Sau khi đàn áp Công xã Pari, các thế lực bảo hoàng âm mưu khôi phục nền quân
chủ. Hiến pháp năm 1875 thừa nhận chính thể cộng hoà với đa số hơn 1 phiếu
(353/352) chứng tỏ cuộc đấu tranh giữa hai phái diễn ra hết sức gay gắt. Nền cộng hoà
thứ 3 được thiết lập và tồn tại cho đến tháng 6 năm 1940. Đặc điểm của nó là tình trạng
khủng hoảng nội các thường xuyên xảy ra (1873-1890 phải thay đổi tới 34 lần). Tư bản
tài chính nắm quyền, phe bảo hoàng đòi cải biến hiến pháp âm mưu lật đổ nền cộng hoà
càng làm cho tình trạng khủng hoảng chính trị thêm gay gắt.
Nhiều vụ bê bối của chính phủ Pháp đã xảy ra làm cho nền cộng hoà nghiêng ngả.
Năm 1887, nghị viên Uynsơn (Willson) con rể Tổng thống Grêvy lôi kéo các quan chức
chính phủ tham gia vụ mua bán huân chương giả bị vỡ lở buộc Tổng thống phải từ
chức. Năm 1892, công ty Panama tuyên bố vỡ nợ, các quan chức trong chính phủ ít
nhiều dính líu làm cho nội các Pháp bị khủng hoảng. Từ năm 1894 đến năm 1906, phe
dân chủ, tiến bộ giành được thắng lợi lớn thông qua vụ án Đrâyphút (Dreyfus).
Thắng lợi của phe dân chủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho phe cấp tiến (cánh tả của
phe cộng hoà) giành thắng lợi và lên cầm quyền (1906 –1909). Để xoa dịu phong trào
đấu tranh của quần chúng, chính phủ cấp tiến của G. Clêmăngxô (Giorge Cle,menseau
1841-1929) buộc phải ban bố một số chính sách : xây dựng nền cộng hoà dân chủ, thủ
tiêu quyền lợi chính trị của giáo hội Thiên chúa, loại trừ những phần tử bảo hoàng khỏi
quân đội, tuyên truyền tư tưởng phục thù Đức, tiếp tục chính sách mở rộng thuộc địa,
tiếp tay cho Nga hoàng đàn áp phong trào cách mạng Nga.
25 trang |
Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 751 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lịch sử, văn hóa - Đề cương bài giảng lịch sử thế giới cận đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đi quá phạm vi là một hội đồng thành phố. Nước
Pháp là liên bang của hội đồng thành phố và nông thôn tự trị. Họ chống lại việc thành
lập chính quyền tập trung và phản đối chức năng trấn áp kẻ thù. Phe thiểu số lại phân
chia làm 2 phái: phái Hữu phủ nhận sự cần thiết của chuyên chính vô sản và đấu tranh
chính trị; phái Tả cho rằng cần thực hiện triệt để quyền sở hữu xã hội về tư liệu sản
xuất, liên hệ mật thiết với công nhân qua các tổ chức công đoàn, câu lạc bộ dân chủ và
điều chỉnh sự trao đổi bằng cách cho vay nhẹ lãi.
Phe đa số chiếm 2/3 số ghế gồm những người theo tư tưởng Blăng ki và
Giacôbanh Mới. Họ chủ trương hạn chế tối đa quyền sở hữu đại tư sản, củng cố tiểu tư
hữu. Họ chủ trương phải xây dựng một chính quyền tập trung mạnh mẽ trên cơ sở kiên
quyết trấn áp bọn phản cách mạng. Hội đồng Công xã là chính phủ chung của cả nước
Pháp. Tuy nhiên phe đa số lại kém liên hệ với quần chúng nên chủ trương này không trở
thành hiện thực.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 10
Sự tồn tại của các phe phái nói trên đã làm cản trở đến tiến trình của cách
mạng. Trong nội bộ Hội đồng Công xã liên tục diễn ra những cuộc tranh cãi gay gắt làm
cản trở việc thực hiện những đòi hỏi xã hội.
2.3. NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA HỘI ĐỒNG CÔNG XÃ
2.3.1. Về Bộ MÁY NHÀ NƯớC
Sau khi đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, Hội đồng Công xã được
thành lập dựa trên cơ sở dân chủ vô sản là cơ quan tối cao của Nhà nước. Hội đồng
Công xã thực thi quyền lực thông qua 10 uỷ ban do các Uỷ viên của Hội đồng Công xã
đứng đầu. Nhiều ngoại kiều tham gia Hội đồng Công xã như Phrăngken (Frankel) người
Hung, Đômbơrốpxki (Dombropxki), người Ba Lan, E. Đmitriêva người Nga... Mọi
thành viên của Hội đồng Công xã và các uỷ ban đều có thể bị bãi miễn khi không đủ tín
nhiệm. Mức lương của các Ủy viên Hội đồng Công xã đều không được vượt quá mức
lương trung bình của công nhân.
Hội đồng Công xã ban bố sắc lệnh bãi bỏ quân đội thường trực và bộ máy cảnh
sát tư sản thay vào đó là lực lượng vũ trang nhân dân dưới sự chỉ huy của Hội đồng
Công xã. Hội đồng Công xã cũng ra sắc lệnh tách nhà thờ ra khỏi những hoạt động của
Nhà nước, huỷ bỏ ngân sách về tôn giáo.
2.3.2. Về KINH Tế – XÃ HộI :
Hội đồng Công xã giao quyền quản lý các xí nghiệp, nhà máy mà chủ tư bản bỏ
trốn cho công nhân. Ở các nhà máy, xí nghiệp mà chủ tư bản đang làm chủ, Hội đồng
Công xã quản lý chế độ tiền lương công nhân , cấm không được cúp phạt dù dưới hình
thức nào đối với công nhân, cấm làm việc ban đêm (sắc lệnh ngày 20/4/1871).
Hội đồng Công xã ban bố chế độ ngày làm việc 8 giờ và điều chỉnh mức lương
cho công nhân theo năng lực chuyên môn và tính chất công việc.
Hội đồng Công xã quy định giá cả lương thực, thực phẩm và hoãn trả các khoản
nợ trước đây; bãi bỏ dịch vụ cầm đồ, trả lại đồ cầm cho công nhân; thay đổi điều kiện
ăn ở cho người nghèo; bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ; xây dựng các cơ sở giữ trẻ
cho con em công nhân...
Hội đồng Công xã còn chú ý xây dựng khối đoàn kết liên minh với nông dân.
Họ rải 10 vạn tờ truyền đơn bằng khinh khí cầu kêu gọi nông dân đứng về phía công
nhân chốnh kẻ thù chung là giai cấp tư sản. Rất tiếc rằng hành động này không thu được
kết quả vì sự phản tuyên truyền của giai cấp tư sản.
2.3.3. Về VĂN HOÁ GIÁO DụC
Hội đồng Công xã ra sắc lệnh tách nhà thờ ra khỏi hệ thống giáo dục, thay thế
đội ngũ giáo viên là cha cố bằng giáo viên mới, tăng lương cho giáo viên. Hội đồng
Công xã ra sắc lệnh quy định chế độ giáo dục bắt buộc, miễn phí đối với lứa tuổi học
sinh. Ngày 2/5/1871, Hội đồng Công xã quyết định thành lập 2 trường trung học chuyên
nghiệp.
Ngày 21/5/1871, Hội đồng Công xã ra sắc lệnh thủ tiêu việc kinh doanh nghệ
thuật tư nhân và trực tiếp quản lý các công trình, di sản văn hoá cũng như các hoạt động
nghệ thuật để phục vụ đông đảo quần chúng; khuyến khích các nhà văn, nhà thơ, nhạc
sỹ sáng tác những tác phẩm văn học phục vụ cho sự nghiệp của Công xã. Bài Quốc tế ca
do Ơgien Pôchiê sáng tác trong hoàn cảnh ấy.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 11
Những chính sách trên chứng tỏ Hội đồng Công xã Pari là một Nhà nước kiểu
mới của giai cấp vô sản. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan mà
trong một chừng mực nào đó những chính sách ấy chưa được thực hiện và thực thi chưa
đầy đủ.
2.4. SỰ THẤT BẠI CỦA CÔNG XÃ PARI
Khi rút về Vécxây, quân đội tư sản chỉ còn lại có 12.000 người, nhưng quân
cách mạng lại không tiếp tục truy kích nên chúng có thời gian để bổ sung lực lượng và
chuẩn bị phản công.
Ngày 2/4/1871, quân đội tư sản bắt đầu tấn công Pari. Quân đội tư sản có 65 vạn
với phương tiện và chỉ huy tốt hơn, trong khi đó, quân cách mạng có khoảng 40 vạn với
vũ khí và chỉ huy kém hơn. Mặc dù chiến đấu rất dũng cảm nhưng do so sánh tương
quan lực lượng như vậy nên thế trận nghiêng dần về phía kẻ thù. Đến đầu tháng 5, quân
đội tư sản đã chiếm được phần lớn Tây Nam của Pari.
Chính phủ tư sản Pháp được sự giúp đỡ của quân Phổ đang chiếm đóng tại vùng
phía Bắc Pari đã mở rộng phạm vi tấn công. Ngày 20/5/1871, quân đội tư sản mở cuộc
tổng tấn công vào Pari. Các chiến sĩ Công xã đã chiến đấu vô cùng anh dũng cản từng
bước tiến của kẻ thù. Tuần lễ đẫm máu đã diễn ra từ ngày 20 đến ngày 28 tháng 5 kết
thúc bằng sự thất thủ của chiến luỹ cuối cùng của công xã. Một cuộc tàn sát đẫm máu đã
diễn ra. Hàng trăm ngàn chiến sĩ Công xã đã hy sinh anh dũng trong cuộc chiến đấu bảo
vệ sự nghiệp vinh quang của giai cấp công nhân Pari.
3. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA
CÔNG XÃ PARI
3.1. NGUYÊN NHÂN THẤT BẠI
Về khách quan, chủ nghĩa tư bản đang trên đà phát triển, trong khi đó lực lượng
của giai cấp vô sản thế giới chưa thống nhất thành một mặt trận chống chủ nghĩa tư bản.
Do đó, các thế lực tư bả trong và ngoài nước câu kết với nhau để đàn áp phong trào cách
mạng của giai cấp vô sản.
Về chủ quan, giai cấp công nhân Pháp chưa có một chính đảng thống nhất, thiếu
chuẩn bị, rèn luyện, nên chưa ý thức rõ rệt về nhiệm vụ chính trị của mình. Công xã đã
tỏ ra thiếu kiên quyết và rộng lượng với kẻ thù của mình. Những chính sách của Hội
đồng Công xã chưa có hiệu lực và phát huy hết tác dụng trong việc tổ chức và quản lý
xã hội. Vấn đề liên minh công nông được đặt ra nhưng chậm trễ và phản tác dụng....
3.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Sự cần thiết phải xây dựng một chính đảng tiên phong của giai cấp công nhân
được trang bị lý luận sắc bén của chủ nghĩa Mác.
Phải triệt để đập tan bộ máy Nhà nước cũ để xây dựng bộ máy Nhà nước mới
của giai cấp vô sản. Bộ máy nhà nước ấy phải thực hiện đầy đủ, triệt để hai chức năng
trấn áp và xây dựng để gìn giữ chính quyền mới giành được.
Phải không ngừng củng cố và tăng cường khối liên minh công nông vững chắc
làm cơ sở để giành và giữ chính quyền đồng thời tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ
chiến lược và sách lược của cách mạng vô sản.
Ngoài ra còn có thể rút ra những bài học quý báu khác về chiến lược, sách lược,
thời cơ cách mạng, khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng,...
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 12
3.3. Ý NGHĨA LỊCH SỬ
Công xã Pari là cuộc cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản với tư cách là một
lực lượng chính trị độc lập đấu tranh chống giai cấp tư sản vì quyền lợi chính trị của
mình. Chứng tỏ rằng giai cấp vô sản chính là người lĩnh sứ mệnh lịch sử là đào mồ chôn
chủ nghĩa tư bản
Công xã Pari đã sáng tạo ra hình thức chính quyền mới dựa trên cơ sở dân chủ
vô sản – Nhà nước ckiểu mới của giai cấp vô sản vì quyền lợi của nhân dân lao động.
Công xã Pari đã góp phần quan trọng bổ sung vốn thực tiễn trong học thuyết của
chủ nghĩa Mác
Công xã Pari là biểu hiện cao độ về sự gắn bó chặt chẽ giữa tính giai cấp, dân
tộc và thời đại.
CHƯƠNG II
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN CHUYỂN SANG GIAI ĐOẠN ĐẾ QUỐC CHỦ NGHĨA
GIAI ĐOẠN 1870 –1914
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN 1870 –1914
1.1.1. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Về công nghiệp:
- Công nghiệp luyện kim, do việc sử dụng lò Bétxơme (Bessme) và lò Máctanh
(Martin) nên sản lượng thép tăng từ 250 ngàn tấn năm 1870 lên tới 28,3 triệu tấn
năm 1900 và 76 triệu tấn năm 1903, gang từ 41 triệu tấn năm 1900 lên tới 79 triệu
tấn năm 1903.
- Công nghiệp năng lượng, nguồn năng lượng than được khai thác ngày càng tăng từ
700 triệu tấn năm 1900 lên đến 1.300 triệu tấn năm 1903. Việc sử dụng nguồn điện
năng từ nước (thuỷ điện) cũng được đẩy mạnh song song với việc thiết lập hệ thống
tải điện đi xa. Một nguồn năng lượng mới là dầu hoả được phát hiện và sử dụng tạo
điều kiện cho các ngành kinh tế phát triển. Năm 1870, tổng sản lượng dầu hoả toàn
thế giới là 0,8 triệu tấn đến năm 1903 là 52 triệu tấn
- Các ngành công nghiệp khác như hoá học mới ra đời sản xuất thuốc nhuộm, thuốc
trừ sâu, phân bón, thuốc nổ...;ngành chế tạo máy, ô tô,... cũng rất phát triển. Năm
1900 cả thế giới có 37 ngàn chiếc ô tô thì đến năm 1903 đã lên tới 485 ngàn chiếc
các loại.
- Ngành giao thông vận tải tiến bộ nhanh chóng nhất là trong lĩnh vực đường sắt.
Năm 1900, tổng chiều dài đường sắt thế giới là 800 ngàn km thì đến năm 1903 đã
lên đến 1,1 triệu km. Tàu biển ngày càng hiện đại với trọng tải ngày càng lớn chạy
bằng máy móc.
- Ngành giao thông liên lạc phát triển với những phát minh quan trọng như radio, vô
tuyến điện, điện báo, điện thoại,...
Về nông nghiệp: Do sự phát triển như vũ bão của công nghiệp, nông nghiệp cũng có
những bước phát triển đáng kể nhưng so với công nghiệp thì chậm chạp hơn nhiều lần.
Những tiến bộ mới như mở rộng diện tích canh tác, phương pháp canh tác, chuyên canh
hoá, cơ giới hoá, phân bón, giống cây trồng, thuốc trừ sâu,...đã tạo ra một nguồn của cải
to lớn đủ chi dùng cho con người và sản xuất.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 13
Về thương nghiệp: Sự phát triển công nông nghiệp đã thúc đẩy sự trao đổi giao lưu
kinh tế. Cả thế giới bị cuốn vào hoạt động của nền kinh tế thị trường mà hàng hoá chính
là sản phẩm công nghiệp, nông nghiệp và thậm chí cả tiền tệ. Việc xuất khẩu tư bản thu
được một nguồn lợi nhuận to lớn nên trở thành một hoạt động kinh tế nổi bật của chủ
nghĩa tư bản giai đoạn này.
1.1.2. SỰ HÌNH THÀNH CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
Sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới những cuộc khủng hoảng
kinh tế trầm trọng không những ở mỗi quốc gia mà còn trên phạm vi toàn thế giới.
Đứng trước tình hình đó, chủ nghĩa tư bản đã tự điều chỉnh và hình thành các tổ chức
độc quyền trong từng ngành sản xuất đến nhiều ngành có tầm cỡ từ quốc gia đến khu
vực và vươn tới phân chia toàn thế giới.
Các hình thức tổ chức độc quyền phổ biến như : Cácten là tổ chức hợp nhất nhằm
phân chia thị trường tiêu thụ, xác định quy mô sản xuất và giá cả); Xanhđica là tổ chức
hợp nhất nhằm bán hàng chung cho các công ty tư bản; Tơrớt là tổ chức hợp nhất hoàn
toàn quyền sở hữu xí nghiệp; Côngxoócxiom là tổ chức hợp nhất nhằm thống nhất trên
cơ sở tài chính chung phụ thuộc vào một nhóm lũng đoạn.
V.I. Lênin đã phân chia 3 giai đoạn hình thành chủ nghĩa đế quốc như : từ 1860 –
1880 là giai đoạn tự do cạnh tranh phát triển cực thịnh, từ 1873 đến 1893 là giai đoạn
hình thành các tổ chức độc quyền nhưng không ổn định và phổ biến, từ 1893 đến 1903
là thời kỳ xác lập chủ nghĩa đế quốc.
Nền sản xuất trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa được xã hội hoá ở mức độ rất cao
nhưng lại mâu thuẫn gay gắt với quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất làm cho
những mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản phát triển không thể điều hoà được.
1.2. NĂM ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
V.I.Lênin là người đã phân tích một cách khoa học và nêu lên bản chất, địa
vị lịch sử của chủ nghĩa đế quốc. Người đã vạch ra 5 đặc trưng cơ bản sau :
1.2.1. Sự tập trung sản xuất và tư bản đạt tới mức độ phát triển rất cao, tạo thành những tổ chức
lũng đoạn có một vai trò quyết định trong sinh hoạt kinh tế.
1.2.2. Sự dung hợp tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp thành tư bản tài chính.
1.2.3. Việc xuất khẩu tư bản trở thành đặc biệt quan trọng.
1.2.4. Sự hình thành những khối liên minh tư bản độc quyền chia nhau thế giới.
1.2.5. Việc các cường quốc tư bản đã chia nhau xong đất đai trên thế giới.
Ở mỗi nước do điều kiện lịch sử và kinh tế khác nhau đã chuyển sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa với những nét riêng biệt. Nước Mỹ là sự hình thành cácTơrớt khổng
lồ với những tập đoàn tài chính giàu sụ, nước Anh là đế quốc thực dân, nước Pháp là đế
quốc cho vay nặng lãi, nước Đức là đế quốc tư sản gioongke, Nga và Nhật là đế quốc
phong kiến quân sự.
2. NƯỚC ANH 1870 - 1914
2.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ
2.1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1870 –1900
- Công nghiệp, nước Anh từ vị trí hàng đầu dần dần tụt xuống vị trí thứ 3 thế giới.
Nguyên nhân của tình trạng này là vì : các cuộc khủng hoảng kinh tế 1878-1879,
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 14
1882-1887,1890-1894,...; nền kỹ thuật công nghệ lạc hậu; hệ thống thuộc địa rộng
lớn thu hút nguồn vốn đầu tư tư bản của Anh; tốc độ phát triển của các nước tư bản
khác vượt xa Anh;... Sản lượng thép của Anh năm 1880 là 1,3 triệu tấn thì đến năm
1900 là 4,9 triệu tấn, tăng 377% trong khi cùng thời gian ấy, sản lượng thép của Đức
tăng 910% và Mỹ là 850%.
- Nông nghiệp Anh cũng trong tình trạng khủng hoảng do những nguyên nhân tương
tự. Gần 60% nhu cầu lương thực, thực phẩm phải nhập khẩu, tỷ lệ dân số giữa nông
thôn và thành thị năm 1891 là 23/77.
- Thương nghiệp Anh phát triển chậm chạp hơn so với các nước khác. Nếu trong 20
năm cuối thế kỷ XIX, xuất cảng của Anh chỉ tăng 8% thì Đức tăng 40%, Mỹ tăng
230%. Tuy nhiên, với một hệ thống thuộc địa rộng lớn, anh vẫn giữ được ưu thế về
lĩnh vực này.
- Ngân hàng và hàng hải Anh nhờ có hệ thống thuộc địa rộng lớn vẫn dẫn đầu thế
giới. Đến cuối thế kỷ XIX, Anh vẫn chiếm 48% trọng tải trên biển.
- Sự xuất khẩu tư bản diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Nước Anh giữ vai trò là một kho
hàng và trung tâm tài chính thế giới. Hướng xuất khẩu tư bản của Anh nhằm vào
mọi nơi trên thế giới: năm 1850 là 200 triệu bảng, năm 1875 là 1,1 tỷ bảng và 1900
là gần 2 tỷ bảng, nguồn lời lên tới 90 triệu bảng.
2.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1900-1914.
- Công nghiệp, mặc dù tốc độ phát triển nhanh hơn so với giai đoạn trước nhưng vẫn
chậm hơn các nước khác. Trong giai đoạn này, tỷ lệ sản phẩm công nghiệp Anh
trong tổng sản phẩm công nghiệp thế giới giảm dần: than từ 29,7% còn 21,8%, gang
từ 22,1% còn 13%, ... Địa vị công nghiệp Anh tiếp tục đứng thứ 3 sau Đức và Mỹ.
- Nông nghiệp Anh tiếp tục lạc hậu, sản lượng thấp. Nguồn lương thực, thực phẩm,
nguyên liệu phần lớn trông chờ vào nhập khẩu.
- Thương nghiệp và những hoạt động tín dụng Anh vẫn giữ địa vị hành đầu thế giới.
Đồng bảng Anh vẫn là đồng tiền thế giới.
- Sự tập trung sản xuất và tư bản diễn ra mạnh mẽ trong hầu hết các ngành nhất là
ngân hàng. Năm 1913, 27 nhà ngân hàng sở hữu 85% tổng số tư bản nước Anh. Ở
Luân Đôn có 5 ngân hàng chiếm 40% vốn của cả nước. Thông qua các chi nhánh ở
khắp các nước, các ngân hàng tiến hành xuất khẩu tư bản thu lợi nhuận. Năm 1912,
tư bản Anh thu được 176 triệu bảng từ việc xuất khẩu tư bản.
1.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ
1.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN
Giai cấp tư sản Anh thực hiện quyền lực chính trị của mình thông qua chế độ hai
đảng: Tự do và Bảo thủ.
Đảng Tự do đại diện cho quyền lợi của đông đảo tư sản công thương nghiệp. Đảng
này theo đuổi chính sách tự do buôn bán, nới lỏng quyền tự trị cho Ailen, lương hưu
cho công nhân 65 tuổi để mị dân.
Đảng Bảo thủ đại diện cho lợi ích của trùm công nghiệp nặng, tư sản ngân hàng và
quý tộc ruộng đất. Đảng này chủ trương thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch để bảo vệ
quyền lợi của tư bản Anh, tăng cường cai trị Ailen, đàn áp phong trào công nhân.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 15
Về cơ bản, hai đảng nhất trí trong việc bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản và đối
phó với phong trào công nhân. Sự khác biệt chỉ mang tính hình thức hay quyền lợi bộ
phận. Hai đảng thay nhau nắm quyền thống trị ở nước Anh. Quyền bầu cử sau nhiều lần
cải cách vẫn chỉ giới hạn trong giới những người giàu có (12%).
Phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa Anh diễn ra dưới tác động của nhiều
trường phái tư tưởng khác nhau. Các tổ chức : Liên minh xã hội dân chủ (1884-1890),
Hội Phabiêng (1884), Đảng công nhân độc lập (I.W.P.1893) Công đảng (1905) và nhất
là Đảng xã hội Anh (1911) đã lãnh đạo công nhân đấu tranh. Tuy nhiên, do sự tồn tại
của đội ngũ công nhân quý tộc ( công nhân có kỹ thuật, tay nghề cao được trả lương hậu
hĩnh ) và sự thao túng của chủ nghĩa nghiệp đoàn, các phần tử cơ hội, xét lại mà phong
trào công nhân và xã hội chủ nghĩa Anh còn nhiều hạn chế.
1.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
- Chính sách bành trướng mở rộng thuộc địa, các nhà tư tưởng tư sản Anh luôn đề cao
chính sách này. Năm 1867, Sáclơ Đincơ (Charler Dilker) xuất bản cuốn sách “Một
nước Anh vĩ đại”; năm 1883, Giôn Xinly (John Silly) về “Sự bành trướng của nước
Anh” để tuyên truyền cho sự xâm lược của đế quốc Anh.
Ở châu Á, Anh hoàn thành việc xâm lược Ấn Độ và thi hành chính sách thống
trị trực tiếp ở thuộc địa này từ năm 1858; hoàn thành việc xâm lược và thống trị
Singapo (1819), bán đảo Mã Lai (1890), Mianma (1885), Apganixtan (1880), Bắc
Kalimantan và Tân Ghinê (XIX), đồng thời mở rộng việc chinh phục Trung Quốc.
Ở châu Phi, Anh hoàn thành việc xâm lược Aicập (1882), Xuđăng (1881-
1896), đồng thời xâm chiếm Nigiêria, Xômali, Kênia, Tandania, Uganda, Dandiba;
Anh thực hiện kế hoạch 3C (Cáp – Cairô – Cancútta) nối liền hệ thống thuộc địa
Anh từ Nam Phi tới Ấn Độ.
Ở châu Mỹ, Anh tranh chấp ảnh hưởng với Mỹ và sở hữu một số thuộc địa ở
Guyana, Manvinát, Canada.
Cho tới cuối thế kỷ XIX, diện tích thuộc địa Anh lên đế 33 triệu km2 với 370
triệu dân. V.I.Lênin đã gọi đó là đế quốc thực dân.
- Chính sách ngoại giao khác, Anh tăng cường vai trò của mình ở châu Âu. Để
ngăn cản ảnh hưởng của Nga ở khu vực Bancăng và Địa Trung Hải, Anh chiếm
đảo Síp, kênh đào Xuyê. Tranh chấp với các nước đế quốc khác ở châu Phi, Á,
Mỹ, tăng cường chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh thế giới thứ nhất. Anh
xúc tiến quan hệ ngoại giao hình thành khối liên minh quân sự Hiệp ước gồm
Anh-Nga-Pháp dưới sự ủng hộ của Mỹ.
3. NƯỚC PHÁP 1870 –1914
3.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ
3.1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1870-1900
- Công nghiệp Pháp dần dần mất đi vị trí thứ hai và tụt xuống vị trí thứ 4 trên thế giới.
Nguyên nhân cơ bản là Pháp bị thất bại trong cuộc chiến tranh với Phổ, kỹ thuật
ngày càng lạc hậu, thị trường nội địa hạn chế, nguyên liệu nghèo nàn, quy mô sản
xuất nhỏ, nguồn vốn chủ yếu dùng để cho vay lãi và đầu tư vào hệ thống thuộc địa
rộng lớn... Tuy vậy, trong xu thế phát triển chung của chủ nghĩa tư bản, công nghiệp
Pháp cũng có những tiến bộ đáng kể. Hệ thống đường sắt lan rộng trong cả nước. Từ
năm 1872 đến năm 1891, sản xuất gang từ 1,2 triệu tấn lên 1,9 triệu tấn, thép từ 130
ngàn tấn lên 740 ngàn tấn, than từ 15,8 triệu tấn lên 26,7 triệu tấn.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 16
- Nông nghiệp Pháp vẫn ở trong tình trạng phân tán, tiểu nông tư hữu gây khó khăn
cho việc áp dụng những tiến bộ kỹ thuật. 60% ruộng đất nằm trong tay tư bản ruộng
đất và thương mại nhưng chỉ có một phần nhỏ được áp dụng phương pháp kinh
doanh tư bản chủ nghĩa ở những vùng trồng nho.
- Thương nghiệp Pháp duy trì ở vị tí thứ 3 thế giới với hoạt động chủ yếu ở lĩnh vực
ngoại thương thông qua hệ thống thuộc địa.
- Sự tập trung sản xuất và tư bản diễn ra mạnh mẽ nhất là trong ngành ngân hàng. 2/3
số tư bản nước Pháp tập trung trong tay 3 ngân hàng lớn ở Pari, phần lớn số tư bản
này được dùng cho vay lãi.
3.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1900-1914
- Công nghiệp Pháp mặc dù có những bước phát triển lớn song tốc độ vẫn thua kém
xa so với các nước khác.
- Nông nghiệp vẫn trong tình trạng phân tán và lạc hậu. Đây là đặc tính cố hữu của
nền nông nghiệp Pháp. Chỉ có ngành trồng Nho là tương đối phát triển do nhu cầu
nguyên liệu cho ngành công nghiệp sản xuất rượu vang nổi tiếng của Pháp.
- Thương nghiệp cũng phát triển trao đổi hàng hoá giữa Pháp với thuộc địa và vùng
phụ thuộc.
- Quá trình tập trung sản xuất và tư bản ở Pháp giai đoạn này diễn ra mạnh mẽ dẫn tới
sự hình thành các tập đoàn tư bản tài chính kếch xù. Ngành luyện kim và khai mỏ do
hai tập đoàn lớn là Snâyđơ Crơdô (Schneider Creusot) và Cômitê Phogiơ
(Comite, des Forges)... 5 ngân hàng lớn ở Pari khống chế 2/3 toàn bộ số tư bản
Pháp. Phần lớn tư bản được đưa ra nước ngoài. Năm 1908, 38 tỷ fran được xuất
khẩu trong khi chỉ có 9,5 tỷ đầu tư trong nước. Năm 1914, 60 tỷ fran xuất khẩu đem
lại cho tư bản Pháp 2,5 tỷ fran lợi nhuận.
3.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ
3.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN
Sau khi đàn áp Công xã Pari, các thế lực bảo hoàng âm mưu khôi phục nền quân
chủ. Hiến pháp năm 1875 thừa nhận chính thể cộng hoà với đa số hơn 1 phiếu
(353/352) chứng tỏ cuộc đấu tranh giữa hai phái diễn ra hết sức gay gắt. Nền cộng hoà
thứ 3 được thiết lập và tồn tại cho đến tháng 6 năm 1940. Đặc điểm của nó là tình trạng
khủng hoảng nội các thường xuyên xảy ra (1873-1890 phải thay đổi tới 34 lần). Tư bản
tài chính nắm quyền, phe bảo hoàng đòi cải biến hiến pháp âm mưu lật đổ nền cộng hoà
càng làm cho tình trạng khủng hoảng chính trị thêm gay gắt.
Nhiều vụ bê bối của chính phủ Pháp đã xảy ra làm cho nền cộng hoà nghiêng ngả.
Năm 1887, nghị viên Uynsơn (Willson) con rể Tổng thống Grêvy lôi kéo các quan chức
chính phủ tham gia vụ mua bán huân chương giả bị vỡ lở buộc Tổng thống phải từ
chức. Năm 1892, công ty Panama tuyên bố vỡ nợ, các quan chức trong chính phủ ít
nhiều dính líu làm cho nội các Pháp bị khủng hoảng. Từ năm 1894 đến năm 1906, phe
dân chủ, tiến bộ giành được thắng lợi lớn thông qua vụ án Đrâyphút (Dreyfus).
Thắng lợi của phe dân chủ đã tạo điều kiện thuận lợi cho phe cấp tiến (cánh tả của
phe cộng hoà) giành thắng lợi và lên cầm quyền (1906 –1909). Để xoa dịu phong trào
đấu tranh của quần chúng, chính phủ cấp tiến của G. Clêmăngxô (Giorge Cle,menseau
1841-1929) buộc phải ban bố một số chính sách : xây dựng nền cộng hoà dân chủ, thủ
tiêu quyền lợi chính trị của giáo hội Thiên chúa, loại trừ những phần tử bảo hoàng khỏi
quân đội, tuyên truyền tư tưởng phục thù Đức, tiếp tục chính sách mở rộng thuộc địa,
tiếp tay cho Nga hoàng đàn áp phong trào cách mạng Nga. Riêng đối với phong trào
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 17
công nhân, chính phủ tiến hành cải cách vụn vặt để lừa bịp : lập Bộ Lao động, trả lương
hưu cho công nhân 65 tuổi, nhưng lại thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh của công
nhân và các lực lượng dân chủ.
Phong trào công nhân Pháp mặc dù bị đàn áp nhưng vẫn từng bước hồi phục và
lớn mạnh. Dưới sự dẫn dắt của những người Mácxít như Giuyn Ghexđơ (Jules Gesder),
Pôn Laphácgơ (Paul Lafargue)...Đảng Công nhân đã được thành lập ở Lơ Havrơ vào
năm 1880. Năm 1902, Tổng liên đoàn lao động được thành lập. Năm 1904, Đảng Xã
hội thống nhất cũng được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai đảng Xã hội Pháp và đảng
Xã hội nước Pháp. Mặc dù còn tồn tại nhiều khuynh hướng khác nhau nhưng nhiều
cuộc đấu tranh vẫn diễn ra thể hiện sự giác ngộ chính trị ngày càng cao của giai cấp
công nhân Pháp.
3.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
- Chính sách xâm lược thuộc địa là nội dung quan trọng trong chính sách đối ngoại
của các chính phủ nước Pháp.
Đối với châu Á, Pháp hoàn thành việc xâm lược Việt Nam và Đông Dương
(1858-1891), tham gia xâu xé Trung Quốc.
Đối với châu Phi, Pháp chiếm Tuynidi (1881), Mađagaxca (1885) và mở rộng
xâm lược Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Tây Xuđăng, Ghinê ...
Đối với châu Mỹ, Pháp gặp phải sự cản trở của Mỹ.
Cho đến cuối thế kỷ XIX, diện tích thuộc địa của Pháp đứng thứ hai thế giới và
lên tới 3,7 triệu dặm vuông với 56,1 triệu dân.
- Chính sách ngọai giao với thế giới tư bản chủ nghĩa. Đứng trước nguy cơ xâm lược
mới từ nước Đức và lòng thù hận dân tộc, Pháp tăng cường hoạt động ngoại giao
với Nga (hiệp ước Pháp- Nga 1893), Anh (hiệp ước Pháp - Anh 1903). Liên minh
quân sự Pháp-Anh-Nga được hình thành sẵn sàng tham gia chiến tranh thế giới thứ
nhất. Pháp cũng ráo riết chạy đua vũ trang, reo rắc tư tưởng xô vanh, phục thù Đức
để lôi kéo nhân dân pháp.
4. NƯỚC ĐỨC 1871-1914
4.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ
4.1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1871-1914
Nước Đức bước vào xây dựng và phát triển kinh tế giai đoạn này trong tình thế vô
cùng thuận lợi. Cuộc đấu tranh thống nhất Đức hoàn thành năm 1871, giai cấp tư sản
Đức cấu kết chặt chẽ với quý tộc tạo thành một lực lượng chính trị hùng hậu, thắng lợi
của cuộc chiến tranh với Pháp nước Đức thu được 5 tỷ fran chiến phí và hai tỉnh giàu có
về tài nguyên khoáng sản Andát và Loren, nguồn tài chính ấy được dùng để xây dựng
một nền kinh tế hiện đại nhất...
- Công nghiệp Đức phát triển mạnh mẽ đuổi kịp và vượt Anh, Pháp trở thành nước
đứng đầu châu Âu. Công nghiệp nặng chiếm ưu thế so với các ngành kinh tế khác.
Từ năm 1871 đến năm 1900, đường sắt tăng 2,3 lần (17.160 km lên 49,878 km) tạo
điều kiện cho sự giao lưu và phát triển kinh tế, than tăng 3,5 lần (37,9 triệu tấn lên
149 triệu tấn), gang tăng 5,5 lần (1,56 triệu tấn lên 8,5 triệu tấn), thép tăng 26 lần
(0,25 triệu tấn lên 6,6 triệu tấn). Các ngành kinh tế như : hoá chất, điện khí đều
chiếm vị trí hàng đầu châu Âu, năm 1883 Đức đã sản xuất được 2/3 thuốc nhuộm
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 18
toàn thế giới. Tốc độ phát triển kinh tế công nghiệp Đức trong 20 năm cuối cùng của
thế kỷ XIX đạt 163% trong khi Anh là 49%, Pháp là 65%.
- Nông nghiệp Đức cũng có những bước tiến bộ. Phần lớn ruộng đất tập trung trong
tay địa chủ quý tộc (khoảng 40%). Trong khi vẫn duy trì những tàn dư phong kiến
để khai thác, bóc lột sức lao động của nông dân thì những biện pháp canh tác mới
được áp dụng như : cơ giới hoá, phân bón, thuốc trừ sâu, thị trường hoá sản
phẩm...Ở Đông Bắc là chế độ đại sở hữu (100 ha đến 100.000 ha) còn Tây Namvẫn
còn phổ biến là tiểu nông (ảnh hưởng pháp). Sự phân hóa diễn ra sâu sắc trong nông
thôn Đức, phần lớn phải đi làm thuê cho địa chủ hoặc thành công nhân công nghiệp.
- Thủ công nghiệp vẫn tồn tại khá lâu, đến cuối thế kỷ còn 2,3 triệu thợ thủ công
trong đó có 67 vạn thợ làm ở nhà.
- Thương nghiệp Đức phát triển mạnh mẽ trên cơ sở một thị trường nội địa thống nhất
và một nền kinh tế công nông nghiệp phát triển. Ngành ngoại thương đặc biệt phát
triển do xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp. Từ năm 1880 đến năm 1899, giá trị
các loại hàng như : máy móc và vật liệu tăng từ 90 triệu Mác lên tới 291 triệu Mác,
sắt thép tăng từ 134 triệu Mác lên tới 326 triệu Mác, hoá chất tăng từ 200 triệu Mác
lên tới 365 triệu Mác.
- Sự tập trung sản xuất và tư bản diễn ra mạnh mẽ hình thành các tổ chức lũng đoạn.
Xanhđica than Ranh Vetxphalen sản xuất 87% tổng sản lượng than cả nước, hãng
Krupp độc quyền công nghiệp quân sự sử dụng tới 45.000 công nhân...năm 1879
mới có 14 cácten thì đến 1900 đã lên tới 300 cácten.
- Hệ quả xã hội là làm cho bộ mặt nước Đức thay đổi : quá trình đô thị hoá nhanh
chóng với 36% năm 1871 lên đến 54,3% dân số thành thị trong đó 22% là công
nhân (10,6 triệu).
4.1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 1900-1914
- Công nghiệp Đức tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu châu Âu và thứ hai thế giới về
cả tổng sản lượng cũng như những ngành cơ bản. Năm 1912, sản xuất gang vượt
Anh và Pháp cộng lại kể cả trong các ngành khai mỏ, luyện kim, cơ khí, hoá chất,
đường sắt, đóng tàu...
- Nông nghiệp Đức đạt tới mức độ cơ giới hoá cao, phân công lao động theo hướng
chuyên môn hoá, sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu và kinh doanh theo hướng tư bản
chủ nghĩa. Từ năm 1909 đến năm 1913, sản lượng lúa và khoai tăng gấp 2 lần năm
1894 –1897.
- Thương nghiệp Đức vẫn tiếp tục phát triển trong cả hai lĩnh vực nội thương và ngoại
thương. Trong khoảng 1909 – 1913, hàng xuất khẩu của Đức tăng 60%.
- Sự tập trung sản xuất và tư bản tăng lên nhanh chóng trên quy mô lớn. Không đầy ¼
xí nghiệp sử dụng hơn ¾ điện lực cả nước. Số cácten tăng lên nhanh chóng từ 395
năm 1905 lên tới 600 năm 1911 nhưng các công ty lớn kiểm soát hầu hết các ngành:
khai mỏ và luyện kim 2, điện khí 2, hoá chất 2, hàng hải 2,... đó thực sự là những
ông vua công nghiệp. Năm 1913, khoảng 30 “ông vua” thu lại nguồn lãi khoảng 15
tỷ mác.
- Ngành ngân hàng có 9 lớn nhất là ngân hàng Béclin có số vốn hơn 3tỷ mác chi phối
hoạt động của hơn 2000 xí nghiệp, kiểm soát 83% tổng số tư bản của Đức. Một
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 19
phần lớn số tư bản được xuất khẩu ra nước ngoài : năm 1902 là 12,5 tỷ fran đến
1914 là 44 tỷ fran. Hướng đầu tư chủ yếu là Đông Nam Âu, Cận Đông và Nam Mỹ.
4.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ
4.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO CÔNG NHÂN
- Hiến pháp năm 1871 quy định nước Đức là một liên bang gồm 22 vương quốc
và 3 thành phố tự do là Hămbuốc, Brême, Luybếch (Hamburg, Breme, Lubeck). Đứng
đầu nhà nước liên bang là Vua Đức nhất thiết phải là vua Phổ có toàn quyền về quân
đội, cảnh sát, bổ nhiệm và cách chức thủ tướng, ký kết hiệp ước ngoại giao, tuyên
chiến... thậm chí còn có quyền triệu tập, giải tán và hoãn các phiên họp của Hội đồng
liên bang và Quốc hội mà không phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội.
Hội đồng liên bang gồm 58 đại biểu từ các bang và thành phố tự do trong đó
Phổ chiếm 17 ghế. Quyết nghị của Hội đồng chỉ có thể được thông qua khi không vượt
quá 14 phiếu chống. Điều này bảo đảm ưu thế tuyệt đối của quý tộc, tư sản Phổ. Thủ
tướng Đức là Chủ tịch Hội đồng liên bang đồng thời là thủ tướng Phổ chỉ chịu trách
nhiệm trước Nhà vua và Hội đồng liên bang mà không chịu trach nhiệm trước Quốc hội.
Thủ tướng đầu tiên và suốt 20 năn (1871- 1890) là Bixmắc.
Quốc hội Đức do bầu cử lập nên nhưng cử tri chỉ giới hạn trong giới quý tộc và
tư sản mà thôi. Quốc hội có thể bị Nhà vua giải tán bất cứ lúc nào.
Ở các bang có chính quyền và bộ máy nhà nước riêng nhưng chịu sự cai quản
của Nhà nước Liên bang.
- Sự cấu kết giữa quý tộc Đông Phổ ( gioongke – Junker ) với tư sản là rất mật thiết.
Cả hai đều ủng hộ chính sách thuế quan bảo hộ mậu dịch, tăng cường bộ máy quân
đội và cảnh sát để đàn áp quần chúng và gây chiến tranh xâm lược. Bộ máy quan
liêu nặng nề và chủ nghĩa quân phiệt Đức làm cho tính chất nhà nước Đức là đế
quốc tư sản gioongke.
- Các đảng phái tư sản và quý tộc thao túng nền chính trị Đức :
Đảng Bảo thủ đại diện cho quyền lợi của quý tộc địa chủ Đông Phổ là đảng cầm
quyền, chủ trương thiết lập chế độ quân chủ bán chuyên chế, giữ các chức vụ
cao trong quân đội, cảnh sát, Nhà nước đòi tăng ngân sách quân sự, giữ giá cao
về nông sản.
Đảng Bảo thủ tự do (đế quốc) là một bộ phận của Đảng Bảo thủ tách ra đại diện
cho quyền lợi của đại địa chủ tư sản hoá, trùm công nghiệp nặng
Đảng Dân tộc tự do đại diện cho tư sản công nghiệp lớn chủ trương tăng cường
công nghiệp hoá trong nước, đẩy mạnh chiến tranh xâm lược thuộc địa, tăng
cường quân đội và cảnh sát. Đảng này làkẻ thù tệ hại nhất của giai cấp công hân
và các lực lượng xã hội chủ nghĩa.
Đảng Trung tâm Cơ đốc giáo (Đảng Trung ương) tập hợp quý tộc, tăng lữ ở Tây
và Nam Đức. Đảng này chủ trương chống lại chính sách Phổ hóa nước Đức của
Bixmắc, đòi quyền lợi chính trị và kinh tế cho bộ phận nên đã lôi kéo được một
bộ phận công nhân và nông dân lạc hậu tham gia.
Đảng Tiến bộ tập hợp đông đảo tư sản loại vừa, nhỏ, trí thức chủ trương đấu
tranh nghị trường đòi quyền tự do dân chủ
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 20
- Chính sách đối nội Đức. Nhằm thúc đẩy sự phát triển của quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, chính phủ Bixmắc đã ban bố một loạt các sắc lệnh về thống nhất hành
chính, điện tín, giao thông vận tải, tiền tệ (chế độ bản vị vàng cho đồng Mác), thuế
quan cao, tăng ngân sách quân sự...
Sự đấu tranh giữa hai thế lực tôn giáo và giới cầm quyền về quyền lực diễn ra
mạnh mẽ dưới tên gọi “đấu tranh văn hoá” (kulturkamft). Bixmắc đã ban bố những
đạo luật năm 1872, 1873, 1874, 1875 nhằm bẻ gẫy sự bướng bỉnh của các tăng lữ
gồm có các nội dung như : cấm giáo sĩ tuyên truyền chính trị, không được kiểm soát
trường học,Nhà nước bổ nhiệm tăng lữ...Đảng Trung ương được sự ủng hộ của một
bộ phận quần chúng lạc hậu, Toà thánh Vaticăng nên giành được ưu thế. Trong cuộc
bầu cử Quốc hội 1874, Đảng này giành được 91 ghế.
Trong khi đó phong trào đấu tranh của nhân dân lên rất cao, Bixmắc và Đảng
Trung ương phải thoả hiệp với nhau để đối phó. Đến đây, tất cả các thế lực cầm
quyền Đức đã thống nhất hành đông để loại phong trào công nhân và xã hội chủ
nghĩa ra khỏi luật pháp nước Đức. Bixmắc đã ban bố “đạo luật đặc biệt” từ năm
1878 đến năm 1890.
- Sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp Đức là điều kiện cho phong trào công nhân
Đức phát triển. Mặc dù Đảng Xã hội dân chủ Đức thành lập rất sớm (1869) nhưng
lại chưa đủ sức tập hợp lực lượng. Năm 1875, Đảng Công nhân xã hội dân chủ Đức
được thành lập tại Gôta (Gotha) trên cơ sở hợp nhất giữa 2 phái Látxan và Aidơnắc.
Nhưng ngay từ đầu, cương lĩnh Gôta đã mang tính chất cơ hội Látxan nên không
phát huy được tính tích cực của Đảng trong việc tổ chức và lãnh đạo công nhân đấu
tranh.
Vào cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa xét lại Becxtainơ (Bernsteiner) đại diện cho
tầng lớp công nhân quý tộc xuất hiện. Becxtainer đòi xét lại chủ nghĩa Mác mà thực
chất là sự biến tướng của chủ nghĩa tự do tư sản khoác áo Mácxít. Do vậy, phong
trào công nhân Đức chịu tác động từ nhiều phía khác nhau. Tuy nhiên, cuộc đấu
tranh của công nhân Đức vẫn diễn ra rầm rộ dưới mọi hình thức khác nhau. Phổ biến
nhất là bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm: năm 1890 có 226 cuộc thu hút 38.536
người tham gia, năm 1896 có 438 cuộc thu hút 128.308 người tham gia, từ 1903-
1904 có hơn 25 vạn người tham gia. Đặc biệt, trong 2 năm 1905, 1906 đã diễn ra
những cuộc biểu tình thị uy của hơn 80 vạn công nhân ủng hộ cuộc cách mạng Nga
đang diễn ra.
4.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
- Chính sách xâm lược thuộc địa : là một đế quốc trẻ, có tiềm lực kinh tế và quân sự
hùng hậu, lại được trang bị tư tưởng “dân tộc đại Đức”, nước Đức ráo riết mở những
cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa. Các nhà tư tưởng tư sản như F. Nixơ (Fridric
Niss 1844 - 1890), Bixmắc không ngừng tuyên truyền cho tư tưởng sôvanh đòi chia
lại thế giới “tính siêu việt của người German”, “nước Đức trên hết”. Giới cầm
quyền Đức ráo riết xây dựng quân đội nhất là hải quân để thực hiện kế hoạch đánh
chiếm các cứ điểm nhằm tấn công chiếm các thuộc địa của Anh, Pháp, Bỉ, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha,...
Đối với châu Á-Thái Bình Dương, Đức chiếm vịnh Giao Châu (1897) làm bàn
đạp tiến vào Trung Quốc, xây dựng tuyến đường sắt Batđa (từ Bôxpho – Côoet)
nhằm vào Ấn Độ, đánh chiếm các đảo ở Thái Bình Dương và Nam Mỹ để chống
Bắc Mỹ.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 21
Đối với châu Phi, Đức thành lập Tây Phi và Đông Phi thuộc Đức (1884 - 1885)
gồm có Tôgô, Camơrun, Bắc Ghinê, Angra Pêkina, Danbia.
Chính sách của Đức bị Anh phản đối gay gắt, mâu thuẫn Anh - Đức trở thành
mâu thuẫn chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc.
- Chính sách ngọi giao trong thế giới tư bản chủ nghĩa: Mục đích lớn nhất cuả Đức là
xác lập địa vị bá chủ ở châu Âu. Năm 1875, Đức ra lệnh báo động quân sự để uy
hiếp Pháp. Lo sợ trước hành động của Đức, Anh và Nga lên tiếng phản đối làm cho
âm mưu của Đức bị phá sản. Năm 1882, Đức ký với Ý, Áo-Hung hiệp ước liên
minh quân sự tay ba đồng thời vẫn duy trì hiệp ước không chính thức với Nga
(1873, được tái bảo đảm năm 1887) làm chỗ dựa cho cuộc đối đầu với Anh và Pháp.
- Đức ráo riết chạy đua vũ trang. Từ năm 1909 đến 1914, chi phí quân sự Đức tới hơn
2 tỷ mác, tăng lên gần 33% chiếm gần 50% ngân sách quốc gia. Quân số lên tới
136.000 người năm 1912 với 232 tàu chiến các loại. Lò lửa chiến tranh đang được
nhen nhúm ở Đức, đẩy nhân loại vào cuộc chiến tranh tàn khốc.
5. CÁC NƯỚC KHÁC Ở CHÂU ÂU 1870-1914
Ý, Áo-Hung, Nga...là những nước đế quốc yếu hơn Anh, Pháp, Đức cũng có những
bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế và chuyển biến sang giai đoạn độc quyền. Các nước
này cũng tham gia tích cực vào những cuộc chiến tranh nhằm phân chia thế giới, đàn áp
các phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa. Tuy vậy, hầu
hết các nước này đều ít nhiều lệ thuộc vào các cường quốc nói trên.
6. NƯỚC MỸ 1870-1914
6.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ
6.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1870-1900
- Những điều kiện thuận lợi cơ bản :
Sau cuộc nội chiến 1861-1865, giai cấp tư sản Mỹ thống nhất thành một lực
lượng chính trị hùng hậu trong đó đại tư sản công thương nghiệp miền Bắc
chiếm ưu thế so với đại địa chủ tư sản hoá miền Nam.
Chính phủ Mỹ đã đề ra những biện pháp quan trọng để thúc đẩy kinh tế tư bản
chủ nghĩa phát triển : ổn định lại chế độ tiền tệ (năm 1875, huỷ bỏ chế độ tiền
giấy và quy định chế độ bản vị vàng cho đồng dollar, tiến hành trả công trái
bằng tiền mặt..); điều chỉnh chế độ thuế khoá (năm 1872, giảm 10% thuế quan;
tháng 10-1890, Tổng thống Mc Killey ban hành đạo luật hạ mức thuế đồng loạt
các mặt hàng len dạ, nông phẩm, đường sắt; năm 1913, Tổng thống Wilson ban
hành quy định giảm 16% thuế quan cho 958 mặt hàng thiết yếu); khuyến khích
đầu tư, trang bị kỹ thuật mới nhất cho các cơ sở kinh tế; tạo điều kiện thuận lợi
nhất để tư bản châu Âu đầu tư vào Mỹ ; thu hút các nhà bác học, công nhân lành
nghề từ các nước đến Mỹ bằng chế độ đãi ngộ cao; chú ý đào tạo đội ngũ trí
thức và công nhân lành nghề...
Nước Mỹ có điều kiện địa lý hết sức thuận lợi là nước nằm trọn vẹn ở Tây Bán
cầu, cách xa đại lục Á - Âu thường xuyên có những biến động lớn nên phát triển
kinh tế trong thời bình; miền Tây nước Mỹ rộng lớn, màu mỡ, chưa được khai
phá là điều kiện để thu hút lao động phát triển kinh tế; hai mặt giáp hai đại
dương là điều kiện hoà nhập kinh tế với các tam giác mậu dịch; tài nguyên thiên
nhiên nhiên phong phú, giàu về trữ lượng...
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 22
Nguồn nhân công dồi dào do chế độ nô lệ bị thủ tiêu làm cho nô lệ được giải
phóng; các luồng nhập cư không ngừng gia tăng gia nhập đội ngũ công nhân làm
thuê cho tư bản.
Hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thuỷ dày đặc làm cho thị trường lưu
thông, kích thích sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.
- Công nghiệp Mỹ phát triển với tốc độ mạnh mẽ. Nếu năm 1860, sản lượng công
nghiệp Mỹ mới chỉ đứng hàng thứ 4 thì đến năm 1894, đã vượt lên hàng đầu thế giới
bằng ½ tổng sản lượng Tây Âu và gấp 2 lần Anh.
Ngành giao thông vận tải đặc biệt phát triển làm tăng tốc độ khai thác và vận
chuyển hàng hoá. Từ năm 1860 đến 1900, tổng chiều dài đường sắt tăng lên 6,5 lần
(49,3 ngàn km lên 320,2 ngàn km) vượt quá tổng chiều dài đường sắt của các nước
Tây Âu cộng lại ( Hiện nay cả Tây Âu có khoảng trên 400 ngàn km ). Cũng trong
thời gian nói trên, tổng sản lượng than tăng gần 15 lần (18,5 ngàn tấn lên 270,9 ngàn
tấn), gang tăng gần 2 lần (0,8 ngàn tấn lên 13,8 ngàn tấn).
- Nông nghiệp Mỹ cũng đạt được những bước tiến rất dài. Từ năm 1860 đến 1900,
diện tích canh tác tăng lên hơn 3 lần, sản lượng tăng lên gấp bội : lúa mì tăng 4 lần,
ngô tăng 3,5 lần, kiều mạch tăng 5,5 lần; hàng nông phẩm xuất khẩu tăng lên nhanh
chóng : 9/10 bông, ¼ lúa mạch thế giới, giá trị xuất khẩu tăng từ 250 triệu dollar lên
tới 950 triệu dollar. Nhiều biện pháp kỹ thuật như cơ giới hoá triệt để, phân bón,
thuốc trừ sâu, giống cây trồng cũng như chuyên môn hóa, thương phẩm hoá, sử
dụng lao động làm thuê...được áp dụng phổ biến.
- Thương nghiệp Mỹ cũng rất phát triển dựa trên một thị trường nội địa thống nhất và
một thị trường thế giới rộng mở.
- Mặc dù nền kinh tế Mỹ rất phát triển nhưng nạn khủng hoảng vẫn thường xuyên xảy
ra. Hàng loạt các xí nghiệp bị phá sản đẩy nhanh quá trình tập trung sản xuất và tư
bản, hình thành các tổ chức lũng đoạn. Cuối thế kỷ XIX, hai tổ chức độc quyền lớn
là Rốccơphenlơ ( Rockerffeller ) và Moócgan ( Morgan ) khống chế hầu như toàn
bộ nền tài chính nước Mỹ, bước đầu lũng đoạn nền kinh tế và chính trị Mỹ.
6.1.2. TÌNH HÌNH KINH TẾ MỸ 1900-1914
- Công nghiệp Mỹ tiếp tục có những bước tiến mạnh mẽ khẳng định địa vị bá chủ thế
giới. Năm 1913, sản lượng gang thép vượt Đức 2 lần, Anh 4 lần; than gấp 2 lần Anh
và Pháp cộng lại. Thương nghiệp phát triển, năm 1900, tổng kim ngạch ngoại
thương đạt 2,7 tỷ dollar thì đến 1914 tăng lên đến 5,5 tỷ dollar. Các ngành khác đều
có tốc độ tăng trưởng vượt bậc tạo ra một nguồn của cải khổng lồ cho tư bản Mỹ.
- Quá trình tập trung sản xuất và tư bản được đẩy mạnh trên quy mô lớn, tiếp tục hình
thành các tổ chức độc quyền trong tất cả các ngành. Sự tập trung đó không chỉ diễn
ra theo chiều ngang (cùng sản xuất một mặt hàng) mà còn theo chiều dọc (từng công
đoạn trong quá trình chế tạo sản phẩm). Năm 1910, khoảng 1% số xí nghiệp sản
xuất gần ½ tổng sản lượng công nghiệp trong nước. Các tơrớt nắm độc quyền sản
xuất từng ngành trên phạm vị cả nước và có ý nghĩa khu vực, quốc tế.
Tơrớt dầu lửa của tập đoàn Rốccơphenlơ có số vốn hàng tỷ dollar, có 7 vạn
km đường ống dẫn dầu, hàng trăm tàu biển, kho hàng, giếng khoan, nhà máy, kiểm
soát tới 90% ngành này. Nó còn thông qua hệ thống ngân hàng để chi phối hoạt
động của nhiều công ty thuộc các lĩnh vực khác nhau.
“Công ty thép Mỹ” (United States Steel Corporation) do tập đoàn tài chính
Moócgan thành lập năm 1901 với số vốn ban đầu gần 7 tỷ dollar, sử dụng hơn 20
vạn công nhân, 5000ha đất mỏ than cốc, chi phối tới gần 2/3 ngành này.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 23
Hai tơrớt trên còn khống chế ngành ngân hàng, các lĩnh vực công nghiệp
khác, ruộng đất... sở hữu tới 1/3 số của cải nước Mỹ. Ngoài ra, nhiều tập đoàn khác
cũng là những “ông vua” trong các lĩnh vực như sản xuất nhôm, đồng, đường, thuốc
lá, cao su, điện khí, điện tín và điện thoại...
- Sự xuất khẩu tư bản diễn ra tỷ lệ thuận với sự phát triển kinh tế. Từ năm 1899 đến
1913, tư bản Mỹ đã xuất ra nước ngoài tăng từ 0,5 tỷ dollar lên tới 2,6 tỷ dollar, gấp
hơn 5 lần. Thị trường đầu tư của Mỹ là châu Mỹ, Trung Quốc, Philíppin, Nhật
Bản...
- Mâu thuẫn trong xã hội tư bản Mỹ phát triển gay gắt. Sự phân hoá giàu nghèo mạnh
mẽ nhất trên thế giới: 2% dân số chiếm 60% của cải trong khi 65% ở phía bên kia
chỉ chiếm 5% của cải mà thôi. Nhân dân lao động bị bần cùng hoá,nạn thất nghiệp
xảy ra thường xuyên. Giai cấp tư sản còn lũng đoạn chính trị làm cho tình hình
khủng hoảng không ngừng diễn ra.
6.2. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ
6.2.1. CHÍNH SÁCH ĐỐI NỘI VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN
- Giai cấp tư sản Mỹ thi hành quyền lực thống trị của mình thông qua hai đảng Cộng
hoà và Dân chủ. Đảng Cộng hoà do Abraham Lincoln (1809-1865) thành lập năm
1851, đại diện cho lợi ích của đại tư sản công thương nghiệp và tài chính, chủ
trương thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch bằng thuế quan cao. Đảng Dân chủ
thành lập năm 1791, sau nội chiến đại diện cho lợi ích của đại địa chủ, phú nông, tư
sản miền Nam và tư sản miền Bắc phản đối chính sách bảo hộ mậu dịch.
Cả hai đảng đều vì lợi ích của giai cấp tư sản và đối lập với quyền lợi của
nhân dân lao động. Sự khác biệt chỉ là giả tạo nhằm lôi kéo sự ủng hộ của quần
chúng nhân dân lao động trong cuộc chạy đua giành quyền chính trị để bảo vệ quyền
lợi của bộ phận giai cấp. Trong giai đoạn này, các tập đoàn tài phiệt lũng đoạn cả
hai đảng, cử người làm tổng thống vàtham gia các chức vụ của Nhà nước. Trên thực
tế, các tập đoàn tư bản tài chính mới là kẻ thống trị của nước Mỹ. Từ năm 1860 đến
1884, Đảng Cộng hoà nắm quyền, sau đó là Đảng Dân chủ mà thực chất là do tập
đoàn Morgan điều khiển.
- Chính sách đàn áp người da đen và phong trào đấu tranh của họ. Sau khi cuộc nội
chiến chấm dứt, người da đen được một số quyền lợi chính trị cơ bản như : quyền
bầu cử và tham gia các cấp chính quyền, dân chủ hoá chính quyền địa phương.
Nhưng khi quyền lực đã vững vàng, giai cấp tư sản liền phản bội quần chúng nhân
dân. Năm 1872, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật khôi phục quyền lợi của chủ nô và
lập lại ách áp bức đối với người da đen. Năm 1881, đạo luật cấm người da đen tới
những khu vực của người da trắng. Chính phủ Mỹ còn làm ngơ trước những hành
động tàn ác của Đảng 3K (Klu-Klux-Klan, thành lập năm 1866 tại bang Tennessee).
Chính sách đàn áp dã man đối với người da đen thể hiện tính chất bất công, vô
nhân đạo của nền chính trị tư sản Mỹ cuối thế kỷ XIX. Nhiều phong trào đấu tranh
của người da đen đã diễn ra. Oazingtơn (Wazington) là một đại biểu cho những
người da đen đòi giải phóng nhưng chỉ đề cao biện pháp đấu tranh cải luơng là tự
nâng cao đời sống kinh tế và nhận thức xã hội. Uyliam Đuyboa (William Dubour)
khởi xướng phong trào Niagara đòi chấm dứt sự phân biệt đối xử với người da đen,
đến năm 1910, phong trào gia nhập “Hội giúp người da đen tiến bộ toàn quốc”. Đây
là một tổ chức tập hợp cả người da trắng, chủ trương đấu tranh cho sự bình đẳng về
chủng tộc, pháp luật, kinh tế, xã hội và công đoàn. Tuy vậy, do nhận thức về vai trò
và nhiệm vụ còn nhiều hạn chế nên phong trào đấu tranh của họ thiếu liên hệ với
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 24
phong trào công nhân, nông dân và ngược lại. Cuộc đấu tranh của người da đen còn
phải tiếp tục trong những thời kỳ tiếp nối.
- Phong trào công nhân và xã hội chủ nghĩa Mỹ có những đặc điểm riêng biệt: sự
không ổn định về số lượng, thành phần phức tạp về chủng tộc, dân tộc, tôn giáo,
ngôn ngữ, trình độ tay nghề khác nhau, chịu tác động của nhiều trào lưu tư tưởng
khác nhau...Chính những đặc điểm này đã hạn chế phong trào công nhân Mỹ. Giai
cấp tư sản đã triệt để lợi dụng và tạo ra sự chia rẽ để thống trị.
Phong trào đấu tranh của công nhân Mỹ chịu sự chi phối của các tổ chức : Đảng
Công nhân Xã hội Mỹ (1876 – American Social of Party), Liên đoàn Lao động Mỹ
(1881 – American fedaration of Labour), Liên đoàn Công nhân Đường sắt Mỹ (1877
– American Railudy Union), Đảng Xã hội Mỹ ( 1901 – American Social of Party),
Hội Công nhân sản nghiệp thế giới (1905 – Industrial World Worker)... Cuộc đấu
tranh giữa các khunh hướng cải lương và cách mạng, cơ hội, xét lại và Mácxít... và
sự chi phối của chủ nghĩa nghiệp đoàn vô chính phủ đã làm hạn chế sự phát triển
của phong trào.
Một số cuộc đấu tranh lớn của công nhân đã liên tục diễn ra. năm 1877-
1878, diễn ra cuộc tổng bãi công của công nhân đường sắt ở 17 bang lan sang các
ngành khác với quy mô của một cuộc nội chiến nhỏ.
Ngày 1- 5-1886, hơn 40 vạn công nhân các nhà máy, xí nghiệp ở Chicago đã
tiến hành tổng bãi công đòi thực hiện ngày làm 8 giờ, mặc dù bị đàn áp dã man
nhưng giai cấp tư sản đã buộc phải ban hành đạo luật ngày làm việc 8 giờ trong một
số ngành. Trong ngày thành lập Quốc tế II ( 14 -7-1889 ), đại biểu công nhân các
nước đã lấy ngày 1-5 làm ngày biểu dương sức mạnh của giai cấp công nhân toàn
thế giới.
Năm 1905, diễn ra cuộc bãi công của công nhân mỏ các bang miền Tây;
năm 1907, ở bang Nevada; năm 1912, ở bang Maschasuset; năm 1914, ở Colorado...
6.2.2. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
- Chính sách gây chiến xâm lược phù hợp với tham vọng của tư bản tài chính. Những
đại biểu tư tưởng của giai cấp tư sản Mỹ không ngừng tuyên truyền cho chính sách
này. Năm 1823, Mỹ nêu ra học thuyết Malroe về cái gọi là “châu Mỹ của người
Mỹ” làm cơ sở cho “chủ nghĩa Liên Mỹ” vào năm 1889. Năm 1904, Theodor
Roosevelt đưa ra chính sách “cái gậy lớn”... nhằm độc chiếm châu Mỹ. Cũng trong
năm 1889, Mỹ đưa ra chính sách mở cửa để phân chia thị trường Trung Quốc.
- Trên cơ sở đó, Mỹ tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa.
Đối với châu Á-Thái Bình Dương, từ năm1866-1882, Mỹ xâm lược bán đảo
Triều Tiên và giành được một số quyền lợi bất bình đẳng; năm 1889, đặt Xamoa
dưới quyền bảo hộ chung của 3 nước Mỹ, Anh, Đức; từ năm 1875-1893, Mỹ từng
bước đặt Hawai dưới quyền bảo hộ của mình, tham gia chia phần ảnh hưởng ở
Trung Quốc. Năm 1898, Mỹ gây chiến tranh với Tây Ban Nha và giành được quyền
thống trị ở Philíppin, Puerto Rico, Guyam và được quyền bảo hộ Cuba; đổi lại, Mỹ
phải trả cho Tây Ban Nha 20 triệu dollar. Trong chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905),
Mỹ giúp Nhật đánh bại Nga để hạn chế quyền lợi của Nga tại viễn Đông.
Đối với Mỹ Latin, thông qua học thuyết về “chủ nghĩa liên Mỹ”, chính sách
“cái gậy lớn”, “chính sách ngoại giao đồng dollar”, Mỹ ngăn chặn sự xâm nhập của
các nước tư bản châu Âu và độc chiếm Nam Mỹ. Mỹ sát nhập Hawai thành một bộ
phận của Hợp chúng quốc; mua lại cổ phần công ty Panama của Pháp và tách
Panama ra khỏi Colombia (1903) để độc chiếm vị trí chiến lược này; chi phối về
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Đề cương bài giảng Lịch sử thế giới cận đại 25
chính trị và kinh tế các nước Mỹ Latinh; San Domingo, Mexico, Nicaragoa,
Goatemana, Costa-Rica...
Như vậy, bằng đại bác và dollar, Mỹ đã từng bước xác lập quyền thống trị ở
Tây Bán Cầu và xây dựng được nhiều căn cứ hải quân quan trọng ở Thái Bình
Dương làm cầu nối tiến sang châu Á. Năm 1917, Mỹ tham gia chiến tranh thế giới
thứ nhất.
Th.s. Bùi Văn Hùng Khoa Lịch Sử
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khxh0026_p1_1363.pdf