GIỚI THIỆU
Các hãng, các thị trường, và việc thiết lập hợp đồng quan hệ (relational contracting) là những thể chế kinh tế quan trọng. Chúng cũng là sản phẩm tiến hóa của một chuỗi những đổi mới về tổ chức. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường chưa chiếm một vị trí quan trọng trong chương trình nghị sự về nghiên cứu khoa học xã hội.
Việc xao lãng này được giải thích một phần bởi sự phức tạp vốn có của các thể chế đó. Nhưng sự phức tạp có thể và quả thật thường phục vụ như là một yếu tố thúc đẩy chứ không phải là yếu tố cản trở. Tình trạng ban sơ của kiến thức của chúng ta ít nhất cũng được giải thích với mức độ tương đương bởi sự miễn cưỡng trong việc thừa nhận rằng các chi tiết về tổ chức có tầm quan trọng. Khái niệm phổ biến về công ty hiện đại như là một “hộp đen” là một mẫu mực về truyền thống nghiên cứu phi thể chế (hay tiềnphân
tích vi mô).
Tuy nhiên, chỉ đơn thuần thừa nhận rằng các chi tiết về phân tích vi mô của tổ chức có tầm quan trọng thì chưa đủ. Cần phải xác định những đặc điểm về cấu trúc quan trọng nhất của các hình thức theo thị trường, theo hệ thống tầng nấc, tựa thị trường (quasi-market) của tổ chức và liên kết chúng với những kết quả kinh tế theo một cách thức có tính hệ thống. Việc thiếu sự đồng ý về (hay những khái niệm sai lầm liên quan đến) những mục đích chính của tổ chức kinh tế cũng là một yếu tố gây trở ngại cho tiến
bộ trong nghiên cứu.
Để giải quyết những vấn đề đó, sẽ cần đến một chương của lịch sử tư duy kinh tếnào đó chưa được viết ra. Bất kể sự giải thích cuối cùng là gì, sự thật là hoạt động nghiên cứu về các thể chế kinh tế đã chứng kiến sự hồi sinh. Theo đó, trong khi việc nghiên cứu về kinh tế học về thể chế đã đạt điểm sa sút nhất trong thời kỳ ngay sau chiến tranh thế giới, thì bình tâm nhìn lại chúng ta sẽ lần ra được rằng việc phục hồi sự quan tâm về các thể chế và việc tái xác nhận tầm quan trọng về kinh tế của chúng đã xảy ra từ đầu thập
niên 1960.1 Nội dung hoạt động bắt đầu xuất hiện vào đầu thập niên 1970.2 Đặc điểm chung của lĩnh vực nghiên cứu mới là khái niệm hãng (công ty) như là một hàm sản xuất bị thay thế (hay được nâng cao) bởi khái niệm hãng như là một cấu trúc quản trị (governance structure). Nghiên cứu thuộc loại Kinh tế học mới về thể chế (New Institutional Economics) đã đạt khối lượng có tính quyết định trước năm 1975.3 Thập niên
sau đó chứng kiến sự gia tăng theo cấp số nhân.
Kinh tế học về chi phí giao dịch là một phần của truyền thống nghiên cứu Kinh tế học mới về thể chế. Mặc dù kinh tế học về chi phí giao dịch (và, tổng quát hơn, Kinh tế học mới về thể chế) áp dụng vào việc nghiên cứu tổ chức kinh tế thuộc tất cả các loại, nhưng cuốn sách này chủ yếu đặt trọng tâm vào các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt đề cập đến hãng, thị trường, và hợp đồng quan hệ (relational contracting).
Trọng tâm đó trải qua trọn vẹn một khoảng biến thiên từ một đầu là sự trao đổi rời rạc trên thị trường đến đầu kia là tổ chức theo tầng nấc tập trung, với vô số phương thức hỗn hợp hay trung gian ở khoảng giữa. Đặc trưng thay đổi của tổ chức kinh tế theo thời gian – trong phạm vi và giữa các thị trường và các hệ thống tầng nấc – là điều được quan tâm đặc biệt.
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2490 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế học về chi phí giao dịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngờ (cĩ thể quan sát được một cách cơng khai) sẽ xảy ra sau đĩ được mơ tả một cách đầy
đủ. Như thế, các vấn đề khĩ khăn về thực thi hợp đồng khơng bao giờ phát sinh (hay sự
từ bỏ các hợp đồng như thế bị ngăn cản bởi vì việc tịa án xét xử giải quyết tất cả các vụ
tranh chấp được cho là hiệu nghiệm (Baiman, 1982, trang 168). Vì thế cho nên, trong bối
cảnh tính duy lý hạn chế, hợp đồng được mơ tả như là thế giới về lập kế hoạch .
Bảng 1-1. Các Đặc tính của Quá trình Thiết lập Hợp đồng.
Giả định về Hành vi
Tính duy lý
hạn chế
Tính cơ hội
chủ nghĩa
Tính Chuyên dụng
của Tài sản
Quá trình Thiết lập Hợp
đồng được cho thấy
một cách gián tiếp
0 + + Lập kế hoạch
+ 0 + Hứa hẹn
+ + 0 Cạnh tranh
+ + + Quản trị
Hãy xét một tình huống khác, trong đĩ các tác nhân (agents) cĩ tính duy lý hạn chế và các
giao dịch được hỗ trợ bởi các tài sản chuyên dụng, nhưng điều kiện về cơ hội chủ nghĩa
được giả định là khơng hiện diện, điều này cĩ ý nghĩa là lời hứa của một tác nhân hồn
tồn tin cậy được. Mặc dù những khoảng trống sẽ xuất hiện trong các hợp đồng này, do
tính duy lý hạn chế, nhưng chúng khơng gây ra những rủi ro về thực thi hợp đồng nếu các
bên sử dụng đến một điều khoản tổng quát về tự cưỡng chế thực thi (tự bảo đảm tuân
thủ). Mỗi bên trong hợp đồng chỉ đơn giản cam kết ngay từ đầu sẽ thực hiện hợp đồng
một cách hiệu quả (theo cách thức tối đa hĩa lợi nhuận kết hợp (lợi nhuận tổng cộng của
các bên)) và chỉ cố gắng đạt suất sinh lợi hợp lý ở những thời điểm tái tục hợp đồng cách
khoảng nhau. Bằng cách đĩ, loại bỏ được hành vi mang tính chiến lược. Như thế, các
bên trong hợp đồng thu nhận được tất cả những lợi ích đúng như những lợi ích họ được
thừa hưởng khi đạt được thỏa thuận ban đầu. Sau đĩ, việc thực hiện hợp đồng tiến hành
một cách hiệu quả đến lúc hồn tất bởi vì những lời hứa hẹn thuộc loại được mơ tả trên
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
15
đây, khi khơng cĩ tính cơ hội chủ nghĩa, mang tính tự cưỡng chế thực thi (tự bảo đảm
tuân thủ). Trong bối cảnh cảnh này, hợp đồng chỉ là thế giới về hứa hẹn.
Kế tiếp, chúng ta hãy xét đến tình huống mà trong đĩ các tác nhân chịu tính duy lý
hạn chế và được cho là cơ hội chủ nghĩa, nhưng tính chuyên dụng của tài sản được coi là
khơng cĩ. Các bên tham gia các hợp đồng như thế khơng cĩ những mối quan tâm liên tục
đến nhận dạng đặc trưng (identity) của nhau. Điều này mơ tả thế giới mà ở đĩ việc thiết lập
hợp đồng rời rạc trên thị trường là hiệu nghiệm, ở đĩ các thị trường mang tính cĩ thể tranh
giành một cách hồn tồn,26 và ở đĩ việc đấu giá mua nhượng quyền kinh tiêu (franchise
bidding) để cĩ độc quyền tự nhiên được chấp nhận. Bởi vì sự gian lận và những hành động
lừa dối quá mức bị ngăn cản bởi cách thức sắp xếp của tịa án,27 nên trong bối cảnh này,
hợp đồng được mơ tả bởi thế giới về cạnh tranh.
Mỗi cơng cụ trong ba cơng cụ nĩi trên sẽ thất bại khi tính duy lý hạn chế, tính cơ
hội chủ nghĩa, và tính chuyên dụng của tài sản được kết hợp. Việc lập kế hoạch nhất thiết
là khơng hồn chỉnh (do tính duy lý hạn chế), sự hứa hẹn cĩ thể tiên đốn là sẽ đổ vỡ (do
chủ nghĩa cơ hội), và nhận dạng đặc trưng từng cặp của các bên bây giờ cĩ tầm quan
trọng (do tính chuyên dụng của tài sản). Đây là thế giới về quản trị. Bởi vì sự hiệu
nghiệm của cách thức sắp xếp của tịa án cịn bấp bênh, nên việc thực hiện hợp đồng phần
lớn là nhiệm vụ của các thể chế về trật tự tư. Đây là thế giới mà kinh tế học về chi phí
giao dịch đề cập đến. Mệnh lệnh (điều quan trọng và cấp bách) về tổ chức nổi lên trong
những tình huống đĩ là: Tổ chức các giao dịch nhằm mục đích giảm bớt được tính duy lý
hạn chế trong khi đồng thời bảo vệ các giao dịch này khỏi những rủi ro của tính cơ hội
chủ nghĩa. Lời phát biểu như thế ủng hộ một khái niệm khác biệt và rộng lớn hơn về vấn
đề kinh tế so với mệnh lệnh “Tối đa hĩa lợi nhuận” ủng hộ.
4. Giản đồ Đơn giản về Thiết lập Hợp đồng
Giả định rằng một hàng hĩa hay dịch vụ nào đĩ cĩ thể được cung cấp bởi một trong hai
cơng nghệ thay thế khác nhau. Một cơng nghệ là cơng nghệ đa năng (general purpose
technology), cơng nghệ kia là cơng nghệ đặc dụng hay chuyên năng (special purpose
technology). Cơng nghệ đặc dụng địi hỏi đầu tư nhiều hơn vào các tài sản lâu bền
chuyên dụng theo giao dịch (transaction – specific durable assets) và cĩ hiệu quả hơn cho
việc đáp ứng những nhu cầu ở trạng thái dừng.
Bằng cách sử dụng k làm một thước đo về các tài sản chuyên dụng (đặc định) theo
giao dịch, các giao dịch sử dụng cơng nghệ đa năng là các giao dịch mà đối với chúng
k=1. Ngược lại, khi các giao dịch sử dụng cơng nghệ đặc dụng, thì điều kiện k>0 hiện
hữu. Các tài sản ở đây được chuyên biệt hĩa theo các yêu cầu đặc biệt của các bên. Các
giá trị về sản xuất vì thế sẽ bị mất đi khi các giao dịch thuộc loại này được chấm dứt sớm
trước thời hạn. Điều kiện độc quyền song phương (tay đơi) được mơ tả ở trên và được
trình bày chi tiết trong Chương 2 áp dụng cho các giao dịch như thế.
Trong khi việc thiết lập hợp đồng trên thị trường cổ điển – “vào nhanh bằng sự
thỏa thuận dứt khốt, ra nhanh bằng sự thực hiện dứt khốt” (Macneil, 1974, trang 738) –
là đủ cho các giao dịch thuộc loại k=0, thì sự quản trị theo thị trường khơng được trợ giúp
đặt ra những rủi ro bất cứ khi nào các tài sản chuyên dụng theo giao dịch quan trọng bị
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
16
đặt vào tình trạng cĩ nguy cơ thất bại. Các bên cĩ động cơ khuyến khích nghĩ ra những
biện pháp bảo vệ an tồn để bảo vệ các đầu tư vào những giao dịch thuộc loại sau. Hãy
gọi S là ký hiệu của tầm mức của biện pháp bảo vệ an tồn như thế. Điều kiện S=0 là
điều kiện trong đĩ khơng cĩ biện pháp bảo vệ an tồn nào được cung cấp; quyết định
cung cấp các biện pháp bảo vệ an tồn được thể hiện bởi kết quả S>0.
Hình 1-2 Giản đồ Đơn giản về Thiết lập Hợp đồng
Hình 1-2 trình bày ba kết cục về thiết lập hợp đồng phù hợp với sự mơ tả như thế. Gắn
liền với mỗi điểm nút (điểm A, B, C trên hình 1-2) là một mức giá. Nhằm mục đích tạo
thuận lợi cho việc so sánh giữa các điểm nút này, giả định rằng các nhà cung cấp (1) trung
tính (trung dung) với rủi ro, (2) sẵn sàng cung cấp sản phẩm với cơng nghệ nào cũng
được, và (3) sẽ chấp nhận bất cứ điều kiện bảo vệ an tồn nào, trong chừng mực cĩ thể dự
phĩng được kết quả hịa vốn kỳ vọng. Như thế, điểm nút A là quan hệ cung với cơng
nghệ đa năng (k=0), đối với quan hệ cung này, mức giá hịa vốn là P1 được dự phĩng.
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
17
Hợp đồng ở điểm nút B được hỗ trợ bởi các tài sản chuyên dụng (đặc định) theo giao dịch
(k>0), mà đối với hợp đồng này khơng cĩ điều kiện bảo vệ an tồn nào được đưa ra
(S=0). Ở đây, giá hịa vốn kỳ vọng là p . Hợp đồng ở điểm nút C cũng sử dụng cơng
nghệ đặc dụng. Nhưng vì người mua ở điểm nút này đưa ra cho nhà cung cấp một điều
kiện bảo vệ an tồn, (S>0), nên giá hịa vốn, p, ở điểm nút C thấp hơn p .
Những biện pháp bảo vệ an tồn mà tơi đề cập thường dưới một hay hơn một hình
thức trong ba hình thức sau đây. Hình thức thứ nhất là tái liên kết các động cơ khuyến
khích, mà thường bao hàm một loại trợ cấp kết thúc hợp đồng (severance payment) hay
một khoản tiền phạt đối với việc kết thúc sớm trước thời hạn nào đĩ. Hình thức thứ hai là
tạo ra và sử dụng một cấu trúc quản trị chuyên biệt, để đưa ra và giải quyết các vụ tranh
chấp trước các cấu trúc này. Như thế, việc sử dụng trọng tài, thay vì kiện tụng tại các tịa
án, là một đặc điểm của sự quản trị ở điểm nút C. Hình thức thứ ba là đưa ra những mơ
thức đều đặn về thương mại hỗ trợ và báo hiệu những dự định về tính liên tục của hợp
đồng. Việc mở rộng quan hệ thương mại từ trao đổi đơn phương sang trao đổi song
phương – thơng qua việc sử dụng cĩ phối hợp, thí dụ, nguyên tắc cĩ qua cĩ lại – qua đĩ
thực hiện sự cân bằng các rủi ro thương mại là một thí dụ về hình thức cuối đĩ.
Giản đồ đơn giản về thiết lập hợp đồng này, mà sẽ được trình bày chi tiết sau này,
áp dụng cho nhiều vấn đề khác nhau về thiết lập hợp đồng. Giản đồ này làm cho phân
tích so sánh về thể chế (thể chế) dễ dàng bằng cách nhấn mạnh rằng cơng nghệ (k), những
biện pháp bảo vệ an tồn/quản trị theo hợp đồng (S) và mức giá (p) cĩ tính tương tác hồn
tồn và được xác định đồng thời. Trong suốt cuốn sách này, giản đồ nĩi trên sẽ được
tham chiếu lặp đi lặp lại nhiều lần. Quả nhiên, thật là hài lịng khi thấy rằng nhiều áp
dụng đến thế hĩa ra là những biến thể dựa trên một chủ đề. Như Hayek đã nhận xét, “Bất
cứ khi nào người ra đã cĩ được năng lực nhận thức về qui tắc trừu tượng, mà sự sắp xếp
các đặc tính này tuân theo, trong một lĩnh vực, thì cùng một khuơn mẫu gốc này sẽ áp
dụng khi dấu hiệu về các đặc tính trừu tượng đĩ được tạo ra bởi những yếu tố hồn tồn
khác” (1967, trang 50).28
Để tĩm tắt, các điểm nút A, B, và C trong giản đồ về hợp đồng được trình bày ở
Hình 1-2 cĩ những đặc tính sau đây.
1. Các giao dịch được hỗ trợ một cách hiệu quả bởi các tài sản đa năng (k=0) nằm ở
điểm nút A và khơng cần các cấu trúc quản trị bảo vệ. Việc thiết lập hợp đồng rời rạc
trên thị trường là đủ. Thế giới về cạnh tranh tồn tại.
2. Các giao dịch địi hỏi những đầu tư đáng kể thuộc loại chuyên dụng theo giao dịch
(k>0) là những giao dịch mà đối với chúng các bên tham gia một cách hiệu quả và
thương mại song phương (tay đơi)
3. Các giao dịch nằm ở điểm nút B khơng cần cĩ biện pháp bảo vệ an tồn (S=0), vì lý
do đĩ mức giá cung hịa vốn dự phĩng là cao ( p > p). Những giao dịch như thế cĩ
khuynh hướng khơng ổn định về mặt hợp đồng. Chúng cĩ thể trở lại điểm nút A
(trong trường hợp đĩ cơng nghệ đặc dụng sẽ được thay thế bởi cơng nghệ đa năng
(k=0)) hay được chuyển sang điểm nút C (bằng cách đưa ra các biện pháp bảo vệ an
tồn theo hợp đồng mà sẽ khuyến khích việc tiếp tục sử dụng cơng nghệ đặc dụng
(k>0)).
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
18
4. Các giao dịch nằm ở điểm nút C cĩ kết hợp các biện pháp bảo vệ an tồn (S>0) và
như thế các giao dịch này được bảo vệ chống lại các rủi ro về chiếm đoạt.
5. Trong chừng mực giá cả và quản trị được liên kết với nhau, các bên tham gia hợp
đồng khơng nên trơng đợi sẽ được hưởng lợi cả đơi đường, mà thực ra là được cái này
(giá thấp) thì mất cái kia (khơng cĩ biện pháp bảo vệ an tồn) và ngược lại. Tổng
quát hơn, điều quan trọng là phải nghiên cứu tồn bộ quá trình hợp đồng. Cả những
điều khoản tiền suy (ex ante) lẫn cách thức thực hiện hợp đồng sau đĩ đều thay đổi
theo các đặc điểm về đầu tư và các cấu trúc quản trị liên quan mà trong đĩ các giao
dịch gắn chặt vào.
5. Tổ chức Kinh tế của Thành phố Cơng ty (Company Town)
Thành phố Cơng ty (Company Town) chủ yếu được xem là một điều nhắc nhở đến những
sự lạm dụng lao động gắn với thời đại trước đây. Chắc chắn là khơng thể nĩi điều gì
thuận lợi, càng khơng thể bào chữa gì về một tình trạng như thế.
Tuy nhiên, các thành phố cơng ty là ngoại lệ chứ khơng phải là thơng lệ (thành
phố cơng ty là điều bất thường). Hơn nữa, câu hỏi cần được nêu lên là, tại sao lại cĩ
người chấp nhận làm việc với những điều kiện khơng thuận lợi một cách hiển nhiên?
Tổng quát hơn, những giải pháp thay thế về mặt hợp đồng phù hợp, mà đối với chúng cần
cĩ sự đánh giá so sánh, là những giải pháp nào? Vì nghiên cứu về các trường hợp thái
cực thường giúp làm sáng tỏ những điều cơ bản của một tình huống (Behaviorial Sciences
Subpanel (Tiểu nhĩm Các Khoa học về Hành vi), 1962, trang 5), nên sự nghiên cứu xem
xét các vấn đề khĩ khăn về tổ chức mà thành phố cơng ty đối mặt cĩ thể mang lại nhiều
thơng tin hữu ích.
Các vấn đề được xử lý theo hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất minh họa những ưu
điểm và giai đoạn thứ hai minh họa những giới hạn của việc nghiên cứu tổ chức kinh tế
trên quan điểm “tồn bộ quá trình thiết lập hợp đồng”
5.1 Phân tích Hợp đồng
Giả định những điều sau đây: (1) Người ta đã xác định vị trí một nguồn khống sản ở một
nơi hẻo lánh, việc khai thác nguồn khống sản này được cho là cĩ lợi; (2) người ta chỉ cĩ
thể khai thác nguồn khống sản này sau khi thực hiện những đầu tư đáng kể vào tài sản
vật chất lâu bền mà về sau khơng thể chuyển đi chỗ khác; (3) các kỹ năng cần thiết của
lao động khơng cĩ tính chuyên biệt theo hãng ở mức độ đáng kể, nhưng cĩ các chi phí bố
trí sản xuất liên quan đến việc chuyển lao động đến nơi sản xuất mới; (4) thời tiết ở vùng
cĩ khống sản này rất khắc nghiệt, điều này địi hỏi phải cung cấp nhà ở lâu bền để bảo vệ
khỏi tác động của thời tiết; (5) cộng đồng những người thợ mỏ quá nhỏ đến nổi khơng thể
đủ khách hàng cho hơn một cửa hàng bách hĩa tổng hợp; và (6) thành phố gần nhất cách
xa vùng khống sản này bốn mươi dặm.
Tơi muốn tập trung vào hai vấn đề: Các cơng nhân hay hãng khai thác mỏ nên sở
hữu nhà ở trong cộng đồng? Cửa hàng bách hĩa tổng hợp nên được sở hữu và điều hành
như thế nào? Nhằm mục đích trình bày các đặc điểm liên quan rõ ràng hơn, hai kịch bản
khác nhau về tính di động (mobility scenarios) sẽ được xem xét.
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
19
a. XÃ HỘI BẤT ĐỘNG
Đây là thời đại trước khi cĩ xe ơ tơ. Hãng quảng cáo để tìm cơng nhân và mơ tả các điều
khoản về tuyển dụng lao động. Với địa điểm xa xơi hẻo lánh, các cơng nhân sẽ quan tâm
đến khơng chỉ tiền cơng mà cịn nhà ở và cơ sở hạ tầng về kinh tế.
Nếu hãng quyết định tự mình xây dựng nhà ở, thì hãng cĩ thể (1) bán các căn nhà
đĩ cho cơng nhân, (2) cho cơng nhân thuê các căn nhà đĩ với hợp đồng thuê ngắn hạn, (3)
viết những hợp đồng thuê dài hạn với những khoản phạt nghiêm ngặt đối với việc chấm
dứt sớm trước thời hạn của người thuê, hay (4) viết những hợp đồng thuê dài hạn ràng
buộc hãng, nhưng cho phép người thuê được chấm dứt hợp đồng dễ dàng. Hoặc một cách
khác là hãng cĩ thể (5) yêu cầu các cơng nhân tự xây dựng nhà ở của riêng họ.
Với thị trường mỏng như nĩi trên, các cơng nhân tự xây dựng nhà ở riêng của họ
thực ra là thực hiện những đầu tư chuyên biệt theo hãng. Thiếu các biện pháp bảo vệ an
tồn theo hợp đồng – các điều khoản về mua lại (nhờ đĩ mà cơng ty hay hãng bảo đảm thị
trường trong trường hợp tạm cho nghỉ việc hay chấm dứt hợp đồng), những điều khoản
bảo đảm cơng ăn việc làm dài hạn, những khoản trợ cấp thơi việc gộp, những khoản trợ
cấp tử vong, và những điều tương tự – nên cơng nhân sẽ chỉ đồng ý thực hiện những đầu
tư như thế khi họ được đề nghị một khoản tiền thưởng ký hợp đồng làm việc và/hoặc một
khoản chênh lệnh cao hơn về tiền cơng. Thể hiện theo giản đồ cơ bản về hợp đồng trong
Hình 1-1, phương án cuối cùng đĩ tương ứng với một kết quả ở điểm nút B chứ khơng
phải một kết quả ở điểm nút C (nghĩa là, một kết cục w > w)
Tuy nhiên, các kết cục ở điểm nút B nổi tiếng là khơng hiệu quả. Các chi phí cận
biên của hãng sẽ bị đẩy lên cao do thỏa thuận về tiền cơng w, do đĩ hãng sẽ thực hiện
việc tạm cho nghỉ việc (giãn thợ) dựa theo một tiêu chí khơng hiệu quả. Tương tự, những
kế hoạch về nhà ở được các cơng nhân chọn cĩ nguy cơ bị tác hại do những rủi ro nĩi
trên. Như thế, những ưu điểm của việc tập trung tất cả những đầu tư chuyên biệt vào tay
hãng khai thác mỏ cĩ khuynh hướng là hiển nhiên đối với cả hai bên ngay từ đầu (hoặc sẽ
trở nên hiển nhiên trong suốt các cuộc đàm phán giữa hai bên). Vì thế, quyền sở hữu nhà
ở (cho cơng nhân) của hãng khai thác mỏ cùng với các điều khoản hợp đồng thuê hiệu
quả phải được chấp nhận. Phương án 4 – các hợp đồng thuê dài hạn ràng buộc bên cho
thuê nhưng cho phép bên thuê được chấm dứt hợp đồng dễ dàng – cĩ những điểm hấp dẫn
rõ ràng.29
Hãy xét đến cửa hàng bách hĩa. Ở đây, những khả năng hàng đầu là: (1) Cửa
hàng bách hĩa này được sở hữu bởi hãng khai thác mỏ và (a) được điều hành như một
độc quyền, (b) được đặt dưới một giới hạn về suất sinh lợi hợp lý, hay (c) được đặt dưới
một giới hạn rổ hàng hĩa tiêu biểu trên thị trường (số chỉ số); (2) một nhượng quyền kinh
tiêu (franchise) nhiều năm được cấp cho người đặt giá cao nhất, số tiền thu được từ cuộc
bán đấu giá cạnh tranh này (a) được trả cho quỹ của cơng ty, (b) được phân chia trong
nhĩm cơng nhân ban đầu, hay (c) được đưa vào một quỹ thị trường vốn ngắn hạn và chi
trả cho các khách hàng trong suốt tuổi thọ của hợp đồng nhượng quyền kinh tiêu tỷ lệ với
số tiền mua hàng; và (3) cửa hàng bách hĩa được sở hữu và điều hành bởi các cơng nhân
như một hợp tác xã. Mặc dù khơng cĩ phương án nào trong các phương án nĩi trên là
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
20
khơng cĩ vấn đề rắc rối, nhưng các phương án 2c và 3 cĩ nhiều điều xứng đáng đề xuất
chúng.30 Dù sự quyết định thế nào đi nữa, điểm tổng quát hơn là: Thỏa thuận về tiền
cơng mà các cơng nhân đồng ý sẽ phụ thuộc vào, chứ khơng phải độc lập với, cách thức
sở hữu và điều hành cửa hàng bách hĩa nếu, theo như đã giả định, những nhận thức trong
hợp đồng phản ảnh tất cả đặc điểm nổi bật nhất – mà quyền sở hữu và sự quản trị cửa
hàng bách hĩa phù hợp với chúng một cách rõ ràng.
b. XÃ HỘI DI ĐỘNG
Sự xuất hiện của xe ơ tơ, nhà ở lưu động, tủ đơng lạnh dùng trong nhà, các cơ sở kinh
doanh hàng hĩa mua bán bằng đường bưu điện, và những phương tiện tương tự làm giảm
bớt rất nhiều những khĩ khăn về thiết lập hợp đồng của thời đại trước khi xã hội cĩ tính
di động. Yêu cầu phải đầu tư vào nhà ở chuyên biệt theo địa điểm được giảm nhẹ nhờ
việc phát minh ra những tài sản phù hợp trên các bánh xe, đĩ là điều mà phương án nhà ở
lưu động biểu hiện. Người ta khơng cịn phải dựa một cách độc nhất vào cửa hàng bách
hĩa nhờ khả năng mua hàng ở cách xa, mà giao thơng vận tải ít tốn kém đến thành phố kế
cận và việc mua hàng từ những cơ sở kinh doanh mua bán hàng qua đường bưu điện cho
phép. Như thế, những thay đổi về thị trường và cơng nghệ cĩ những ảnh hưởng về hợp
đồng rất rộng. Thực ra, một giải pháp thay thế cĩ thể tồn tại và phát triển ở điểm nút A
được đưa vào tập hợp chọn lựa mà trước đây đã là một tập hợp chọn lựa phức tạp về mặt
hợp đồng ở điểm nút B/điểm nút C.
Phải cơng nhận là, các cộng đồng khai thác mỏ xa xơi hẻo lánh cĩ thể vẫn biểu
hiện các vấn đề khác mà đối với những vấn đề này sẽ cần đến những đánh giá so sánh về
thể chế cẩn thận. Tuy nhiên, rõ ràng là những sự căng thẳng về hợp đồng của thời đại
trước đây được giảm bớt nhiều nhờ tính di động mà các tài sản trên các bánh xe và sự
cạnh tranh cho phép.
5.1 Một vài bảo lưu
Nếu tồn bộ quá trình thiết lập hợp đồng tồn tại và cĩ hiệu lực, thì một cơ cấu hiệu quả
của tiền cơng, quyền sở hữu nhà ở, những hoạt động của cửa hàng bách hĩa của cơng ty,
và những thứ tương tự sẽ xuất hiện, bất kể điều kiện về tính di động của dân cư ra sao.
Thế thì điều gì giải thích cho sự bất mãn phổ biến đối với tổ chức của các thành phố cơng
ty (company towns) trong thời đại trước khi xã hội cĩ tính di động?
Cĩ hai khả năng hàng đầu. Một là những người nghiên cứu về các thành phố cơng
ty đã khơng tiến hành những kiểm định so sánh về thể chế phù hợp. Thay vì mơ tả và
đánh giá tập hợp phương án chọn lựa về hợp đồng thực sự mà từ đĩ tổ chức thành phố
cơng ty bắt buộc phải chọn, người ta lại so sánh các thành phố cơng ty với các thành phố
khơng phải là thành phố cơng ty (noncompany towns). Điều chẳng cĩ gì đáng ngạc nhiên
là, các thành phố cơng ty đạt kết quả yếu kém khi so sánh như thế. Tuy nhiên, vì sự so
sánh như thế là khơng phù hợp về mặt hoạt động, nên so sánh như thế hồn tồn khơng
giúp ích gì cho việc hiểu biết các vấn đề khĩ khăn về tổ chức mà thành phố cơng ty phải
đương đầu.
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
21
Khả năng thứ hai là, đặc biệt trong bối cảnh tổ chức thị trường lao động, tồn bộ
quá trình thiết lập hợp đồng hiếm khi được hiện thực hĩa. Các thành phố cơng ty chắc sẽ
ít đáng ghét hơn rất nhiều nếu chúng được thật sự tổ chức phù hợp với các nguyên tắc về
thiết lập hợp đồng hiệu quả. Nhưng cửa hàng bách hĩa của cơng ty nào từng được tổ
chức như một hợp tác xã? Một vấn đề khĩ khăn kinh niên của việc tổ chức thị trường lao
động là các cơng nhân và gia đình của họ đều là những người lạc quan khơng thể kìm nén
được. Họ bị đánh lừa bởi những sự bảo đảm về thiện ý mơ hồ, bởi những lời hứa hẹn
khơng thể cưỡng chế thực thi về mặt pháp lý, và bởi niềm hy vọng sẽ cĩ được cuộc sống
tốt đẹp của chính họ. Tồn bộ quá trình mặc cả kiên quyết khơng bao giờ xảy ra hay, nếu
nĩ xảy ra, đều quá trể. Như thế, việc đánh giá khách quan những rủi ro về việc làm lẽ ra
phải đi trước bất cứ thỏa thuận về việc làm nào lại chỉ xảy ra sau khi bị thất vọng.
“Những yêu cầu” địi bồi thường thiệt hại trong những tình huống đĩ cĩ khuynh hướng
được xem là một sự hù dọa – dựa trên, như sự thực xảy ra, sự yếu kém. Tổ chức tập thể
cĩ thể hữu ích, nhưng tổ chức tập thể kéo theo sự đấu tranh. Những sự dàn xếp sau đĩ cĩ
thể chặn đứng sự “mất máu” chứ khơng cĩ tác dụng “tiếp máu”.
Tơi cĩ ý kiến rằng cả hai yếu tố điều gĩp phần làm cho các thành phố cơng ty bị
đánh giá thấp. Tuy nhiên, như đã phát biểu từ đầu, cuốn sách này khơng cố gắng xử lý
tồn diện tất cả các yếu tố liên quan. Thay vào đĩ, tơi luơn giả định rằng các bên tham
gia hợp đồng đều cứng rắn và rằng những ảnh hưởng của các hợp đồng thay thế khác
nhau đều được hiểu bằng trực giác, nếu khơng nĩi là được xem xét xuyên suốt hồn tồn.
Điều này thường mang lại những hiểu biết sâu sắc, nhưng khơng phải khơng tốn chi phí.
Những sự bỏ sĩt hay những biến dạng đơi khi xảy ra. Tơi tin rằng những chi phí như thế
kém nghiêm trọng khi những thơng lệ thiết lập hợp đồng thương mại (bao gồm sự liên kết
dọc và các cấu trúc quản trị bên trong hỗ trợ) được xem xét lại so với khi sự tổ chức thị
trường lao động được nghiên cứu. Trong bất cứ trường hợp nào, tơi nhấn mạnh đến
những đặc điểm về chi phí giao dịch mà trước đây đã bị bỏ qua là cĩ ý định bù đắp cho sự
mất cân bằng trước đây. Tơi hồn tồn đồng ý rằng việc thiết lập hợp đồng phức tạp sẽ
được hiểu rõ hơn khi được xem xét trên nhiều quan điểm cĩ trọng tâm rõ ràng.
6. Một số ứng dụng
Những ứng dụng của kinh tế học về chi phí giao dịch phác thảo ở đây sẽ được phát triển
rộng hơn trong các chương sau. Chủ đích chỉ đơn thuần cổ vũ cho nhận định rằng kinh tế
học về chi phí giao dịch liên hệ với nhiều trong số các vấn đề hết sức hấp dẫn đối với kinh
tế học vi mơ ứng dụng.
6.1 Những Biện pháp Hạn chế Thị trường dọc
Trong khi trước kia người ta thường tiếp cận các biện pháp hạn chế về địa bàn hay hạn
chế về khách hàng và các hình thức liên quan về thiết lập hợp đồng khơng thơng thường
cĩ lẽ như là chống lại cạnh tranh, thì kinh tế học về chi phí giao dịch hiện nay duy trì giả
định cĩ thể bác bỏ rằng những thơng lệ thực hành như thế cĩ mục đích bảo vệ an tồn cho
các giao dịch. Giản đồ về thiết lập hợp đồng trong phần 4 cho thấy rằng các hãng mà
trong đĩ các tài sản chuyên dụng bị đặt vào tình trạng rủi ro (k>0) cĩ động cơ khuyến
khích nghĩ ra cấu trúc quản trị cĩ tính bảo vệ (S>0), bằng cách đĩ sẽ nằm ở điểm nút C.
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
22
Nhiều thơng lệ thực hành khơng thơng thường, trong số đĩ các biện pháp hạn chế về địa
bàn và về khách hàng là các thí dụ, đáp ứng một cách chính xác mục đích này.
Như thế, giả sử một hãng phát triển được một hàng hĩa hay dịch vụ đặc biệt và
phân phối hàng hĩa hay dịch vụ này thơng qua những người được nhượng quyền kinh
tiêu (franchisees). Giả định thêm rằng động cơ xúc tiến hàng hĩa hay dịch vụ này cĩ
những ngoại tác: Một số người được nhượng quyền kinh tiêu cĩ thể cố gắng xài chùa các
nỗ lực xúc tiến của những người khác; hoặc những người được nhượng quyền kinh tiêu
phục vụ nhĩm dân cư di động cĩ thể cắt giảm chi phí, cho phép chất lượng xuống cấp, và
chuyển hiệu ứng về tiếng tăm lên cả hệ thống. Như thế, những người cấp nhượng quyền
kinh tiêu (franchisors) cĩ động cơ khuyến khích mở rộng tầm ảnh hưởng của mình vượt
quá quyết định cấp nhượng quyền kinh tiêu ban đầu để bao gồm các biện pháp hạn chế
đối với điều kiện cung cấp.
Mặc dù điều đĩ cĩ thể hiển nhiên, nhưng khơng phải luơn luơn như thế. Hãy xét
lập trường của chính phủ khi thảo luận về vụ kiện Schwinn trước Tịa án Tối cao: Một
“qui phạm pháp luật xử lý các nhà sản xuất chế tạo đảm nhiệm chức năng phân phối một
cách khoan dung hơn so với những nhà sản xuất chế tạo áp đặt các hạn chế đối với các
nhà phân phối độc lập chỉ đơn thuần phản ánh sự thật rằng, mặc dù sự liên kết (sự hợp
nhất) về phân phối đơi khi đem lại lợi ích cho nền kinh tế bằng cách dẫn đến tiết kiệm chi
phí, nhưng những thỏa thuận duy trì giá bán lẻ hay áp đặt những biện pháp hạn chế về địa
bàn trong thời hạn hữu hạn hay những kiểu hạn chế về cửa hàng liên quan ở đây chưa bao
giờ được chứng tỏ là tạo ra những lợi ích cho nền kinh tế tương đương”.31 Sự ưu tiên rõ
ràng đối với các phương thức tổ chức nội bộ so với phương thức tổ chức theo thị trường
phù hợp với mối bận tâm thịnh hành lúc đĩ về các đặc điểm cơng nghệ và việc khơng
quan tâm đến các lợi ích của các biện pháp bảo vệ an tồn theo hợp đồng.32 Xét theo giản
đồ thiết lập hợp đồng được trình bày trong Hình 1-2, chính phủ giả định một cách ngầm
ẩn rằng tất cả các giao dịch mua bán đều thuộc loại nằm ở điểm nút A – do đĩ, bất cứ nỗ
lực nào nhằm áp đặt các biện pháp hạn chế đều được cho là chống cạnh tranh.
6.2 Sự Phân biệt Đối xử về Giá cả
Đạo luật Robinson – Patman được giải thích như là một nỗ lực “nhằm khơng cho những
người mua lớn được hưởng [các khoản bớt giá] ngoại trừ trong chừng mực mức giá thấp
hơn cĩ thể được biện minh là chính đáng bởi lý do về chi phí giảm của người bán nhờ sản
xuất, giao hàng, hay bán với số lượng lớn, hoặc bởi lý do về nỗ lực theo thiện ý của người
bán nhằm thỏa mãn mức giá thấp ngang bằng của đối thủ cạnh tranh. Một lần nữa, điều
này giả định một giao dịch ở điểm nút A. Tuy nhiên, nếu người bán hoạt động trên nhánh
k>0 và đang bán cho những người mua, mà một người mua trong số đĩ cung cấp một
biện pháp bảo vệ an tồn theo hợp đồng trong khi người mua khác từ chối, thật là khơng
thực tế khi kỳ vọng rằng sản phẩm sẽ được bán cho cả hai người mua nĩi trên với giá
đồng nhất. Thay vào đĩ, người mua ở điểm nút B phải trả một mức trội giá )ˆ( pp > để
thể hiện sự từ chối biện pháp an tồn chống lại rủi ro.
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
23
6.3 Qui định điều tiết / Nới lỏng qui định điều tiết
Việc cung cấp của nhà độc quyền cĩ hiệu quả ở đâu lợi thế kinh tế nhờ qui mơ lớn so với
độ lớn của thị trường. Nhưng, như Friedman than vãn, “Thật đáng tiếc là khơng cĩ giải
pháp tốt cho độc quyền kỹ thuật. Chỉ cĩ sự chọn lựa giữa ba điều tai hại: độc quyền tư
nhân khơng bị điều tiết, độc quyền tư nhân được nhà nước điều tiết, và hoạt động của
chính phủ” (1962, trang 128).
Friedman mơ tả đặc trưng của độc quyền tư nhân khơng bị điều tiết như là một
điều tai hại bởi vì ơng đã giả định rằng quyền sở hữu độc quyền tư nhân dẫn đến sự định
giá dựa trên những điều kiện độc quyền. Tuy nhiên, như Demsetz (1968b), Stigler
(1968), và Posner (1972) đã lập luận sau đĩ, người ta cĩ thể tránh được một kết cục về giá
độc quyền bằng cách sử dụng phương thức đấu thầu tiền suy (ex ante) để cấp nhượng
quyền kinh tiêu độc quyền cho hãng nào đề nghị cung cấp sản phẩm theo những điều
khoản tốt nhất. Demsetz đưa ra phương thức đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu cho lập
luận độc quyền tự nhiên bằng cách cởi bỏ “những điều phức tạp khơng liên quan” – như
khả năng lâu bền của thiết bị và tình trạng khơng chắc chắn (1968b, trang 57). Stigler
khẳng định rằng “các khách hàng cĩ thể bán đấu giá quyền bán điện, bằng cách sử dụng
nhà nước như một cơng cụ điều khiển cuộc bán đấu giá . . .. Cuộc bán đấu giá . . . gồm cĩ
[những giá đặt mua nhượng quyền kinh tiêu] để bán rẻ (1968, trang 19). Posner đồng ý
và cho rằng đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu là một phương cách hiệu nghiệm để cấp và
vận hành những nhượng quyền kinh tiêu TV cáp.
Kinh tế học về chi phí giao dịch cơng nhận giá trị của lập luận nĩi trên, nhưng
nhấn mạnh rằng phải xem xét những đặc điểm về thiết lập hợp đồng cả giai đoạn tiền suy
lẫn giai đoạn hậu suy. Chỉ khi cạnh tranh cĩ hiệu quả ở cả hai giai đoạn thì lập luận về
đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu mới được chấp nhận. Những thuộc tính của hàng hĩa
hay dịch vụ sẽ được nhượng quyền kinh tiêu là cốt yếu đối với sự đánh giá này. Đặc biệt,
nếu hàng hĩa và dịch vụ sẽ được cung cấp trong tình trạng khơng chắc chắn và nếu cĩ địi
hỏi các đầu tư đáng kể vào các tài sản chuyên dụng, thì sự hiệu nghiệm của phương thức
đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu cịn rất bấp bênh. Quả thực, việc thực hiện kế hoạch
đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu trong những tình huống đĩ thực chất là địi hỏi phát
triển dần dần một bộ máy quản lý hành chính mà chủ yếu chỉ khác trên danh nghĩa chứ
khơng phải khác loại với loại bộ máy gắn với qui định về suất sinh lợi. Điều sơ đẳng là
một sự thay đổi trên danh nghĩa thiếu ý nghĩa so sánh về thể chế.
Tuy nhiên, điều này khơng gợi ý rằng việc đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu đối
với các hàng hĩa và dịch vụ được cung cấp trong các điều kiện chi phí giảm dần là khơng
bao giờ khả thi hay hàm ý rằng người ta khơng bao giờ cĩ thể thay thế qui định vẫn cịn
tồn tại và quyền sở hữu cơng bằng việc đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu mà được những
khoản lợi rịng. Những thí dụ bao gồm các cơng ty hàng khơng dân dụng địa phương và,
cĩ thể, hoạt động giao nhận theo đường bưu điện. Người thắng thầu đối với mỗi hoạt
động nĩi trên cĩ thể được thay thế mà khơng gây ra những vấn đề khĩ khăn nghiêm trọng
về định giá tài sản, bởi vì nhà máy cơ sở (các ga hành khách ở sân bay, bưu điện, nhà kho
và v.v) cĩ thể được sở hữu bởi chính phủ, và các tài sản khác (máy bay, xe tải, và những
tài sản tương tự) sẽ cĩ thị trường hàng hĩa máy mĩc đã qua sử dụng hoạt động tích cực.
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
24
Vì thế cho nên, khơng phải là việc đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu hồn tồn thiếu giá
trị. Trái lại, đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu là một đề xuất rất giàu trí tưởng tượng.
Tuy nhiên, kinh tế học về chi phí giao dịch khẳng định rằng tất cả các kế hoạch về thiết
lập hợp đồng – trong đĩ đấu thầu nhượng quyền kinh tiêu để cĩ độc quyền tự nhiên là
một kế hoạch – cần phải được xem xét theo cách phân tích vi mơ và được đánh giá theo
cách thức so sánh về thể chế.
7. Những Nhận xét Kết luận
Kinh tế học về chi phí giao dịch dựa vào và phát triển những nhận định sau đây:
1. Giao dịch là đơn vị phân tích cơ bản.
2. Bất cứ vấn đề nào cĩ thể được trực tiếp hay gián tiếp đặt thành một vấn đề về
thiết lập hợp đồng đều cĩ thể được điều nghiên một cách hữu ích xét theo việc
tiết kiệm chi phí giao dịch.
3. Lợi thế kinh tế do chi phí giao dịch được hiện thực hĩa bằng cách gán các giao
dịch (vốn cĩ các thuộc tính khác nhau) với các cấu trúc quản trị (vốn là những
khung tổ chức mà trong khung này tính tồn vẹn của quan hệ hợp đồng được
quyết định) theo một cách thức phân biệt sáng suốt. Vì vậy:
a. Cần phải nhận dạng các thuộc tính xác định của các giao dịch.
b. Cần phải mơ tả các thuộc tính thích nghi và động cơ khuyến khích của các
cấu trúc quản trị thay thế khác nhau.
4. Mặc dù phân tích cận biên đơi khi được sử dụng, nhưng việc đưa vào áp dụng
kinh tế học về chi phí giao dịch địi hỏi sự đánh giá so sánh về thể chế đối với
các thể chế riêng biệt cĩ khả năng thay thế lẫn nhau – trong số các giải pháp
này, việc thiết lập hợp đồng thị trường cổ điển nằm ở một cực; tổ chức theo
tầng nấc tập trung nằm ở cực kia; và các phương thức hỗn hợp về tổ chức hãng
và thị trường nằm ở khoảng giữa.
5. Bất cứ nỗ lực nào nhằm xử lý một cách nghiêm túc việc nghiên cứu tổ chức
kinh tế đều phải chấp nhận những ảnh hưởng kết hợp của tính duy lý hạn chế
và chủ nghĩa cơ hội cùng với điều kiện về tính chuyên dụng của tài sản.
Về điểm cuối cùng này, hãy lưu ý rằng những khác biệt chủ yếu trong bốn khái niệm về
hợp đồng được thảo luận trong phần nội dung chính nĩi trên đều cĩ thể bắt nguồn từ
những biến thể trong một hay nhiều hơn một điều kiện trong ba điều kiện nĩi trên. Như
thế, hợp đồng như là việc lập kế hoạch tiền suy tồn diện và hợp đồng như là sự hứa hẹn,
cả hai đều đưa ra những giả định dũng cảm về bản chất con người – việc thiếu vắng tính
duy lý hạn chế được dành vai trị nổi bật bởi một loại (lập kế hoạch); việc khơng cĩ chủ
nghĩa cơ hội được giả định bởi loại kia (sự hứa hẹn). Ngược lại, các khái niệm hợp đồng
như là sự cạnh tranh và hợp đồng như là sự quản trị đưa ra những địi hỏi kém nghiêm
ngặt hơn về các khía cạnh về hành vi. Cả hai đều điều chỉnh cho thích ứng và/hoặc đưa
ra qui định rõ ràng về những giới hạn đối với tính hợp lý và những mối nguy hiểm của
chủ nghĩa cơ hội.
Như thế, chính điều kiện về tính chuyên dụng của tài sản phân biệt các mơ hình
thiết lập hợp đồng cạnh tranh và theo sự quản trị. Hợp đồng như là sự cạnh tranh hoạt
động tốt ở đâu tính chuyên dụng của tài sản khơng đáng kể. Đây là một điều kiện phổ
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
25
biến, vì thế ứng dụng của mơ hình cạnh tranh thật rộng. Tuy nhiên, khơng phải tất cả đầu
tư đều cĩ thể bố trí lại ở mức độ cao. Việc sử dụng mơ hình cạnh tranh ở bên ngồi
những hồn cảnh mà nĩ phù hợp nhất cĩ thể và đơi khi là sai lầm.
Trong khi mơ hình cạnh tranh của các thị trường đã được phát triển đến mức độ
tinh vi, thì những khĩ khăn khĩ vượt qua đi kèm với việc thiết lập hợp đồng trong bối
cảnh những đầu tư khơng thể bố trí lại chỉ mới được xem xét kỹ lưỡng gần đây. Điều này
là vì các nguồn gốc và tầm quan trọng về kinh tế của tính chuyên dụng của tài sản trước
đây đã bị đánh giá thấp. Việc mở rộng lý thuyết về tổ chức kinh tế để xử lý tính chuyên
dụng của tài sản đã và đang là mối bận tâm chính yếu trong chương trình nghị sự về
nghiên cứu của Kinh tế học mới về thể chế. Cuốn sách này đưa ra và áp dụng cách tiếp
cận theo trật tự tư đối với tổ chức kinh tế, trong đĩ khái niệm hợp đồng như là sự quản trị
được dành vai trị nổi bật.
Ghi chú:
1. Các đĩng gĩp đầu tiên bao gồm việc xây dựng lại khái niệm về các chi phí xã hội
của Ronald Coase (năm 1960), bàn luận mở đường về các quyền sở hữu tài sản
của Armen Alchian (năm 1961), cơng trình về các quyền sở hữu thơng tin về mặt
kinh tế đầy rắc rối của Kenneth Arron (năm 1962, 1963), và sự đĩng gĩp vào lịch
sử kinh doanh của Alfred Chandler con (năm 1962).
2. Nội dung này bao gồm những kết quả đầu tiên của tơi trong việc mơ tả lại vấn đề
liên kết dọc dưới dạng chi phí giao dịch (Williamson, năm 1971) và các kết quả
trong việc khái quát hĩa cách tiếp cận đĩ trong bối cảnh các thị trường và hệ
thống phân cấp (Williamson, năm 1973); những bàn luận về xem “cơng ty tư bản
chủ nghĩa cổ điển” dưới dạng một tổ chức theo nhĩm (năm 1972) của Armen
Alchian và Harold Demsetz và những cơng trình liên quan của họ về các quyền sở
hữu tài sản (năm 1973); việc đề xuất cách trình bày lại lịch sử kinh tế của Lance
Davis và Douglass North (năm 1971); cơng trình quan trọng về các thị trường lao
động của Peter Doeringer và Micheal Piore (năm 1971); và một bàn luận đầy
khiêu khích về kinh tế học về tình trạng mất cân bằng của Janos Kornai (năm
1971).
3. Vài điều trong nghiên cứu này được mơ tả trong chương đầu tiên của quyển “các
Thị trường và các Hệ thống Phân cấp) (năm 1975), cĩ tựa đề “Theo hướng Tân
Kinh tế học về thể chế”. Hội nghị về “Kinh tế học về Tổ chức Bên trong” được tổ
chức tại Đại học Pennsylvania vào năm 1974 (tài liệu chính thức từ hội nghị này
được cơng bố vào năm 1975 và 1976 trong Tập san Kinh tế học Bell) đã giúp xác
định lại chương trình nghiên cứu. Nhiều bài báo trong tập san Tổ chức và Cách
Ứng xử Kinh tế, lần đầu tiên xuất bản vào năm 1980, là theo tinh thần Tân Thể
chế. Để biết những bài tường thuật và bài viết mới đây cho tài liệu này, hãy đọc
Tập san Kinh tế học Lý thuyết và Thể chế số ra tháng Ba năm 1984 và sách đọc
sắp xuất bản do Louis Putterman và Victor Goldberg biên soạn.
4. Các ngoại lệ quan trọng đối với truyền thống này – tuy nhiên lại thường bị bỏ qua
– là những bàn luận về các thơng lệ hạn chế kinh doanh của Lester Telser (năm
1965) và Lee Preston.
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
26
5. Một quan điểm cân đối về các thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường sẽ đang
chờ đợi sự quan tâm cĩ phối hợp hơn nữa đối với xã hội học về tổ chức kinh tế,
vốn đang tiến triển một cách phù hợp. Để cĩ được cơng trình gần đây về loại này,
hãy xem Harrison White (năm 1981) Martha Feldman và James March (năm
1981), Arthur Stinchcombe (năm 1983), Mark Granovetter (sắp xuất bản), và
James Coleman (năm 1982).
6. Quả thực, việc tiết kiệm chi phí giao dịch là vấn đề chính yếu trong việc nghiên
cứu tổ chức kinh tế một cách tổng quát hồn tồn – trong các nền kinh tế thị
trường cũng như các nền kinh tế phi thị trường.
7. Các bàn luận của Herbert Simon về việc ra quyết định trong kinh tế học tập trung
chủ yếu vào các đặc trưng mang tính cá thể hơn là thể chế của tổ chức kinh tế
(năm 1959, 1962).
8. Phải thừa nhận rằng, tài liệu về sự thất bại của thị trường đã đề cập đến nhiều vấn
đề liên quan. Nhưng hiếm khi nĩ đặt ra những vấn đề dưới dạng chi phí giao dịch.
Do vậy, những nhận xét của Arrow tiên đốn là: “Tơi khẳng định rằng sự thất bại
của thị trường là một phạm trù tổng quát hơn là ngoại tác … [ngồi ra], sự thất bại
của thị trường khơng phải là tuyệt đối, tốt hơn nên xem xét một phạm trù rộng
hơn, đĩ là phạm trù về chi phí giao dịch, vốn nhìn chung là cản trở và trong những
trường hợp đặc biệt hồn tồn ngăn chận việc thành lập các thị trường (năm 1969,
trang 48)
9. Stanley Robinson coi lời trích dẫn này là của Turner, năm 1968, N. Y. State Bar
Association, Hội nghị chuyên đề chống độc quyền, trang 29.
10. Marc Galanter đề cập chi tiết như sau: “Khả năng thay đổi nhiều của các sở thích
và của các tình huống, so sánh với một số nhỏ những điều mà các quy tắc chính
thức cĩ thể xét đến … và việc giảm ý nghĩa trong khi chuyển tranh chấp thành
các phạm trù chuyên mơn cho thấy những hạn chế về khả năng đáng mong muốn
của các kết cục phù hợp với những quy tắc chính thức (năm 1981, trang 4)
11. Xem “Phần mở đầu”, mục 1.2
12. Các chi phí giao dịch hậu suy (ex post) liên quan đến, nhưng khác biệt một cách
rõ ràng với, các chi phí mà Michael Jensen và William Meckling gọi là các chi phí
ủy quyền - tác nghiệp. Các chi phí ủy quyền – tác nghiệp theo định nghĩa của họ
là tổng của “(1) các chi tiêu về giám sát của người ủy quyền (principal), (2)
những chi tiêu về cam kết của người thừa hành (agent) , và (3) phần mất mát cịn
lại” (1976, trang 308) – thành phần cuối này là một là một loại rất rộng.
13. Xem Mark Granovetter (năm 1983) để cĩ được phần thảo luận về tầm quan trọng
của sự gắn chặt vào bối cạnh xã hội. Ngồi ra, xem Douglass North (năm 1981).
14. Hiểu biết trực quan này tương tự với điều mà Michael Spence diễn tả trong lời
phỏng đốn của ơng rằng các lập luận về rào cản gia nhập sẽ nhường chỗ cho các
thị trường cĩ thể tranh giành trong dài hạn (1983, trang 1988). Mặc dù đối với
Spencer, dài hạn cĩ lẽ chỉ là hơn năm năm hay mười năm, nhưng một số hiện
tượng cĩ tính tiến hĩa mà tơi quan tâm cịn cĩ tầm thời gian nửa thế kỷ. Nĩi cách
khác là tơi đồng ý với sự chọn lọc dạng yếu chứ khơng phải dạng mạnh, sự phân
biệt là “theo nghĩa tương đối, người phù hợp hơn sẽ sống cịn, nhưng khơng cĩ lý
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
27
do gì để giả sử rằng chúng phù hợp nhất theo nghĩa tuyệt đơí” (Simon, 1983, trang
69; nhấn mạnh ở nguyên bản).
15. Lập luận về thế lực “chính” áp dụng cho việc bán các hàng hĩa bổ trợ ở thị trường
hạ nguồn. Trường phái Chicago khẳng định rằng sự ràng buộc (như việc bán kèm)
trong những tình huống này khơng thể mở rộng sức mạnh độc quyền mà chỉ biểu
hiện nỗ lực thực hiện sự phân biệt giá cả: “nếu khơng cĩ sự phân biệt giá cả, nhà
độc quyền sẽ khơng nhận được lợi nhuận độc quyền bổ sung từ việc chi phối
hồn tồn một sản phẩm bổ trợ” (Posner, trang 173). Đánh giá này được thừa nhận
rộng rãi. Timothy Brennan và Sheldon Kimmel kể từ đĩ đã xem xét một trường
hợp tuy đặc biệt nhưng thú vị, trong đĩ mối ràng buộc (tie) xảy ra khơng phải ở
thị trường hạ nguồn mà ở thị trường thượng nguồn. Họ cho thấy rằng mối ràng
buộc ở đây cĩ thể ảnh hưởng đến độc quyền trên thị trường cấp hai nếu “lợi thế
kinh tế nhờ phạm vi hay các điều kiện về cầu …[là] sao cho các nhà sản xuất
khơng thể bán hàng cấp hai một cách cĩ lợi trừ khi họ bán cả hàng cấp một cho
nhà độc quyền” (1983, trang 21).
16. Ví dụ, xem bản tĩm tắt hồ sơ amicus do Lawrence A. Sullivan chuẩn bị để giúp
đỡ bên bị trong vụ kiện Cơng ty Monsanto chống lại Tập đồn Dịch vụ Spray-Rite
(Spray-Rite Service Corporation)
17. Mặc dù quan điểm đa số trong vụ kiện Bệnh viện Jefferson Parish Quận số 2,
chống lại Hyde (Jefferson Parish Hosp Dist. No.2 v Hyde) (44 CCH S.Ct. Bull.,
P.) đi đến kết quả đúng, nĩ cũng làm rối tung quan điểm này khi đề cập đến lý
thuyết thế lực.
18. Xem Chương 14
19. Phải thừa nhận rằng, người ta cĩ thể tranh luận rằng việc phân biệt đối xử về giá là
cĩ hiệu quả, vốn là bình thường nếu người ta cĩ thể thực hiện nĩ tại chi phí giao
dịch bằng khơng và nếu các ảnh hưởng phân phối thu nhập được loại bỏ. Tuy
nhiên, giả định chi phí giao dịch bằng khơng hiếm khi được biện minh là xác
đáng, vì lý do này các đánh giá của xã hội và tư nhân về việc phân biệt đối xử về
giá cĩ thể mang lại nhiều kết quả trái ngược (Williamson, năm 1975, trang 11-13).
20. Để biết cuộc khảo sát gần đây, hãy xem Louis De Alessi (năm 1983). Để biết
cuộc khảo sát trước đây, hãy xem Eirik Furubotn và Steve Pejovich (năm 1974)
21. Để biết cuộc khảo sát gần đây, hãy xem Stanley Baiman (năm 1982)
22. Thảo luận gần đây về sự liên kết (sự hợp nhất) theo hàng dọc của Sanford
Grossman và Oliver Hart minh họa cho cả hai nhận định này. Theo đĩ, họ xem
quyền sở hữu tài sản là sự kiểm sốt đối với các quyền cịn lại: “Mỗi tài sản sẽ cĩ
một sở hữu chủ duy nhất và sở hữu chủ đĩ cĩ quyền kiểm sốt tài sản này trong
trường hợp một điều khoản [hợp đồng] bị thiếu” (1984, trang 7). Họ cịn nêu ý
kiến rằng sở hữu chủ của tài sản vật chất “cĩ thể ra lệnh cho những người làm
cơng trong nhà máy” sử dụng các tài sản này đúng theo những hướng dẫn của sở
hữu chủ (1984, trang 17). Như thế, những khác biệt giữa tổ chức thị trường và sự
kiên kết theo hàng dọc được qui cho là do những khác biệt về quyền sở hữu tài sản
mà những khác biệt này phân biệt chúng.
23. Mervyn King mơ tả đặc trưng mơ hình Arrow – Debrew như sau:
… các hàng hĩa được phân biệt khơng chỉ bởi những đặc điểm về vật lý và
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
28
khơng gian của chúng, và bởi thời điểm hàng hĩa này cĩ sẵn, mà cịn bởi “hồn
cảnh” (“trạng thái của thế giới”) mà trong đĩ hàng hĩa này được giao. Một “hồn
cảnh” được xác định bằng cách gắn những giá trị cho tất cả các biến số khơng
chắc chắn vốn liên quan đến nền kinh tế … và bao gồm một danh sách đầy đủ tất
cả các biến số này. Các hồn cảnh này cĩ tính loại trừ lẫn nhau, và kết hợp lại
chúng hình thành một tập hợp đầy đủ hồn tồn …Hiện nay các hàng hĩa được
xác định như là tùy thuộc vào việc xảy ra các sự kiện nhất định, và hệ thống thị
trường bao gồm các thị trường về tất cả các hàng hĩa tùy thuộc này. [1977, trang
128].
24. Tài liệu về thiết kế cơ chế giả định rằng các bên tham gia hợp đồng cĩ năng lực
nhận thức để khéo léo tạo ra các hợp đồng cĩ tính phức tạp khơng giới hạn. Nĩi
theo ngơn ngữ của Chương 2, các bên trong hợp đồng cĩ tính duy lý hạn chế; hãy
xem Bengt Holmstrom (1984). Tương phản với tài liệu về quyền sở hữu tài sản,
cách tiếp cận thiết kế cơ chế cho rằng “bởi vì nghĩa vụ của mỗi bên đối với bên
kia được xác định rõ một cách hồn tồn đối với mọi trạng thái của thiên nhiên,
nên khơng cĩ các quyền kiểm sốt cịn lại đối với tài sản để cĩ thể được phân bổ”
(Grossman và Hart, 1984, trang 7). Vì thế các hợp đồng phức tạp khơng đề cập
đến các quyền cịn lại mà đề cập đến việc xác định các nghĩa vụ ngay từ đầu – qui
định thích hợp đối với thơng tin riêng đã được thừa nhận.
25. Xem Baiman (năm 1982, trang 168)
26. Những khác biệt giữa kinh tế học về chi phí giao dịch và “lý thuyết về khả năng
tranh giành” (Baumol, Panzer, và Willig, 1982) về khía cạnh tính chuyên dụng
của tài sản thật đáng lưu ý. Cả hai cách tiếp cận này đối với việc nghiên cứu tổ
chức kinh tế đều cơng nhận tầm quan trọng của tính chuyên dụng của tài sản,
nhưng chúng nhìn tính chuyên dụng này từ hai đầu đối ngược của kính viễn vọng.
Theo đĩ lý thuyết về khả năng tranh giành giảm tầm quan trọng của tính chuyên
dụng của tài sản xuống thành khơng đáng kể, do đĩ việc nhập ngành chớp nhống
thật dễ dàng. Ngược lại, kinh tế học về chi phí giao dịch phĩng đại điều kiện về
tính chuyên dụng của tài sản. Sự hiện hữu của các tài sản lâu bền, chuyên biệt theo
hãng được cho là phổ biến, và do đĩ việc nhập ngành chớp nhống thường khơng
khả thi.
27. Giả định rằng cách thức sắp xếp của tịa án là hiệu quả trong một cơ chế cĩ tính
duy lý hạn chế và chủ nghĩa cơ hội hiển nhiên là khơng cĩ lý do chính đáng,
nhưng dù sao đây là một giả định được duy trì.
28. Mặc dầu tơi nhận ra rằng cách tiếp cận theo hợp đồng đối với sự liên kết theo
hàng dọc mà tơi đã từng viết về cách tiếp cận này vào năm 1971 chắc hẳn cĩ
những ứng dụng khác (bao gồm quy định và tổ chức thị trường lao động), nhưng
tơi thật sự hầu như chẳng tưởng tượng ra rằng những phương thức thiết lập hợp
đồng và quản trị cơng ty khơng thơng thường cũng cĩ thể được áp dụng cùng loại
phân tích sau khi trình bày lại những vấn đề này dưới dạng hợp đồng.
29. Liệu những khuyết điểm của ba phương án đầu được mơ tả trong bài cĩ vượt trội
các khuyết điểm của phương án (4) hay khơng, vấn đề này được để dành làm một
bài tập cho người đọc. Những thỏa thuận về cho thuê được tạo thuận lợi bằng cách
giả định rằng những người thuê nhà sẽ tiến hành việc chăm sĩc nhà cửa thỏa đáng,
điều này địi hỏi phải đưa vào hợp đồng thuê những biện pháp ngăn cản những sự
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Tài chính Phát triển
Bài đọc
Chương 1
Kinh tế học về Chi phí Giao dịch
Oliver E. Williamson Biên dịch: Nguyễn Thị Xinh Xinh
Hiệu đính: Vũ Thành Tự Anh
29
lạm dụng mà cĩ thể được thực hiện để thỏa mãn các bên. Hãy xem Alchian (1984,
trang 40) để biết phần thảo luận liên quan.
30. Một lần nữa, phần này được xem như một bài tập cho người đọc.
31. Bản tĩm tắt hồ sơ của Hoa Kỳ tại phần 58, vụ kiện Hoa Kỳ chống lại Arnold,
Schwinn & Co., 388 U.S. 365 (năm 1967).
32. Phần bàn luận sâu sắc của Lester Telser về “các thơng lệ thương mại cĩ tính lạm
dụng (năm 1965) nằm trong lĩnh vực cơng cộng nhưng đã khơng được chú ý.
33. FTC v Morton Salt Co., 334 U.S.37 (1948). Nhấn mạnh thêm
Tài liệu gốc: Oliver E. Williamson, The Economic institutions of capitalism, 1985, Nhà
xuất bản The Free Press. Bản dịch tíếng Việt do Chương trình Giảng dạy Kinh tế
Fulbright thuộc Đại học kinh tế TPHCM biên soạn và thực hiện. Chương trình Giảng dạy
Kinh tế Fulbright chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc dịch thuật. Trong trường
hợp cĩ khác biệt thì tài liệu nguyên gốc sẽ được sử dụng làm căn cứ..
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kinh tế học về chi phí giao dịch.pdf