi thành một loại hình nghệ thuật khác. Tức là
hình thái biểu hiện ở đây đi từ ngôn ngữ biểu hiện này sang biểu hiện ngôn ngữ khác.
Trong khi đó, cả kịch nói lẫn cải lương đều thuộc phạm vi nghệ thuật sân khấu, nên cách
đặt “vấn đề chuyển thể” là không phù hợp. Do vậy, chúng tôi chỉ xem xét việc biến đổi
ngôn ngữ của tác phẩm kịch thành tác phẩm cải lương ở mức độ “cải lương hóa” kịch bản
kịch nói mà thôi.
Thông qua sự phân tích về tác động tương quan, tương hỗ giữa cải lương và kịch
nói nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng giữa hai loại hình sân khấu này, ngoài mối
liên hệ mật thiết, còn bao hàm trong đó tính độc lập cơ bản về hình thức biểu hiện. Nói
như vậy, “cải lương hóa” kịch bản kịch nói là một hoạt động đòi hỏi nhiều yếu tố cần và
đủ để nó có thể khả thi. Dựa vào các tiền đề trình bày trên, chúng tôi có thể xác định
những điều kiện cần và đủ đó là biểu hiện tính ổn định tương đối trên ba phương diện
phương thức biểu hiện, hình thái thẩm mỹ và phương thức tiếp nhận.
Trên cơ sở những lập luận trên cũng như phân tích những động năng tiềm ẩn của
kịch bản Lôi vũ, chúng tôi đã trình bày những tiền đề “cải lương hóa” kịch bản vốn đã
“thành danh” trên sân khấu kịch nói này. Tiếp đến chúng tôi khảo sát và mô tả những
phiên bản dàn dựng cải lương Nam và cải lương Bắc để đưa ra một vài nhận định sơ bộ.
Không những vậy, sự tiếp nhận kịch bản Lôi vũ trong sân khấu cải lương còn hé mở một
11/11
hình thức tiếp nhận đặc biệt – tiếp nhận qua kênh gián tiếp là điện ảnh Trung Quốc. Kịch
bản Lôi vũ, với cấu trúc vẫn gọi hấp dẫn của nó đã thu hút đạo diễn nổi tiếng Trương
Nghệ Mưu thực hiện bộ phim Hoàng kim giáp. Với Hoàng kim giáp, kịch bản Lôi vũ của
Tào Ngu từ thời hiện đại đã thực hiện cuộc dịch chuyển bối cảnh lùi về thời Ngũ đại
trong lịch sử Trung Quốc. Lấy ý tưởng từ bộ phim điện ảnh này, soạn giả Phạm Thái
Nguyên và đạo diễn Nguyễn Minh Phương đã dàn dựng bộ DVD cải lương nhan đề Điểu
nhi - Địa ngục môn. Trên thực tế, kịch bản Điểu nhi - Địa ngục môn chỉ mô phỏng hình
thức biểu hiện và không khí xã hội của bộ phim Hoàng kim giáp, còn nội dung cốt truyện,
hệ thống tình tiết không khác kịch bản Lôi vũ là mấy. Tiếp nhận kịch Tào Ngu qua một
kênh trung gian như vậy càng cho thấy tầm ảnh hưởng của kịch và khả năng tìm kiếm
một chân trời đón đợi mới của nó.
Một loạt những hình thức tiếp nhận phong phú nêu trên cho thấy tầm phổ quát
rộng rãi của kịch Tào Ngu trên sân khấu Việt Nam. Chỉ riêng một kịch bản Lôi vũ thôi,
khi bước lên sàn diễn Việt Nam đã biến hóa thành nhiều diện mạo khác nhau. Điều đó
khẳng định khả năng biểu hiện của kịch Tào Ngu trên phương diện đời sống sân khấu
không thua kém gì kịch bản dịch của ông.
Kết luận
Trong tiến trình kịch nghệ Trung Quốc, kịch tác gia Tào Ngu xuất hiện và nổi lên
như một hiện tượng đặc biệt. Ông là nhà cách tân sân khấu, có nhiều tâm huyết đóng góp
cho nền sân khấu hiện đại Trung Quốc. Vượt ra khỏi ranh giới đại Trung Hoa, kịch Tào
Ngu với một nội lực tiến bộ, đã nhanh chóng lan ra phạm vi ảnh hưởng rộng lớn hơn.
Một mặt, kịch Tào Ngu đặc trưng cho dấu ấn thời đại lịch sử - xã hội Trung Quốc, một
mặt nó có tầm phổ quát sâu sắc đối với nhiều bối cảnh xã hội khác, trong đó có Việt Nam.
Trong quá trình giao lưu giữa văn học Việt Nam và Trung Quốc giữa thế kỷ XX,
kịch Tào Ngu đã du nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên, do nhiều lý do chủ quan và khách
quan, những sáng tác của kịch tác gia trẻ này chưa nhận được sự quan tâm thích đáng.
Vận dụng lý thuyết tiếp nhận trong nghiên cứu tiếp nhận kịch Tào Ngu đã bù đắp nhiều
thiếu sót khi nhìn nhận hiện tượng văn học tiến bộ này trước nay.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 07/10/2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_de_tiep_nhan_kich_tao_ngu_o_viet_nam_6209.pdf