Với mức lãi suất r1 thì cần phải có mức thu nhập Y1’ cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ.
Với mức lãi suất r1, mức thu nhập Y1 là quá thấp đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ.
Nhu cầu về tiền trở nên thấp hơn lượng cung ứng tiền sẵn có. Khi lượng cung ứng tiến quá
cao, lãi suất sẽ giảm. Quá trình này cứ tiếp diễn cho tới lúc lãi suất giảm xuống tới r0.
Ngược lại, với mức lãi suất r2, mức thu nhập Y2’ cần thiết cho thị trường hàng hoá cân bằng
là lớn hơn mức thu nhập Y2 cần thiết để thị trường tiền tệ cân bằng. Khi thu nhập quá cao
đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ, nhu cầu về tiền sẽ quá cao và đẩy lãi suất lên.
Tiến trình này tiếp diễn đến khi đạt mức lãi suất r0 và mức thu nhập Y0 thì cả hai thị trường
đều cân bằng
20 trang |
Chia sẻ: nhung.12 | Lượt xem: 1612 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh tế học vĩ mô - Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
ECO102_Bai5_v2.0013107216 105
Nội dung
Phân tích và xây dựng đường IS
Phân tích và xây dựng đường LM
Đánh giá cơ chế tác động của sự phối hợp
giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Mục tiêu Hướng dẫn học
Giúp học viên hiểu bản chất và đánh giá
được cơ chế tác động của sự phối hợp
giữa chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ trong nền kinh tế đóng
Thời lượng học
8 tiết học
Học viên nên đọc kỹ nguồn tài liệu tham khảo
để chọn ra những tài liệu tham khảo hữu ích
nhất cho mình
Xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu được
cung cấp cho môn học này để biết được trình
tự học tập
BÀI 5: MÔ HÌNH IS – LM VÀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
106 ECO102_Bai5_v2.0013107216
Mô hình IS – LM nắm bắt được nhiều tư tưởng của Keynes hơn mô hình số nhân chi tiêu vì
nó đưa thêm thị trường tiền tệ và thị trường hàng hóa hay thị trường sản phẩm vào và coi
đầu tư là biến nội sinh. Thuật ngữ IS – LM được phổ thông hóa bởi Hansen (1949), nhưng
kỹ thuật mà chúng ta sử dụng hiện nay xuất phát từ một bài báo do Hicks (1937) xuất bản
vài tháng sau khi xuất bản cuốn “Lý thuyết tổng quát” và ngày nay đã trở thành một bản
tóm tắt chuẩn của nó. Dĩ nhiên, chính Keynes đã viết cho Hicks rằng ông “cảm thấy nó rất
thú vị và thực sự không có gì đáng phê phán cả”.
Để hiểu hết vai trò của mô hình IS – LM trước hết chúng ta hãy xem xét thị trường hàng
hóa, hay bộ phận IS của mô hình, sau đó sẽ xem xét thị trường tiền tệ hay bộ phận LM và
cuối cùng ghép hai bộ phận lại với nhau để hoàn chỉnh mô hình.
5.1. Đường IS và các yếu tố tác động đến đường IS
5.1.1. Thiết lập đường IS và độ dốc của đường IS
Thị trường hàng hoá cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi suất
cho trước. Khi lãi suất thay đổi đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu nhập
mới. Như vậy, nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi
suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường
hàng hoá sẽ được một đường gọi là đường IS. Trạng thái cân
bằng trên thị trường hàng hóa có nghĩa là, nếu một mức sản
lượng nhất định, ví dụ Y1, được sản xuất ra, thì khi đó lãi
suất cũng cần phải được duy trì ở một mức nhất định, ví dụ
mức lãi suất là r1. Như vậy, khái niệm cân bằng của thị
trường hàng hóa không hoàn toàn giống khái niệm thông
thường của kinh tế vi mô về sự cắt nhau của đường cung và
cầu.
Trong điều kiện có giả định đơn giản hóa là chi tiêu của
Chính phủ và các khoản thu về thuế độc lập với mức thu
nhập, chúng ta dễ dàng chỉ ra rằng, vị trí của đường IS tùy
thuộc vào mức chi tiêu của chính phủ và thuế. Sự tăng lên
(hay giảm xuống) của G đẩy đường IS về phía phải so với đường gốc (hay phía trái, hướng
tới điểm gốc), vì nó làm tăng (hay giảm) các khoản dự kiến chuyển thành nhu cầu tại bất kỳ
mức lãi suất nào và do đó, đòi hỏi mức thu nhập cao hơn (hay thấp hơn) để duy trì sự cân
bằng giữa các khoản rút ra dự kiến chuyển thành nhu cầu.
Cách dựng đường IS:
Ở mức lãi suất r1 tổng chi tiêu là AE1 sản lượng cân bằng là Y1,
điểm cân bằng trên thị trường hàng hóa là E1. Từ đó ta xác định
được điểm E1’ có toạ độ (r1,Y1).
Lãi suất là r1 ta xác định được điểm E1’ có toạ độ (r1, Y1); lãi suất
giảm xuống r2 ta xác định được điểm E2’. Đường đi qua hai điểm
E1’ và E2’ là đường IS.
Giả sử lãi suất giảm xuống mức r2 khi đó đầu tư tăng thêm một
lượng là I, tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2,
sản lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y1 đến Y2. Từ đó ta
xác định được E2’ có toạ độ (r2,Y2). Đường đi qua hai điểm E1’ và
Lãi suất
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
ECO102_Bai5_v2.0013107216 107
E2’ chính là đường IS.
Mức
lãi suất
Sản lượng
Sản lượng
IS
r1
r2
Y1
Y1
Y2
Y2
E ’1
E1
E ’2
E2
Tổng
chi tiêu AE =C+I(r )+G2 2
AE =C+I(r )+G1 1
ΔI
Hình 5.1. Xây dựng đường IS
Đường IS có độ dốc xuống. Đối với sự cân bằng của thị trường hàng hoá, lãi suất cao hơn sẽ
kéo theo mức thu nhập thấp hơn do đường cầu phải thấp hơn. Độ dốc của đường IS sẽ phụ
thuộc vào độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định đối với lãi suất.
Nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định càng bị giảm xuống do lãi suất tăng, khi lãi
suất tăng sẽ càng làm giảm mức thu nhập cân bằng và độ dốc của đường IS càng thoải.
Ngược lại, nếu những thay đổi trong lãi suất chỉ đưa đến những dịch chuyển nhỏ của đường
tổng cầu, mức thu nhập cân bằng sẽ hầu như không bị ảnh hưởng gì, và đường IS sẽ rất dốc.
Hàm số của đường IS: A 1r Y
d d.m '
Trong đó: A C I G là khoản chi tiêu tự định, không phụ thuộc vào thu nhập.
1m'
1 MPC(1 t)
là số nhân chi tiêu.
d là hệ số phản ánh mức độ nhạy cảm của đầu tư so với lãi suất i.
Nếu d tăng thì đường IS thoải hơn.
Nhìn vào phương trình của đường IS chúng ta thấy rằng, 1
d.m'
chính là độ dốc của đường
IS. Nếu giá trị của d hoặc m’ càng lớn thì đường IS càng thoải và nếu chúng càng nhỏ thì
đường IS càng dốc. Như vậy, nếu tỷ suất thuế tăng lên hoặc MPC giảm xuống đều làm cho
giá trị của m’ giảm xuống và đường IS trở nên dốc hơn và ngược lại.
Phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài
khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế
như thế nào.
Như vậy, đường IS là quỹ tích của các kết hợp giữa mức sản lượng Y và mức lãi suất r, và
bất kỳ điểm nào trên đó cũng làm cho thị trường hàng hóa cân bằng, nhưng nó không chỉ ra
điểm nào trong những kết hợp trên tạo ra trạng thái cân bằng chung của nền kinh tế. Để tìm
được mức sản lượng và lãi suất cho trạng thái cân bằng chung, chúng ta còn phải xem xét
thị trường tiền tệ. Khác với mô hình cổ điển thuần túy, ở đây không có sự phân đôi giữa thị
trường hàng hóa và thị trường tiền tệ. Trong mô hình IS – LM của Keynes, giá trị của các
biến số thực tế, ví dụ thu nhập, phụ thuộc vào cung ứng tiền tệ.
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
108 ECO102_Bai5_v2.0013107216
5.1.2. Các điểm nằm ngoài đường IS
Chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được tại sao biện pháp cắt giảm (hay
tăng) thuế đẩy đường IS sang phải (hay sang trái) và rằng các
điểm nằm ngoài đường IS về bên phải là điểm biểu thị tình
trạng dư cung về hàng hóa (các khoản rút ra dự kiến vượt quá
các khoản dự kiến chuyển thành nhu cầu), còn các điểm nằm
ngoài đường IS về phía trái biểu thị tình trạng dư cầu về hàng
hóa (các khoản dự kiến chuyển thành nhu cầu vượt quá các
khoản rút ra dự kiến). Khi hiểu được điều này, chúng ta cũng
dễ dàng hiểu được những ảnh hưởng của mức thuế thu nhập
đối với đường IS.
Sản lượng
Sản lượng
Mức
lãi suất
Tổng
chi tiêu
45o
r2
r1
E1
E1
E2
E2
E4
E4
E3
E3
AE2
AE1
Y1
Y1
Y2
Y2
Hình 5.2. Các điểm nằm ngoài đường IS
Dựa vào đồ thị chúng ta nhận thấy, điểm E3 trên thị trường hàng hóa biểu thị chi tiêu vượt
quá thu nhập. Đối với thị trường hàng hóa, đây là hiện tượng thiếu hàng. Như vậy, các điểm
nằm dưới đường IS biểu thị tình trạng thiếu hàng (dư cầu), các điểm nằm phía trên (bên
ngoài) đường IS biểu thị tình trạng thừa hàng (dư cung).
5.1.3. Sự trượt dọc và dịch chuyển đường IS
Đường IS là quỹ tích của tất cả các kết hợp giá trị thu nhập và lãi suất mà tại đó, tiết kiệm
dự kiến bằng đầu tư dự kiến. Chúng ta xuất phát từ trạng thái cân bằng ban đầu của nền kinh
tế, thị trường các khoản vay cân bằng (đầu tư bằng tiết kiệm), xác định mức lãi suất cân
bằng là r1 và mức thu nhập của nền kinh tế là Y1. Nếu tiết kiệm dự kiến giảm xuống cùng
với thu nhập, chắc chắn lãi suất sẽ tăng lên và làm mức đầu tư dự kiến nhỏ hơn, nhằm duy
trì trạng thái cân bằng, tại đó tiết kiệm dự kiến bằng đầu tư dự kiến. Mức lãi suất cân bằng
mới là r2 và mức thu nhập cân bằng mới là Y2, xảy ra hiện tượng di chuyển từ điểm E1 đến
điểm E2 trên đường IS. Ngược lại, nếu lãi suất là r2 và mức thu nhập là Y2, thì khi đó đầu tư
dự kiến sẽ bằng tiết kiệm dự kiến; lãi suất giảm xuống r1 thì mức thu nhập sẽ tăng lên Y1,
xảy ra hiện tượng di chuyển các điểm trên đường IS (hay còn gọi là trượt dọc theo đường
IS) từ E2 xuống E1.
Thuế suất
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
ECO102_Bai5_v2.0013107216 109
Mức
lãi suất
Mức
lãi suất
Mức đầu tư Sản lượng
r2
r2
r1
r1
S1S2
I2 I1
I(r)
E1
E2
IS
0 0 Y1Y2
Hình 5.3. Sự di chuyển các điểm trên đường IS
Đường IS là quỹ tích của tất cả các kết hợp giá trị thu nhập và lãi suất mà tại đó, tiết kiệm
dự kiến bằng đầu tư dự kiến.
Sự dịch chuyển của đường IS: Mục đích của đường IS là để minh hoạ tác động của chỉ riêng
lãi suất trong việc dịch chuyển đường tổng cầu và thay đổi mức thu nhập cân bằng. Bất cứ
một nhân tố nào làm đường tổng cầu dịch chuyển cũng sẽ làm dịch chuyển đường IS. Với
một mức lãi suất nhất định, sự gia tăng niềm lạc quan của các hãng về những khoản lợi
nhuận trong tương lai sẽ dịch chuyển đường nhu cầu đầu tư đi lên, làm tăng nhu cầu đầu tư
tự định; sự gia tăng trong ước tính của các hộ gia đình về thu nhập trong tương lai sẽ dịch
chuyển hàm tiêu dùng lên trên, làm tăng nhu cầu tự định; hay sự gia tăng trong chi tiêu của
Chính phủ có thể trực tiếp làm tăng cấu phần của Chính phủ trong nhu cầu tự định. Bất kỳ
sự gia tăng nào như thế này cũng sẽ dịch chuyển đường tổng cầu lên trên tại một mức
lãi suất nhất định. Do đó khoản thu nhập cân bằng sẽ tăng thêm ở bất kỳ lãi suất nào.
Mức
lãi suất
Sản lượng
Sản lượng
IS1
IS2
r1
Y1
Y1
Y2
Y2
Tổng
chi tiêu AE =C+I(r )+G2 2 2
AE =C+I(r )+G1 1 1
AE=Y
0
0
Y
Hình 5.4. Sự dịch chuyển đường IS khi chi tiêu của Chính phủ tăng lên
Sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ G1 đến G2 trong điều kiện lãi suất không đổi r1. Tổng chi
tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, thu nhập của nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến
Y2, dẫn tới đường IS dịch chuyển từ IS1 đến IS2.
Đồ thị 5.4 chỉ rõ sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ G1 đến G2 trong điều kiện lãi suất không
đổi r1. Tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, thu nhập của nền kinh tế tăng
lên từ Y1 đến Y2, dẫn tới đường IS dịch chuyển từ IS1 đến IS2.
Chúng ta có thể phân tích sự dịch chuyển của đường IS qua phương trình đường IS. Hàm
tổng chi tiêu của nền kinh tế là:
4AE C I G X MPC.T MPC.(1 t) MPM .Y - d.r = Y. Rút gọn hàm số dưới
dạng lãi suất phụ thuộc vào thu nhập, ta có:
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
110 ECO102_Bai5_v2.0013107216
A 1r .Y
d d.m '
(*)
Phương trình (*) chính là phương trình đường IS.
Khi giá trị các khoản chi tiêu tự định (không phụ thuộc
vào thu nhập) A
d
thay đổi sẽ làm cho đường IS dịch
chuyển sang vị trí mới.
5.2. Đường LM và các yếu tố tác động đến đường LM
5.2.1. Thiết lập đường LM và độ dốc của đường LM
Khái niệm:
Đường LM là đường bao gồm tập hợp tất cả các điểm phản ánh mối quan hệ giữa lãi suất
và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng.
Cách xây dựng đường LM:
Giả sử rằng mức cung tiền cố định tại MMS
P
, với mức thu nhập ở Y1, đường cầu tiền là
MD(r,Y1) và điểm cân bằng của thị trường tiền tệ là E1 với lãi suất cân bằng là r1, từ đó có
thể xác định điểm E1’ của tổ hợp (r1, Y1).
Mức
lãi suất
Mức
lãi suất
Mức cung tiền Sản lượng
r2
r2
r1
r1
E1 E ’1
E ’2
E2
0 0 Y1 Y2
(a) Thị trường tiền tệ cân bằng (b) Đường LM
LM
MS
MD(r,Y )2
MD(r,Y )1
1
M
P
Hình 5.5. Cách xây dựng đường LM
Khi thu nhập tăng đến Y2, đường cầu tiền dịch chuyển lên MD(r, Y2) với điểm cân bằng E2
có lãi suất cân bằng r2. Từ đó có thể xác định điểm E2’ của tổ hợp (r2, Y2). Đường đi qua hai
điểm E1’, E2’ trên đồ thị là đường LM.
Khi thu nhập tăng đến Y2, đường cầu tiền dịch chuyển lên
MD(r, Y2) với điểm cân bằng E2 có lãi suất cân bằng r2. Từ đó
có thể xác định điểm E2’ của tổ hợp (r2, Y2). Đường đi qua hai
điểm E1’, E2’ trên đồ thị là đường LM.
Đường LM có độ dốc dương, điều đó chứng tỏ khi thu nhập Y
tăng thì lãi suất r tăng và ngược lại. Đường LM phản ánh mối
quan hệ tỷ lệ nghịch giữa thu nhập và lãi suất.
Hàm số của đường LM:
Đường LM là đường bao gồm tập hợp tất cả các điểm phản ánh
mối quan hệ giữa lãi suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân
bằng. Khi đó cung tiền thực tế bằng cầu tiền thực tế: MD = MS
Thu nhập
Tiền tệ
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
ECO102_Bai5_v2.0013107216 111
= k.Y - h.r = M
P
; rút gọn với lãi suất phụ thuộc vào thu nhập ta được phương trình của
đường LM như sau:
1 Mr .(k.Y )
h P
Trong đó: MMS
P
là cung tiền thực tế
h là độ nhạy cảm của cầu tiền với lãi suất
k là độ nhạy cảm của cầu tiền và thu nhập
Giá trị độ dốc của đường LM là k
h
. Do đó, khi k
h
tăng lên đường LM sẽ trở nên dốc hơn và
ngược lại. Điều này có nghĩa là, nếu độ nhạy cảm của cầu tiền với lãi suất (h) càng lớn thì
đường LM càng thoải và ngược lại; nếu độ nhạy cảm của cầu tiền và thu nhập (k) càng lớn
thì đường LM càng dốc và ngược lại.
Phân tích độ dốc của đường LM cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài
khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế
như thế nào.
5.2.2. Các điểm nằm ngoài đường LM
Thị trường tiền tệ ban đầu cân bằng tại điểm E1, khi thu nhập tăng, cầu tiền tăng, lãi suất cân
bằng trên thị trường tiền tệ tăng từ r1 đến r2, chúng ta xây dựng được đường LM. Đường LM
là một tập hợp các điểm biểu thị mối quan hệ giữa thu nhập và lãi suất khi thị trường tiền tệ
cân bằng. Các điểm nằm phía trên đường LM, ví dụ như điểm E3, biểu thị trạng thái dư cung
tiền. Các điểm nằm phía dưới đường LM, ví dụ như điểm E4, biểu thị trạng thái dư cầu tiền.
Mức
lãi suất
Mức
lãi suất
Mức cung tiền Sản lượng
r2
r2
r1
r1 E1 E4E4
E3E3
E1
E2 E2
0 0
MS
M /P1 1
MD (Y )2
MD (Y )1
Hình 5.6. Các điểm nằm ngoài đường LM
Các điểm nằm phía trên đường LM, ví dụ như điểm E3, biểu thị trạng thái dư cung tiền. Các
điểm nằm phía dưới đường LM, ví dụ như điểm E4, biểu thị trạng thái dư cầu tiền tệ.
5.2.3. Sự trượt dọc và dịch chuyển đường LM
Sự di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM: Khi thu nhập tăng lên đòi hỏi một lượng
cầu tiền tăng thêm dẫn đến tăng lãi suất do cung tiền không đổi. Như vậy, khi thu nhập thay
đổi, xảy ra hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM. Khi thu nhập tăng lên
từ Y1 đến Y2, cầu tiền tăng, lãi suất cân bằng trên thị trường tiền tệ tăng từ r1 đến r2, đường
LM không thay đổi vị trí, xảy ra hiện tượng di chuyển từ điểm E1 đến E2 trên đường LM.
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
112 ECO102_Bai5_v2.0013107216
r2
r1
Y1 Y2
LM
E1
E2
0
Sản lượng
Mức
lãi suất
Hình 5.7. Sự di chuyển các điểm trên đường LM
Đường LM có độ dốc nghiêng đi lên bởi khi thu nhập tăng, lãi suất phải tăng theo để giảm
bớt cầu tiền nhằm duy trì sự cân bằng của thị trường tiền tệ khi cung tiền không đổi.
Sự dịch chuyển đường LM: Khi cầu tiền nhạy cảm với thu nhập và kém nhạy cảm với lãi
suất thì đường LM sẽ rất dốc. Nếu mức cung tiền giảm xuống, đường LM sẽ dịch chuyển
sang trái.
Mức
lãi suất
Mức
lãi suất
Mức cung tiền Sản lượng
r2
r2
r1
r1
0 0 Y1
(a) Cân bằng thị trường tiền tệ (b) Đường LM
LM1
LM2MS1MS2
L(r,Y )1
1M
P
2M
P
MS
Hình 5.8. Sự dịch chuyển đường LM khi cung tiền thay đổi
Hình 5.8 minh họa trường hợp cung tiền giảm (do NHTƯtăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc), đường
cung tiền dịch chuyển từ MS1 MS2, ứng với mức thu nhập không đổi Y1. Lãi suất cân
bằng trên thị trường tiền tệ tăng lên từ r1 đến r2, đường LM dịch chuyển sang trái từ LM1
đến LM2.
5.3. Tác động của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
5.3.1. Cân bằng đồng thời hai thị trường hàng hoá và tiền tệ
Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hoá với các tổ hợp khác
nhau giữa lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường
tiền tệ cũng của những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa hai thị trường ấn định mức lãi suất
và thu nhập cân bằng đồng thời cho cả hai thị trường tại (r0, Y0).
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
ECO102_Bai5_v2.0013107216 113
r0
Y0
LM
E0
0 Sản lượng
Mức
lãi suất
IS
Hình 5.9. Trạng thái cân bằng đồng thời trên cả
thị trường hàng hóa và tiền tệ
Tại điểm cân bằng E0 ta xác định được mức lãi suất cân bằng r0 và thu nhập cân bằng Y0.
Nhìn vào hình 5.10, giả sử mức lãi suất tại r1, ta có mức thu nhập Y1 trên đường IS. Tổ hợp
(r1, Y1) đưa đến sự cân bằng của thị trường hàng hoá. Song, với mức lãi suất r1 thì cần phải
có mức thu nhập Y1’ cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Với mức lãi suất r1, mức thu
nhập Y1 là quá thấp đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ. Nhu cầu về tiền trở nên thấp
hơn lượng cung ứng tiền sẵn có. Khi lượng cung ứng tiến quá cao, lãi suất sẽ giảm. Quá
trình này cứ tiếp diễn cho tới lúc lãi suất giảm xuống tới r0. Tại mức này, tổng cầu và tổng
thu nhập đã tăng lên đủ mức làm cho nhu cầu về tiền tăng đủ để dẫn tới sự cân bằng trên cả
hai thị trường.
r0
r2
r1
Y0
LM
E
0 Sản lượng
Mức
lãi suất
IS
A B
C D
Y1 Y2 Y’2 Y’1
Hình 5.10. Trạng thái cân bằng đồng thời trên cả thị trường hàng hóa và tiền tệ
Với mức lãi suất r1 thì cần phải có mức thu nhập Y1’ cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ.
Với mức lãi suất r1, mức thu nhập Y1 là quá thấp đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ.
Nhu cầu về tiền trở nên thấp hơn lượng cung ứng tiền sẵn có. Khi lượng cung ứng tiến quá
cao, lãi suất sẽ giảm. Quá trình này cứ tiếp diễn cho tới lúc lãi suất giảm xuống tới r0.
Ngược lại, với mức lãi suất r2, mức thu nhập Y2’ cần thiết cho thị trường hàng hoá cân bằng
là lớn hơn mức thu nhập Y2 cần thiết để thị trường tiền tệ cân bằng. Khi thu nhập quá cao
đối với sự cân bằng của thị trường tiền tệ, nhu cầu về tiền sẽ quá cao và đẩy lãi suất lên.
Tiến trình này tiếp diễn đến khi đạt mức lãi suất r0 và mức thu nhập Y0 thì cả hai thị trường
đều cân bằng.
5.3.2. Tác động của chính sách tài khóa
Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, bằng việc
tăng chi tiêu của Chính phủ thêm một lượng là G, khi đó tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng,
tổng cầu tăng, đường IS dịch chuyển sang phải từ IS1 đến IS2 do tổng cầu tăng thêm một
lượng là 1 G
1 MPC(1 t)
, cầu tiền tăng, đẩy lãi suất tăng lên từ r1 đến r2. Lãi suất tăng là
nguyên nhân làm giảm đầu tư (đây chính là hiện tượng tháo lui đầu tư).
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
114 ECO102_Bai5_v2.0013107216
LM
0 Sản lượng
Mức
lãi suất
Y1 Y2
r1
r2
IS1
IS2
E1 E2
Hình 5.11. Tác động của chính sách tài khóa mở rộng trong mô hình IS – LM
Trạng thái cân bằng ban đầu của nền kinh tế là E1, bây giờ là E2. Đầu tư giảm kéo theo sản
lượng của nền kinh tế chỉ tăng từ Y1 đến Y2.
Trạng thái cân bằng ban đầu của nền kinh tế là E1, bây giờ là E2. Đầu tư giảm kéo theo sản
lượng của nền kinh tế chỉ tăng từ Y1 đến Y2. Mức sản lượng tăng Y = Y2 – Y1 này nhỏ hơn
mức tăng của tổng cầu 1 G
1 MPC(1 t)
.
5.3.3. Tác động của chính sách tiền tệ
Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, bằng việc
hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hoặc giảm lãi suất chiết khấu, hoặc mua trái phiếu trên thị
trường mở, khi đó cung tiền trong nền kinh tế sẽ tăng lên. Cung tiền tăng, đường LM dịch
chuyển sang phải (xuống dưới), lãi suất cân bằng giảm từ r1 xuống r2, đầu tư tăng lên làm
cho thu nhập cân bằng trong nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2.
r1
r2
Y1 Y2
LM1
LM2
E0
0
Sản lượng
Mức
lãi suất
IS
M
Hình 5.12. Chính sách tiền tệ mở rộng, đường LM dịch chuyển sang phải
Cung tiền tăng, đường LM dịch chuyển sang phải (xuống dưới), lãi suất cân bằng giảm từ r1
xuống r2, đầu tư tăng lên làm cho thu nhập cân bằng trong nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến Y2.
Như vậy, chính sách tiền tệ mở rộng trong nền kinh tế đóng làm tăng đầu tư, tăng thu nhập
của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
5.3.4. Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Trong nền kinh tế đóng, sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tùy thuộc
vào các công cụ mà Chính phủ đưa ra, phụ thuộc vào độ dốc của đường IS và đường LM,
đồng thời phụ thuộc vào mức độ phản ứng, mức độ tác động của hai chính sách này. Chúng
ta có thể xem xét một số trường hợp sau:
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
ECO102_Bai5_v2.0013107216 115
5.3.4.1. Sự phối hợp chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng
Khi Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá lỏng (tăng chi tiêu, giảm thuế) thì tổng cầu sẽ
tăng lên, đường IS sẽ dịch chuyển sang phải từ IS1 IS2 (xem hình 5.13), nền kinh tế đạt
trạng thái cân bằng tại E1. Kết quả là lãi suất tăng từ r0 r1, mức sản lượng cân bằng tăng
từ Y0 Y1. Do lãi suất tăng, đầu tư giảm, xảy ra hiện tượng tháo lui đầu tư.
Khi Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá mở rộng (tăng chi tiêu, giảm thuế) và chính sách
tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền), đường IS sẽ dịch chuyển đến IS2, đường LM dịch chuyển
đến LM2.
LM1
LM2
0 Sản lượng
Mức
lãi suất
Y0 Y1 Y2
r1
r0
IS1
IS2
E1
E2
E0
Hình 5.13. Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng
Để tránh được hiện tượng tháo lui đầu tư, Chính phủ phải kết hợp chính sách tiền tệ lỏng và
chính sách tiền tệ lỏng. Đó là việc Chính phủ tăng mức cung tiền và duy trì mức lãi suất r0,
đường LM dịch chuyển sang phải từ LM1 LM2 nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới
tại E2, lúc này lãi suất giảm từ r1 về mức lãi suất ban đầu r0, sản lượng cân bằng tăng lên từ
Y1 Y2. Kết quả của việc phối hợp hai chính sách là: Thu nhập tăng nhanh từ Y0 Y2 và
ổn định được lãi suất.
5.3.4.2. Sự phối hợp giữa chính sách tài khoá chặt và chính sách tiền tệ chặt
Chính sách tài khoá chặt (chính sách tài khoá thắt chặt) là chính sách sử dụng nhằm tăng
thuế T, giảm chi tiêu G để giảm tổng cầu AD và thu hẹp phạm vi phát triển của nền kinh tế.
Hình 5.14 dưới đây miêu tả Chính phủ sử dụng chính sách tài khoá thắt chặt và chính sách
tiền tệ thắt chặt làm giảm sản lượng cân bằng của nền kinh tế từ Y0 Y1, lãi suất cân bằng
không đổi.
Chính sách tiền tệ chặt (chính sách tiền tệ thắt chặt) sử dụng nhằm giảm mức cung tiền MS,
tăng lãi suất r để giảm tổng cầu AD nhằm giảm sản lượng cân bằng Y.
LM2
LM1
0 Sản lượng
Mức
lãi suất
Y0Y1Y2
r1
r0
IS1
Is2
E1
E2
E0
Hình 5.14. Chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt
Tác động của chính sách tài khóa
thắt hặt
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
116 ECO102_Bai5_v2.0013107216
Khi Nhà nước sử dụng chính sách tài khoá chặt đường IS sẽ dịch chuyển sang trái, IS giảm
từ IS1 IS2 nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng mới, sản lượng cân bằng giảm từ Y0 Y1,
lãi suất giảm từ r0 r1.
Để kìm hãm bớt tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế tránh nền kinh tế rơi vào tình trạng quá
nóng, Nhà nước có thể phối hợp với chính sách tiền tệ thắt chặt. Nhà nước giảm mức cung
tiền, tăng lãi suất i, đường LM sẽ dịch chuyển sang trái LM giảm từ LM1 LM2. Nền kinh
tế đạt trạng thái cân bằng mới là E2, lãi suất tăng từ r1 r0, sản lượng giảm từ Y1 Y2.
Kết quả của việc phối hợp hai chính sách đã làm cho sản lượng giảm nhanh, lãi suất r không
thay đổi, tránh được nền kinh tế rơi vào trạng thái tăng trưởng quá nóng.
5.3.4.3. Sự phối hợp giữa chính sách tài khoá lỏng và chính sách tiền tệ chặt
Để tăng tốc độ phát triển kinh tế, tăng sản lượng cân bằng Y của nền kinh tế, Chính phủ
phải sử dụng chính sách tài khoá lỏng (tăng G, giảm T), hình 5.15 cho thấy, đường IS dịch
chuyển từ IS0 IS1, điểm cân bằng mới là E1, lãi suất tăng, sản lượng cân bằng tăng nhanh
từ Y0 Y1.
r1
r0
r2
Y1Y2Y0
LM1
LM0
E0
E1
E2
0 Sản lượng
Mức
lãi suất
IS
IS0
IS1
Hình 5.15. Chính sách tài khóa lỏng và chính sách tiền tệ chặt
Kết quả của chính sách tài khoá lỏng và chính sách tiền tệ chặt là làm cho sản lượng tăng
lên ở mức độ hợp lý từ Y0 Y2; lãi suất tăng từ r0 r2; không gây lạm phát cao.
Nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh, lạm phát cao. Nhà
nước cần sử dụng chính sách tiền tệ chặt, để hỗ trợ cho
chính sách tài khoá lỏng. Nền kinh tế đang đạt trạng thái
cân bằng tại điểm E1. Khi sử dụng chính sách tiền tệ
chặt, mức cung tiền giảm, lãi suất tăng, đầu tư có xu
hướng giảm, nền kinh tế chuyển sang trạng thái cân bằng
mới tại E2, lãi suất tăng từ r1 r2, sản lượng cân bằng
giảm từ Y1 Y2.
Kết quả của việc phối hợp hai chính sách là làm cho sản
lượng tăng lên ở mức độ hợp lý, đạt được tốc độ tăng
trưởng dài hạn, không gây lạm phát cao: Sản lượng cân bằng tăng từ Y0 Y2, lãi suất tăng
từ r0 r2.
Nền kinh tế phát triển nóng
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
ECO102_Bai5_v2.0013107216 117
Nghiên cứu trường hợp Việt Nam
Chính sách tài khoá “cãi” chính sách tiền tệ?
(VietNamNet) – Chính sách tiền tệ vẫn thắt chặt trong khi chính sách tài khoá lại nới lỏng
khiến áp lực lạm phát và lãi suất dâng cao. Đó là lý do chính khiến các chuyên gia cho
rằng, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính lệch pha nhau trong việc điều hành chính
sách tài chính – tiền tệ.
Tại cuộc hội thảo khoa học về Tăng cường hiệu quả phối hợp giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa ở Việt Nam vừa được tổ chức tại Hà Nội, nhiều ý kiến đã cho rằng,
hai chính sách quan trọng này của Việt Nam vẫn chưa phối hợp nhịp nhàng với nhau.
Thậm chí, có chuyên gia còn cho rằng, trong tình hình nguy cơ lạm phát như hiện nay, hai
chính sách này cũng không đồng nhất trong mục tiêu hướng tới. Chính sách tiền tệ vẫn bị
thắt chặt trong khi chính sách tài khoá lại nới lỏng khiến áp lực lạm phát vẫn cao và lãi
suất cũng cao.
Người thắt – kẻ nới
Tuy nhiên, chính sách tiền tệ lại được thắt chặt nhằm kiểm soát lạm phát như tăng dự trữ
bắt buộc, tăng lãi suất tái chiết khấu, tăng các lãi suất chỉ đạo khác,... Việc sử dụng chính
sách tiền tệ thận trọng đã góp phần kiềm chế lạm phát ở mức một con số. Nhưng theo ông
Nghĩa, cái giá nền kinh tế phải trả là lãi suất cao và lạm phát cao trong điều kiện cố gắng
đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao như dự kiến.
Cũng theo ông Nghĩa, sự phối hợp chưa đồng điệu giữa hai chính sách này cũng gây ra
nhiều ảnh hưởng khác. Chẳng hạn, để đạt được mục tiêu huy động vốn phục vụ cho các
mục đích của Chính phủ (trong đó có bù đắp thâm hụt ngân sách), thông thường lãi suất
trái phiếu thường cao hơn lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại. Điều này đã
làm cho luồng tiền vốn dịch chuyển từ khu vực dân cư và doanh nghiệp vào trái phiếu để
hưởng lợi và đương nhiên đầu tư phát triển kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân sẽ
giảm xuống.
Thêm vào đó, hàng năm Ngân hàng Trung ương vẫn phải cung ứng lượng tiền không nhỏ
cho Ngân sách Nhà nước mà theo quy định "khoản tạm ứng này phải hoàn trả trong năm
ngân sách". Nhưng thực tế, nó đã không được hoàn trả đúng hạn và việc cho vay như vậy
đã dẫn tới lượng tiền cơ sở tăng và kết quả gây áp lực tăng lạm phát.
Ông Nguyễn Ngọc Bảo – Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ – thì băn khoăn là hai cơ
quan này chưa phối hợp tốt trong việc trao đổi thông tin điều hành. Việc phối hợp về lãi
suất cũng chưa hợp lý. Lãi suất tín phiếu kho bạc lẽ ra phải thấp nhất trên thị trường,
nhưng trên thực tế nó lại mang tính chỉ đạo của Bộ Tài chính, cao hơn hoặc bằng lãi suất
huy động của các ngân hàng, chưa thành lãi suất chuẩn cho thị trường tiền tệ,...
Ngân hàng Nhà nước không kiểm soát được các dòng luân chuyển tiền.
Trong bài tham luận của mình, TS Nguyễn Đại Lai – Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng,
Ngân hàng Nhà nước – cũng nhận định rằng công nghệ thanh toán nói chung và hệ thống
thanh toán liên ngành giữa Ngân hàng và Tài chính nói riêng còn quá rời rạc.
Ông Lai chứng minh rằng, tại khoản 3 (Điều 34 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
năm 1997) ghi: "Ngân hàng Nhà nước mở tài khoản và thực hiện các giao dịch cho Kho
bạc Nhà nước. Ở huyện, thị xã không phải là tỉnh lỵ, Kho bạc Nhà nước mở tài khoản tại
một ngân hàng thương mại Nhà nước". Đây là một ràng buộc pháp lý ở cấp Luật, nhưng
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
118 ECO102_Bai5_v2.0013107216
cách diễn đạt như vậy đã không phản ánh được tính chất nghiêm ngặt của luật pháp mà
chỉ làm cho các bên thực hiện hiểu đây là một qui định phản ánh trách nhiệm của Ngân
hàng Trung ương hơn là buộc Kho bạc Nhà nước phải mở tài khoản và thanh toán qua
hệ thống Ngân hàng Nhà nước.
Vì vậy, trên thực tế các dòng luân chuyển tiền và qui chế mở tài khoản của Kho bạc Nhà
nước qua hệ thống ngân hàng còn mang nặng tính chia cắt và tuỳ tiện. Việc mở tài khoản
hiện tại của kho bạc chỉ để thanh toán chuyển khoản những món nợ nần giữa kho bạc,
hoặc giữa các quĩ của Nhà nước với các bên liên quan hơn là để Ngân hàng Nhà nước
kiểm soát việc luân chuyển tiền tệ trong nền kinh tế.
Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đến nay vẫn chưa thành lập được trung tâm
thanh toán quốc gia nên Kho bạc Nhà nước vẫn phải xây "kho" chứa tiền theo đúng cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của từ này. Chính “Tình trạng "vừa đá bóng, vừa thổi còi" của
Kho bạc Nhà nước đối với một khối lượng tiền khổng lồ của quốc gia luôn tương đương
với tổng thu ngân sách hàng năm cộng với các nguồn vay trong và ngoài nước của Chính
phủ đạt tới doanh số trên dưới 33% GDP trên hệ số quay vòng tiền tệ quân bình của kho
bạc, đã làm biến đổi môi trường lưu thông tiền tệ theo hướng phi thị trường hoá", ông Lai
nhận xét.
Riêng thị phần tín dụng cho đầu tư phát triển từ khu vực ngân sách Nhà nước và các
"Quỹ" tài chính nhà nước ngoài ngân sách đã chiếm tới hơn 30% tổng đầu tư toàn xã hội
trong những năm vừa qua. Đó là chưa kể, phần tín dụng chính sách, phần vốn nhà nước ở
khu vực các doanh nghiệp nhà nước, các ngân hàng quốc doanh và phần bù lãi suất cho
tín dụng chính sách ưu đãi hàng năm cũng ngày càng gia tăng. Luật pháp điều chỉnh
không thống nhất đã làm chia cắt và rối loạn thị trường tài chính.
Ngoài ra, với qui mô luân chuyển và sử dụng khối lượng tiền lớn như vậy, nếu không đi
qua một trung tâm thanh toán thống nhất "một cửa" của hệ thống thanh toán quốc gia do
Ngân hàng Trung ương quản lý thì tất yếu sẽ dẫn đến những rủi ro không đáng có và gây
ảnh hưởng rất lớn đến việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Ông
Lai cho rằng, chính sách cung ứng, chính sách tỷ giá, chính sách lãi suất do đó không thể
tránh được sự ảnh hưởng xấu trực tiếp đến mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền và đến
khả năng kiểm soát lạm phát.
Nghiên cứu trường hợp nền kinh tế Mỹ
Sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ năm 2001
Trong năm 2001, nền kinh tế Mỹ lâm vào tình trạng suy thoái ở mức báo động. Dự kiến
có khoảng 2,1 triệu người mất việc làm, tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3,9% đến 5,8%. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế khá thấp, chỉ 0,8%, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn
1994–2000 là 3,9%. Có 3 nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng suy thoái kinh tế này:
Thị trường chứng khoán giảm dẫn đến tiêu dùng của các hộ gia đình giảm.
Vụ khủng bố ngày 11/9 làm tăng tính bất ổn định về chính trị và kinh tế, làm giảm niềm
tin trong kinh doanh và tiêu dùng.
Các vụ việc liên quan đến hợp nhất của các tập đoàn: Enron, WorldCom, v.v
Từ các nguyên nhân đó đã gây ra sự sụt giảm của giá chứng khoán, không khuyến khích
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
ECO102_Bai5_v2.0013107216 119
đầu tư, chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư giảm, đường IS dịch chuyển sang trái.
Để đưa nền kinh tế thoát khỏi cuộc khủng hoảng đó, chính phủ Mỹ đã thực hiện hàng loạt
các biện pháp liên quan đến chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ như:
Đối với chính sách tài khóa: Chính phủ Mỹ đã cắt giảm thuế trong giai đoạn
2001–2003 và tăng chi tiêu của Chính phủ như: Đầu tư vào lĩnh vực hàng không, xây
dựng lại NYC, và tăng chi tiêu cho chiến tranh ở Afghanistan war. Kết quả là đường IS
dịch chuyển sang phải.
Đối với chính sách tiền tệ: Chính phủ hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc và mua trái phiếu để
tăng cung tiền, kết quả là đường LM dịch chuyển sang phải.
Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng đã làm tăng thu nhập của nền kinh tế Mỹ,
đưa nền kinh tế Mỹ dần thoát khỏi cuộc khủng hoảng trong các năm tiếp theo.
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
120 ECO102_Bai5_v2.0013107216
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Sau khi nghiên cứu xong bài 5, chúng ta có thể tóm lược một số nội dung nổi bật như sau:
Thị trường hàng hoá cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi suất cho
trước. Khi lãi suất thay đổi đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu nhập mới. Như vậy,
nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị
trường hàng hoá sẽ được một đường gọi là đường IS.
Đường IS có độ dốc âm. Độ dốc của đường IS sẽ phụ thuộc vào độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư và
nhu cầu tiêu dùng tự định đối với lãi suất. Nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định càng bị
giảm xuống do lãi suất tăng, khi lãi suất tăng sẽ càng làm giảm mức thu nhập cân bằng và độ dốc
của đường IS càng thoải. Phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác động
của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong
nền kinh tế như thế nào. Hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường IS xảy ra là do lãi
suất thay đổi. Bất kỳ các yếu tố tự định (các yếu tố của tổng cầu không phụ thuộc vào thu nhập
thay đổi) đều làm cho đường IS dịch chuyển song song sang vị trí mới.
Các điểm nằm dưới đường IS biểu thị tình trạng thiếu hàng (dư cầu), các điểm nằm bên ngoài
đường IS biểu thị tình trạng thừa hàng (dư cung).
Đường LM là đường bao gồm tập hợp tất cả các điểm phản ánh mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lãi
suất và thu nhập khi thị trường tiền tệ cân bằng. Đường LM có độ dốc dương. Nếu độ nhạy cảm
của cầu tiền với lãi suất (h) càng lớn thì đường LM càng thoải; nếu độ nhạy cảm của cầu tiền và thu
nhập (k) càng lớn thì đường LM càng dốc và ngược lại. Phân tích độ dốc của đường LM cho chúng
ta biết được mức độ tác động của chính sách tài khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất,
thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế như thế nào. Khi thu nhập tăng lên đòi hỏi một lượng cầu
tiền tăng thêm dẫn đến tăng lãi suất do cung tiền không đổi. Như vậy, khi thu nhập thay đổi, xảy ra
hiện tượng di chuyển (trượt dọc) các điểm trên đường LM. Khi cầu tiền nhạy cảm với thu nhập và
kém nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ rất dốc. Nếu mức cung tiền giảm xuống, đường LM sẽ
dịch chuyển sang trái.
Các điểm nằm phía trên đường LM biểu thị trạng thái dư cung tiền. Các điểm nằm phía dưới đường
LM biểu thị trạng thái dư cầu tiền tệ.
Đường IS phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường hàng hoá với các tổ hợp khác nhau giữa
lãi suất và thu nhập. Đường LM phản ánh các trạng thái cân bằng của thị trường tiền tệ cũng của
những tổ hợp này. Tác động qua lại giữa hai thị trường ấn định mức lãi suất và thu nhập cân bằng
đồng thời cho cả hai thị trường tại một điểm (r0, Y0).
Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa mở rộng, bằng việc tăng chi
tiêu của Chính phủ thêm một lượng là G, khi đó tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng, tổng cầu tăng,
đường IS dịch chuyển sang phải, do tổng cầu tăng thêm một lượng là 1 G
1 MPC(1 t)
, cầu tiền
tăng, đẩy lãi suất tăng. Lãi suất tăng là nguyên nhân làm giảm đầu tư (đây chính là hiện tượng tháo
lui đầu tư).
Trong nền kinh tế đóng, giả sử Chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng, bằng việc giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc, khi đó cung tiền trong nền kinh tế sẽ tăng lên. Đường LM dịch chuyển sang phải
(xuống dưới), lãi suất cân bằng giảm xuống, đầu tư tăng lên làm cho mức thu nhập cân bằng trong
nền kinh tế tăng lên. Như vậy, chính sách tiền tệ mở rộng trong nền kinh tế đóng làm tăng đầu tư,
tăng thu nhập của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ tùy thuộc vào các công cụ mà Chính phủ
đưa ra, phụ thuộc vào độ dốc của đường IS và đường LM, đồng thời phụ thuộc vào mức độ phản
ứng, mức độ tác động của hai chính sách này.
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
ECO102_Bai5_v2.0013107216 121
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích cách xây dựng đường IS.
2. Phân tích độ dốc của đường IS và chỉ rõ vai trò của việc phân tích độ dốc của đường IS.
3. Phân tích cách thiết lập đường LM.
4. Phân tích độ dốc của đường LM.
5. Phân tích sự phối hợp giữa chính sách tài khoá mở rộng và chính sách tiền tệ mở rộng trong mô
hình IS – LM trong nền kinh tế đóng.
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
122 ECO102_Bai5_v2.0013107216
CÂU HỎI ĐÚNG SAI VÀ GIẢI THÍCH TẠI SAO?
1. Nếu MPC tăng lên thì đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.
2. Nếu cầu tiền rất nhạy cảm với thu nhập thì đường LM sẽ dịch chuyển song song sang trái.
3. Nếu cầu tiền nhạy cảm với lãi suất thì đường LM sẽ dịch chuyển song song sang phải.
4. Khi chi tiêu tự định của chính phủ tăng lên thì đường IS sẽ dịch chuyển song song sang phải.
5. Chính phủ tăng tỷ suất thuế ròng (t) là nguyên nhân làm cho đường IS sẽ dịch chuyển song song
sang trái.
6. Khi tiêu dùng tự định tăng lên thì đường IS sẽ thay đổi độ dốc.
7. Khi cung tiền thực tế thay đổi thì đường LM sẽ thay đổi độ dốc.
8. Khi đầu tư tự định thay đổi thì đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.
9. Khi thu nhập quốc dân tăng lên đường LM sẽ dịch chuyển song song so với vị trí ban đầu.
10. Độ dốc của đường IS và đường LM có thể chỉ ra được mức độ tác động của các chính sách tài khóa
hoặc chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế.
11. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá nhanh thì Chính phủ có thể điều chỉnh nền kinh tế bằng việc sử
dụng chính sách tài khóa nới lỏng phối hợp với chính sách tiền tệ nới lỏng.
12. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì Chính phủ có thể điều chỉnh nền kinh tế bằng việc
áp dụng phối hợp chính sách tài khóa chặt với chính sách tiền tệ chặt.
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
ECO102_Bai5_v2.0013107216 123
BÀI TẬP THỰC HÀNH
1. Trong nền kinh tế mở, giả định tỷ giá hối đoái là cố định không tác động đến các biến số kinh tế
khác, có số liệu sau: (đơn vị tỷ USD)
C = 50 + 0,75YD T = 0,2Y MD = 0,2 Y – 10r
I = 140 – 8r IM = 40 + 0,1Y MS = 137,5
G = 200 X = 200
a. Hãy viết phương trình của đường IS và đường LM.
b. Xác định lãi suất cân bằng và mức thu nhâp cân bằng đồng thời của nền kinh tế. Tình trạng của
NS Chính phủ tại mức thu nhập cân bằng.
c. Để thực hiện tăng chi tiêu của Chính phủ về hàng hoá và dịch vụ thêm 100 tỷ USD, thì mức thu
nhập cân bằng và lãi suất cân bằng mới là bao nhiêu? Cho biết tác động của chính sách tài khoá
trong trường hợp này và minh hoạ bằng đồ thị.
2. Giả sử trong nền kinh tế đóng có số liệu như sau:
Hàm tiêu dùng: C = 200 + 0,75YD
Hàm đầu tư: I = 200 – 25r
Với r là lãi suất danh nghĩa; chi tiêu của Chính phủ cho hàng hoá và dịch vụ G = 100, thuế
T = 100, hàm cầu tiền MD =Y – 100r. Cung tiền MS = 500.
a. Xây dựng phương trình đường IS và phương trình đường LM.
b. Mức thu nhập và lãi suất cân bằng là bao nhiêu?
c. Giả sử chi tiêu của Chính phủ tăng từ 100 lên 150. Viết lại phương trình đường IS và tính lãi
suất và thu nhập cân bằng mới là bao nhiêu?
d. Giả sử cung ứng tiền tệ tăng từ 500 lên 600, hãy viết lại phương trình đường LM và tính thu
nhập và lãi suất cân bằng mới.
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
124 ECO102_Bai5_v2.0013107216
BÀI TẬP LỚN
1. Sử dụng mô hình IS – LM để phân tích tác động của các công cụ của chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm phát ở Việt Nam (với các yếu tố khác như luồng vốn, tỷ giá
hối đoái, v.v... được coi là không đổi).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_5_mo_hinh_is_lm_3277.pdf