Kiến thức và thực hành nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 12 - 24 tháng tuổi tại huyện Tiên Lữ năm 2011

Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 330 trẻ từ 12 - 24 tháng tuổi và các bà mẹ thuộc 8 xã của huyện Tiên Lữ - tỉnh Hưng Yên nhằm mục tiêu đánh giá kiến thức, thực hành chăm sóc trẻ của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Kết quả cho thấy: có 83% bà mẹ có kiến thức và 57,6% bà mẹ thực hành đúng cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh. 19% bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú lần đầu. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành đúng về thời gian cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn là 80,8% và 12,2%. Có 19,4% trẻ được ăn bổ sung sau 6 tháng tuổi. Số trẻ được ăn bổ sung sớm trước 6 tháng chiếm 80%. Tỷ lệ trẻ bị tiêu chảy và ho sốt trong vòng 3 tháng trước thời điểm điều tra tương ứng là 21,2% và 65,8%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thấp còi và gày còm lần lượt là 7,6%, 29,4% và 3,0%. Trẻ nam có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn so với trẻ nữ. Thực hành nuôi dưỡng, chăm sóc cho trẻ từ 12 - 24 tháng tại huyện Tiên Lữ còn chưa tốt. Tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng thể thấp còi khá cao. Trẻ nam có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn so với trẻ nữ.

pdf7 trang | Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức và thực hành nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 12 - 24 tháng tuổi tại huyện Tiên Lữ năm 2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
148 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC recommend that children living in areas with high rates of malnutrition and worm infections be subjected to a combined micronutrients and deworming supplements to increase normal growth and to reduce stunting rates. Key words: stunting children, micronutrient, early deworming KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH NUÔI DƯỠNG, CHĂM SÓC TRẺ CỦA BÀ MẸ VÀ TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA TRẺ EM TỪ 12 - 24 THÁNG TUỔI TẠI HUYỆN TIÊN LỮ NĂM 2011 Nguyễn Anh Vũ1, Lê Thị Hương2, Phạm Thị Thúy Hòa3, Đoàn Thị Thu Huyền2 1Tổ chức Tầm nhìn Thế giới, 2Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng, 3Viện Dinh Dưỡng Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 330 trẻ từ 12 - 24 tháng tuổi và các bà mẹ thuộc 8 xã của huyện Tiên Lữ - tỉnh Hưng Yên nhằm mục tiêu đánh giá kiến thức, thực hành chăm sóc trẻ của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Kết quả cho thấy: có 83% bà mẹ có kiến thức và 57,6% bà mẹ thực hành đúng cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau khi sinh. 19% bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú lần đầu. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức và thực hành đúng về thời gian cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn là 80,8% và 12,2%. Có 19,4% trẻ được ăn bổ sung sau 6 tháng tuổi. Số trẻ được ăn bổ sung sớm trước 6 tháng chiếm 80%. Tỷ lệ trẻ bị tiêu chảy và ho sốt trong vòng 3 tháng trước thời điểm điều tra tương ứng là 21,2% và 65,8%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thấp còi và gày còm lần lượt là 7,6%, 29,4% và 3,0%. Trẻ nam có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn so với trẻ nữ. Thực hành nuôi dưỡng, chăm sóc cho trẻ từ 12 - 24 tháng tại huyện Tiên Lữ còn chưa tốt. Tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng thể thấp còi khá cao. Trẻ nam có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn so với trẻ nữ. Từ khóa: suy dinh dưỡng, trẻ em, Tiên Lữ, Hưng Yên Địa chỉ liên hệ: Lê Thị Hương, Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội. Email: hathuhuong@yahoo.com Ngày nhận: 12/01/2013 Ngày được chấp thuận: 26/4/2013 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nhiều nghiên cứu tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cho thấy trẻ em có nguy cơ bị suy dinh dưỡng cao nhất trong giai đoạn từ 12 đến 24 tháng tuổi [1; 7]. Suy dinh dưỡng protein năng lượng ở trẻ em có thể dẫn tới tình trạng chậm phát triển về thể chất và tinh thần nghiêm trọng hơn có thể dẫn tới tử vong cho trẻ. Trong những năm gần đây, các chương trình phòng chống suy dinh dưỡng (PEM) đã giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng từ 51,5% năm 1985 xuống còn 16,8% năm 2011 [6]. Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn được xếp vào nhóm các nước có tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng cao trên thế giới và trong khu vực [8]. Nghiên cứu được thực hiện tại 8 xã của huyện Tiên Lữ - tỉnh Hưng Yên nhằm mô tả thực trạng suy dinh dưỡng của trẻ em từ 12 - 24 tháng tuổi và tìm hiểu một số yếu tố liên quan. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho trẻ em tại đây. Đề tài nghiên cứu nhằm mục tiêu: TCNCYH 82 (2) - 2013 149 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 1. Mô tả kiến thức và thực hành nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ của bà mẹ có con từ 12 - 24 tháng tuổi tại huyện Tiên Lữ - tỉnh Hưng Yên năm 2011. 2. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 12 - 24 tháng tuổi tại huyện Tiên Lữ năm 2011. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Địa bàn nghiên cứu: huyện Tiên Lữ tỉnh Hưng Yên. 2. Đối tượng: Trẻ từ 12 - 24 tháng tuổi và các bà mẹ. 3. Phương pháp 3.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. 3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu Trong đó: Z(1-α/2) = 1,96; α = 0,05; ε là độ chính xác tương đối = 17%; p = 30% là tỷ lệ trẻ bị suy dinh dưỡng thể thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Tiên Lữ theo báo cáo năm 2010 của tỉnh Hưng Yên. Ước tính 10% bỏ cuộc, cỡ mẫu là 342 trẻ. Danh sách trẻ từ 12 - 24 tháng tuổi cùng với các thông tin về giới tính, ngày tháng năm sinh, tên mẹ đã được lập sẵn và sử dụng để chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống tại 08 xã đại diện trên địa bàn huyện. 3.3. Thu thập số liệu: Phỏng vấn theo bộ câu hỏi để thu thập thông tin về kiến thức và thực hành của bà mẹ về chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ. Các số liệu cân nặng chiều cao được thu thập theo kỹ thuật chuẩn. 3.4. Phân tích số liệu Các số liệu nhân trắc được tính toán dựa theo quần thể tham khảo WHO. Trẻ được coi là gầy còm, thấp còi hoặc thiếu cân nếu cân nặng theo chiều cao, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo tuổi lần lượt nhỏ hơn -2SD [9]. Số liệu được phân tích bằng chương trình Stata và Anthro 2005. Test χ2 và Anova được sử dụng để đánh giá sự khác biệt về các tỷ lệ và giá trị trung bình. 4. Đạo đức nghiên cứu Đối tượng được giải thích đầy đủ về mục đích và nội dung nghiên cứu, đối tượng hoàn toàn tự nguyện tham gia nghiên cứu và có thể bỏ cuộc bất cứ lúc nào, các thông tin thu thập chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu. III. KẾT QUẢ 1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Tổng số có 330 cặp bà mẹ và trẻ em từ 12 - 24 tháng tuổi tham gia nghiên cứu. Nghề nghiệp chủ yếu của các bà mẹ là nông nghiệp và công nhân với tỷ lệ chung là 54,6% và 20,3%. Hầu hết các bà mẹ đã học hết cấp II (50%) và cấp III (33%). Số bà mẹ có trình độ học vấn từ trung cấp trở lên chiếm 12,8%. Trong tổng số 330 trẻ điều tra có 184 trẻ nam, chiếm tỷ lệ 55,8%, 146 trẻ nữ chiếm tỷ lệ 44,2%. Tỷ lệ hộ nghèo theo phân loại của địa phương tại các xã cụm I và cụm II tương ứng là 10,8% và 5,5%. 2. Kiến thức và thực hành chăm sóc, nuôi dưỡng của bà mẹ 2.1. Kiến thức và thực hành nuôi con bú 83% bà mẹ trả lời nên cho trẻ bú sớm trong vòng giờ đầu sau sinh. Tuy nhiên chỉ có 57,6% bà mẹ thực hành cho con bú sớm trong vòng giờ đầu sau sinh (biểu đồ 1). n = Z2 (1-α/2) x 1 - p ε2 p = 311 150 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biểu đồ 1. Kiến thức và thực hành của bà mẹ về thời điểm cho trẻ bú lần đầu Biểu đồ 2. Tỷ lệ bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú và lý do Kết quả điều tra cho thấy có 19% bà mẹ đã từng vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú. Lý do chính được các bà mẹ đưa ra là: họ quan niệm rằng sữa non không tốt (31,3%), bà mẹ lo sợ sữa lạnh (19,4%) và được người thân khuyên bảo (22,4%). Biểu đồ 3. Kiến thức và thực hành cho trẻ bú hoàn toàn của bà mẹ Có 80,8% bà mẹ cho rằng cần cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Tuy nhiên tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong vòng 6 tháng đầu rất thấp, khoảng 12,2%. 2.2. Kiến thức và thực hành cho trẻ ăn bổ sung Về kiến thức, có 1,5% bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn sớm trước 6 tháng tuổi, 68,5% bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn bổ sung từ 6 - 9 tháng tuổi và 30% bà mẹ cho rằng nên cho ăn bổ sung sau 9 tháng tuổi. Nhưng kết quả thực hành cho thấy có 80% bà mẹ cho trẻ ăn bổ sung trước 6 tháng tuổi. Số bà mẹ cho trẻ ăn bổ sung sau 6 tháng tuổi chiếm tỷ lệ 19,4% (biểu đồ 4). TCNCYH 82 (2) - 2013 151 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Biểu đồ 4. Kiến thức và thực hành của bà mẹ cho trẻ ăn bổ sung 2.3. Chăm sóc trẻ ốm Bảng 1. Tình trạng mắc một số bệnh cấp tính của trẻ và cách xử trí của bà mẹ Thông tin n % Tỷ lệ mắc bệnh trong 3 tháng qua Tiêu chảy 70 21,2 Ho sốt 217 65,8 Cho trẻ bú khi tiêu chảy Bình thường/nhiều hơn bình thường 36 85,7 Cho bú ít đi/không cho bú 6 14,3 Cho trẻ ăn kiêng khi tiêu chảy 31 70,5 Cho trẻ uống Oresol 18 40,9 Xử trí khi con tiêu chảy Tự mua thuốc về điều trị 32 66,7 Đưa trẻ tới cơ sở y tế 8 18,2 Bảng 1 cho thấy tỷ lệ trẻ bị tiêu chảy và ho sốt trong vòng 3 tháng trước thời điểm điều tra lần lượt là 21,2% và 65,8%. Khi trẻ mắc tiêu chảy, các bà mẹ thường cho trẻ bú như bình thường hoặc nhiều hơn (85,7%), tuy vẫn còn khoảng 14,3% bà mẹ cho con bú ít hơn bình thường hoặc không cho con bú. Đa số các bà mẹ kiêng không cho con ăn chất tanh: tôm, cá, cua, dầu mỡ (70,5%). Số bà mẹ cho trẻ uống Oresol khi trẻ mắc tiêu chảy là 40,9%. Về cách xử trí khi trẻ ốm của các bà mẹ tại Tiên Lữ, kết quả cho thấy có 66,7% bà mẹ tự mua thuốc về cho con uống. Tỷ lệ bà mẹ đưa con đến cơ sở y tế là 18,2%. 3. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ Biểu đồ 5 cho thấy tỷ lệ trẻ 12 - 24 tháng bị suy dinh dưỡng chung của các thể nhẹ cân, thấp còi và gày còm tại huyện Tiên Lữ lần lượt là 7,6%, 29,4% và 3%. Về giới tính, trẻ nam có tỷ lệ suy dinh dưỡng các thể đều cao hơn so với trẻ nữ (p < 0,05, test χ2). Có 10,3% trẻ nam và 4,1% trẻ nữ mắc suy dinh dưỡng thể nhẹ cân. Số trẻ nam và nữ mắc suy dinh dưỡng thể thấp còi 152 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC chiếm lần lượt là 36,4% và 20,6%. Có 4,9% trẻ nam và 0,7% trẻ nữ mắc suy dinh dưỡng thể gày còm. Biểu đồ 5. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ 12 - 24 tháng Biểu đồ 6. Phân loại tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ Kết quả biểu đồ 6 cho thấy trẻ suy dinh dưỡng các thể nhẹ cân, thấp còi, gày còm thường bị suy dinh dưỡng độ I (Zscore < - 2SD): 5,2% ở nhóm nhẹ cân, 23,9% ở nhóm thấp còi và 2,7% ở nhóm gày còm. Số trẻ bị suy dinh dưỡng độ II của các thể trên tương ứng là: 2,4%, 5,5% và 0,3%. IV. BÀN LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi thấy rằng 83% các bà mẹ trả lời đúng về thời gian cho trẻ bú lần đầu sau khi sinh cao hơn so với tỷ lệ 58,3% tại xã Dương Quan (huyện Gia Lâm, Hà Nội) [1]. Mặc dù vậy, số bà mẹ thực hành tốt nội dung khuyến cáo của chúng tôi chỉ chiếm khoảng 58% (biểu đồ 1), kết quả này thấp hơn so với tỷ lệ chung của cả nước năm 2010 là 61,7% [5] và thấp hơn so với điều tra tại tỉnh Quảng Trị (80,4%) [9]. Số bà mẹ không vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú lần đầu trong nghiên cứu của chúng tôi là 81% và cao hơn so với báo cáo chung của toàn quốc năm 2010 (69,9%) [5]. Có một sự chênh lệch lớn giữa kiến thức và thực hành của bà mẹ về thời gian cho trẻ bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Có 80,8% bà mẹ cho rằng cần cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, cao hơn so với điều tra tại xã Dương Quan [1]. Tuy nhiên, tỷ lệ thực hành tại địa bàn nghiên cứu của chúng tôi chỉ là 12,2% (biểu đồ 3) thấp hơn so với kết quả điều tra quốc gia là 19,6% [5]. Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú hoàn toàn đến 6 tháng tuổi ở các vùng nông thôn thường thấp mà nguyên nhân chính là do bà mẹ thường phải đi làm sau sinh rất sớm. Tương tự như trên, kiến thức và thực hành của bà mẹ về thời điểm cho trẻ ăn bổ TCNCYH 82 (2) - 2013 153 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC sung có sự khác biệt rất lớn. Có 68,5% bà mẹ cho rằng nên cho trẻ ăn bổ sung từ 6 - 9 tháng tuổi. Tuy nhiên tỷ lệ trẻ được ăn bổ sung đúng thời điểm chỉ đạt 19,4% (biểu đồ 4). Số trẻ mắc tiêu chảy trong vòng 3 tháng trước thời điểm điều tra là 21,2%, tỷ lệ này tương tự như kết quả khảo sát trên nhóm trẻ người dân tộc Mường, tỉnh Hòa Bình (21,7%) [10]. Số trẻ bị ho sốt chiếm 65,6%, cao hơn so với 54,3% trong khảo sát tại tỉnh Hòa Bình [10]. Tỷ trẻ được bú ít hơn so với bình thường khi bị tiêu chảy chiếm 14,3%. Có tới 70,5% bà mẹ thực hiện chế độ ăn kiêng thức ăn (tôm, cua, cá...) và dầu mỡ khi trẻ bị ốm. Trong khi đó chỉ có 40,9% trẻ được cho uống bù nước và điện giải Oresol. Một điểm đáng lưu ý nữa là tỷ lệ bà mẹ tự mua thuốc về cho trẻ uống khi bị tiêu chảy lên tới 66,7% (bảng 1). Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân của huyện Tiên Lữ là 7,6%, tỷ lệ này thấp hơn so với toàn quốc giai đoạn 2009 - 2011 [5, 6]. Số trẻ suy dinh dưỡng thể thấp còi của huyện chiếm 29,4%, tương tự như khảo sát tại huyện Chiêm Hóa - tỉnh Tuyên Quang năm 2011 (29,1%) [3], cao hơn so với toàn quốc năm 2011 (27,5%) [6]. Số trẻ mắc suy dinh dưỡng thể gày còm trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm 3%, thấp hơn so với tỷ lệ chung của toàn quốc là 6,6% [6]. Tỷ lệ trẻ nam bị suy dinh dưỡng cao hơn một cách rõ rệt so với trẻ nữ (biểu đồ 5), kết quả này tương tự như các kết quả từ những nghiên cứu khác [1, 6, 9, 11]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy trẻ thường mắc suy dinh dưỡng độ I (biểu đồ 6). Phát hiện này cũng phù hợp với xu thế chung của toàn quốc [5, 6] và nghiên cứu khác [1 - 3 , 9 - 10]. V. KẾT LUẬN Có 83% và 57,6% bà mẹ có kiến thức và thực hành đúng cho trẻ bú trong vòng 1h đầu sau khi sinh. Tỷ lệ bà mẹ vắt bỏ sữa non trước khi cho trẻ bú lần đầu là 19%. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về thời gian cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn là 80,8%, có 12,2% bà mẹ thực hiện tốt khuyến cáo này. Có 68,5% bà mẹ cho rằng cần cho trẻ ăn bổ sung sau 6 tháng tuổi. Tỷ lệ trẻ được ăn bổ sung sau 6 tháng tuổi chiếm 19,4%. Số trẻ được ăn bổ sung sớm trước 6 tháng chiếm 80%. Tỷ lệ trẻ bị tiêu chảy và ho sốt trong vòng 3 tháng trước thời điểm điều tra tương ứng là 21,2% và 65,8%. Đa số bà mẹ thực hiện chế độ ăn kiêng chất tanh, dầu mỡ khi trẻ ốm và lựa chọn phương thức tự mua thuốc điều trị cho trẻ. Suy dinh dưỡng độ I là thể suy dinh dưỡng chủ yếu trong quần thể điều tra, tỷ lệ suy dinh dưỡng của các thể nhẹ cân, thấp còi và gày còm lần lượt là 7,6%, 29,4% và 3%. Trẻ nam có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn so với trẻ nữ. Lời cảm ơn Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, hợp tác của tổ chức Tầm nhìn Thế giới, viện Dinh dưỡng Quốc gia, cán bộ y tế và các bà mẹ tại huyện Tiên Lữ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Thị Hương, Hoàng Thị Huế (2011). Kiến thức và thực hành nuôi dưỡng và chăm sóc trẻ của các bà mẹ tại xã Dương Quan huyện Gia Lâm - Hà Nội năm 2010. Tạp chí Y học dự phòng, 3(121), 165 - 173. 2. Đỗ Thị Lan, Cao Thị Hồng Hà, Nguyễn Hạnh Nguyên và cộng sự (2002). Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em ở Sơn La. Tạp chí Y học Dự phòng, tập XII, 3 (54), phụ bản 113, 113 - 116. 3. Lê Thị Hương, Lê Hồng Phượng, Nguyễn Thùy Linh, Đoàn Thị Thu Huyền (2012). Tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần 154 TCNCYH 82 (2) - 2013 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC thực tế của trẻ em 24-59 tháng tuổi tại xã Xuân Quang - huyện Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang năm 2011. Tạp chí nghiên cứu Y học, số phụ trương, 79 (2), 194 - 199. 4. Phạm Văn Phú, Nguyễn Xuân Ninh, Phạm Duy Tường và cộng sự (2005). Thực hành nuôi dưỡng và một số yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ 1-24 tháng tuổi tại 2 huyện Núi Thành và Thăng Bình, Tỉnh Quảng Nam. Tạp chí Y học thực hành, 3 (505), 3 - 7. 5. Viện Dinh Dưỡng (2011). Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 2009 - 2010. Nhà xuất bản Y học. 6. Viện Dinh dưỡng (2011). Báo cáo tình trạng dinh dưỡng trẻ em và bà mẹ năm 2011. Nhà xuất bản Y học. 7. Rosalind S.Gibson (2005). Principles of Nutritional assessment. 2nd edition. Oxford University express. 8. World Health Organization (2011). World Health Static 2011. 9. Lê Thị Hương, Vũ Phương Hà (2011). Các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại hai huyện Hướng Hóa và Đăkrông tỉnh Quảng Trị năm 2010. Tạp chí Y học dự phòng, 2011, tập XXI, 1 (119), 94 - 101. 10. Lê Thị Hương, Đoàn Thị Thu Huyền, Bùi Trần Nguyệt Minh và cs (2012). Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình và một số yếu tố liên quan. Tạp chí nghiên cứu Y học, 3PTD(79), 114 - 118. 11. Bộ Y tế, Viện Dinh dưỡng (2009). Chương trình mục tiêu phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em ở Việt Nam (1998 - 2008). Summary MOTHER’S KNOWLEDGE, PRACTICE ON CHILD’S FEEDING AND CARING AND NUTRITIONAL STATUS OF CHILDREN FROM 12 TO 24 MONTH IN TIEN LU DISTRICT OF HUNG YEN PROVINCE Understanding the knowledge and children care of mother are important for child-care officials to produce policies to help mothers to take care of their babies. Methods: A cross-sectional study was conducted to assess the knowledge and practice of child care and child nutrition of the mothers of 330 children in Tien Lu district, Hung Yen province. The age of the children ranged from 12 - 24 month old. We also examined the nutritional status of these children. Results: Within the 1st hour of birth, the number of mothers who possessed good knowledge and practice on giving early breast- feeding were 83.0% and 57.6%, respectively. There was 19.0% of mothers had taken off colos- trums before breastfeeding their children. The proportion of mothers who had good knowledge on breastfeeding of their child up to 6 months was 80.8%; whereas, only 12.2% of mothers had good practice of exclusive breastfeeding during this time frame. The percentages of children being given food supplements before and after 6 months old were 80.0% and 19.4%, respectively. During the 3 months of age, 21.2% and 25.8% children suffered from diarrhea and respiratory infections, respectively. The prevalent rate of child malnutrition in children under 5 years old was 7.6% by WAZ, 29.4%% by HAZ and 3% by WHZ. In conclusion, the knowledge and practice of the mothers on child care in Tien Lu District of Hung Yen province was high. However, their knowl- edge of chid nutrition was poor as children stunting rate was rather high in this group of children. Keywords: Malnutrition, children, Tien Lu, Hung Yen

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkien_thuc_va_thuc_hanh_nuoi_duong_cham_soc_tre_cua_ba_me_va.pdf
Tài liệu liên quan