4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
4.1 Kết luận
Đối với kiến thức: Tỷ lệ kiến thức chưa tốt là
34,2%; trung bình là 35,7%; tốt là 30,1%. Trong
đó, đối tượng nghiên cứu có kiến thức đúng về
phần nước sạch là nước trong, không cặn bẩn
chiếm tỷ lệ cao nhất (79,4%), kế đến là bảo hộ
lao động giúp giảm sự lây lan bệnh tật (77,7%);
bên cạnh vẫn còn có một số đối tượng có kiến
thức không đúng về sự tồn tại của mầm bệnh
trong nước đá, khi chiếm tỷ lệ 51,4%.
Đối với thái độ: Tỷ lệ thái độ chưa tốt là 32,8%;
trung bình là 37,4%; tốt là 29,8%. Thái độ tích
cực về việc dùng nước sạch để rửa dụng cụ, chén
dĩa và nơi bán thức ăn cần phải cách xa nguồn
gây ô nhiễm chiếm tỷ lệ cao nhất (lần lượt là
97,5% và 93,6%). Mặt khác, vẫn còn có 29,8%
và 24,9% đối tượng có thái độ chưa tốt khi lần
lượt cho rằng việc dùng tay bốc thức ăn rồi cầm
tiền cũng như dùng giấy, báo để gói thức ăn là
bình thường.
Đối với thực hành: Tỷ lệ thực hành chưa tốt,
trung bình, tốt lần lượt là: 49,4%; 34,7% và
15,9%. Có 86,4% đối tượng luôn luôn rửa tay sau
khi đi vệ sinh trong khi chế biến, 74,2% nơi chế
biến luôn luôn có thùng rác có nắp đậy, luôn luôn
đổ rác sau 1 ngày và luôn luôn sử dụng găng tay
khi chế biến lần lượt là 56,6% và 54,6%. Tuy
nhiên, lại có đến 69,7% đối tượng được hỏi cho
rằng không bao giờ đeo khẩu trang khi chế biến.
Có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa những
người có trình độ học vấn khác nhau và những
người có tiếp xúc và không tiếp xúc với các
nguồn thông tin tuyên truyền với kiến thức, thái
độ, thực hành; giữa người kinh doanh TĂĐP có
tỷ lệ kiến thức, thái độ đúng với thực hành đúng
về VSATTP (p<0,05).
4.2 Khuyến nghị
Khi kiểm tra, đánh giá và cấp giấy chứng nhận,
cần phân loại các cơ sở kinh doanh TĂĐP thành
2 loại “khá” hoặc “tốt” (dựa trên tỷ lệ trả lời đúng
các câu hỏi về kiến thức, thái độ, thực hành về
VSATTP) nếu cơ sở đó đạt tiêu chuẩn về
VSATTP, để người tiêu dùng phân biệt cũng như
lựa chọn cơ sở nào đảm bảo VSATTP hơn. Sau
mỗi đợt kiểm tra cần nêu những cơ sở tốt, đạt
chất lượng VSATTP cũng như cơ sở vi phạm
trên các phương tiện truyền thông địa phương.
Khi tổ chức các cuộc vận động, tuyên truyền và
tập huấn về kiến thức an toàn vệ sinh thực phẩm
cho người kinh doanh TĂĐP tại địa bàn nghiên
cứu nên tập trung vào các đối tượng trong độ tuổi
lao động từ 31 đến 45 tuổi, có trình độ học vấn từ
cấp I trở xuống.
Tổ chức nhiều hơn, sâu và rộng hơn các buổi tập
huấn, tuyên truyền kiến thức vệ sinh an toàn thực
phẩm thông qua tivi, radio, loa đài địa phương,
áp phích, pa nô, khẩu hiệu nhằm giúp người
kinh doanh TĂĐP nâng cao kiến thức, thái độ và
thực hành về VSATTP
11 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 636 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức, thái độ, thực hành về vệ sinh an toàn thực phẩm và một số yếu tố liên quan của người kinh doanh thức ăn đường phố tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang năm 2014 - Lê Ngọc Hiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
68
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM
VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA NGƯỜI KINH DOANH THỨC ĂN
ĐƯỜNG PHỐ TẠI THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG NĂM 2014
Lê Ngọc Hiệp
Trường Đại học An Giang
Thông tin chung:
Ngày nhận bài: 11/03/2015
Ngày nhận kết quả bình duyệt:
15/05/2015
Ngày chấp nhận đăng: 02/2017
Title:
Knowledge, attitudes, and
practices of food hygiene and
safety and some related factors
among the street-vended food
sellers in Long Xuyen City, An
Giang province in 2014
Keywords:
Knowledge, attitudes,
practices, food hygiene and
safety, street-vended food
Từ khóa:
Kiến thức, thái độ, thực hành,
vệ sinh an toàn thực phẩm,
thức ăn đường phố
ABSTRACT
Street-vended food that bears high risks of contamination is considered a main
cause of food poisoning as well as foodborne illness. The study was conducted
with the participation of 403 street-vended food sellers to determine the
percentage of knowledge, attitudes, and practices of food hygiene and safety
among the street-vended food sellers in Long Xuyen, An Giang in 2014, and
then identified some related factors. The findings showed that the percentage of
vendors having poor - average - good knowledge about food hygiene and safety
was 34.2% - 35.7% - 30.1%, respectively. The proportion of vendors having
attitudes about food hygiene and safety was poor (32.8%); average (37.4%);
and good (29.8%). In addition, the rate of vendors having the attitudes with
poor - average – good levels was 49.4%, 34.7%, and 15.9%, accordingly. It
also showed that background education of the venders, the opportunities to
expose to mass media about knowledge, attitudes and practices of food hygiene
and safety, and the percentage of knowledge, attitude and practice about food
hygiene and safety (p<0.05) of the venders resulted in the considerable
differences of analysis statistics.
TÓM TẮT
Thức ăn đường phố (TĂĐP) rất dễ bị nhiễm khuẩn và là nguyên nhân chính gây
ra ngộ độc thực phẩm cũng như các bệnh truyền qua thực phẩm. Để xác định tỷ
lệ kiến thức – thái độ - thực hành đúng về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP)
của người kinh doanh TĂĐP tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang năm
2014 và một số yếu tố liên quan, một nghiên cứu cắt ngang mô tả đã được tiến
hành trên 403 người. Kết quả nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ người kinh doanh
TĂĐP có kiến thức chưa tốt - trung bình - tốt về VSATTP lần lượt là: 34,2% -
35,7% - 30,1%. Tỷ lệ người kinh doanh có thái độ về VSATP là: chưa tốt -
32,8%; trung bình - 37,4%; tốt - 29,8%. Ngoài ra, tỷ lệ người kinh doanh TĂĐP
có thực hành chưa tốt, trung bình, tốt lần lượt là: 49,4%; 34,7% và 15,9%. Có
sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa người có trình độ học vấn khác nhau và
những người tiếp xúc với các nguồn thông tin tuyên truyền với tỷ lệ kiến thức,
thái độ, thực hành đúng về VSATTP; giữa người kinh doanh TĂĐP có tỷ lệ kiến
thức, thái độ đúng, thực hành đúng về VSATTP (p<0,05).
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
69
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, cùng với sự phát triển và nhịp sống
ngày càng nhanh của xã hội, thức ăn đường phố
(TĂĐP) đã trở thành một phần không thể thiếu
trong đời sống hằng ngày của người dân. Theo
khái niệm của Tổ chức Lương thực và Nông
nghiệp của Liên Hiệp Quốc (FAO) và Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO) (2002), TĂĐP là những đồ
ăn, thức uống được làm sẵn hoặc chế biến, nấu
nướng tại chỗ, có thể ăn ngay và được bày bán
trên đường phố, những nơi công cộng. Việc phát
triển loại hình dịch vụ TĂĐP là nhu cầu tất yếu
của cuộc sống vì các lợi ích mang lại từ loại hình
dịch vụ này như: thuận lợi, rẻ tiền, phù hơp̣ với
đaị đa số người dân, giải quyết công ăn việc làm
do không cần bằng cấp, đào tạo,... Thông thường,
TĂĐP được bày bán trong các cửa hàng cố định,
bán trên hè phố và bán rong (FAO, 1998). Mặt
khác, phụ nữ thường là chủ sở hữu hoặc người
lao động chịu trách nhiệm chính trong việc chế
biến, kinh doanh dịch vụ TĂĐP. Theo nghiên
cứu của FAO (1997), có từ 70% đến 90% người
kinh doanh TĂĐP là phụ nữ, và họ thực hiện
công việc chủ yếu để cải thiện thu nhập và đảm
bảo về mặt tài chính cho gia đình họ. Nghiên cứu
này cũng cho thấy, người tiêu dùng TĂĐP đến từ
tất cả các tầng lớp xã hội, từ tầng lớp có thu nhập
thấp đến các nhóm có thu nhập cao, kể cả các em
học sinh cũng phụ thuộc vào TĂĐP. Tuy nhiên,
các vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm
(VSATTP) do TĂĐP gây ra đã dẫn đến sự gia
tăng các mối lo ngại, quan tâm trên toàn cầu
(Tonder, Jan, & Theron, 2007). Một số dịch bệnh
truyền qua thực phẩm đường phố đã được cho là
có liên quan đến vệ sinh cá nhân kém của người
kinh doanh TĂĐP, trong đó đặc biệt là bệnh tiêu
chảy, nó là một trong những nguyên nhân hàng
đầu gây ra bệnh tật và tử vong ở các nước đang
phát triển, giết chết khoảng 1,9 triệu người mỗi
năm trên toàn cầu (Schlundt, Toyofuku, Jansen,
& Herbst, 2004). Tại Việt Nam, theo số liệu
thống kê của Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm từ
năm 2000-2008, toàn quốc xảy ra 181 vu ̣ngô ̣đôc̣
thưc̣ phẩm do thức ăn đường phố làm 4.234
người mắc phải, 9 trường hơp̣ tử vong. Trong khi
đó, ở An Giang, từ năm 2011 đến năm 2013, toàn
tỉnh xảy ra tổng cộng 8 vụ ngộ độc thực phẩm,
làm 119 người mắc, 3 trường hợp tử vong.
Để thuận lợi cho việc thực hiện các kế hoạch,
chiến lược đảm bảo VSATTP về TĂĐP, nghiên
cứu này đã được thực hiện nhằm tìm hiểu kiến
thức, thái độ, thực hành của người kinh doanh
TĂĐP tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang
năm 2014.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
- Người kinh doanh TĂĐP có tiếp xúc trực tiếp
với thực phẩm, bao gồm những người bán
hàng rong lưu động, bán hàng ở lề đường cố
định và trong nhà.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Địa điểm nghiên cứu
Thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
2.2.2 Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 07/2014 đến tháng 12/2014.
2.2.3 Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
2.2.4 Cỡ mẫu nghiên cứu
Dựa theo công thức tính cỡ mẫu của nghiên cứu
mô tả cắt ngang:
2
)1(
)α/21(
2
d
pp
Zn
Trong đó:
- n: là số mẫu tối thiểu cần cho nghiên cứu;
- Z(1- α/2): là trị số mức độ tin cậy mong
muốn, lấy mức 95% thì Z=1,96;
- p: tỷ lệ ước tính từ môṭ nghiên cứu trước
đó, do trong quá trình lược khảo tài liệu,
không tìm thấy nghiên cứu nào được thực
hiện trước đây tại địa bàn nên lấy p = 0,5;
- d: là sai số ước lượng, lấy là 0,05.
Thay vào công thức:
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
70
n =
(1,96)2 x 0,5 x 0,5
(0,05)2
= 384
Cộng thêm 5% người kinh doanh TĂĐP có thể từ
chối tham gia thì cỡ mẫu cần cho nghiên cứu là:
403 người.
2.2.5 Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Sử dụng bộ câu hỏi để phỏng vấn trực tiếp đối
tượng thuộc diện khảo sát theo phương pháp
chọn lựa ngẫu nhiên. Bộ câu hỏi dùng để phỏng
vấn bao gồm 4 phần (41 câu hỏi). Phần 1 gồm có
9 câu hỏi về các thông tin cơ bản của đối tượng
nghiên cứu (tuổi, giới tính, trình độ học vấn,...).
Phần 2 bao gồm 12 câu hỏi, có 3 đáp án “đúng”,
“sai” và “không có ý kiến” được dùng để hỏi về
kiến thức của người tham gia nghiên cứu, đối với
mỗi đáp án đúng sẽ được cho 1 điểm, đáp án sai
và không có ý kiến thì 0 điểm, điểm của phần
này sẽ dao động từ 0 đến 12 điểm. Phần 3 gồm
có 8 câu hỏi, sử dụng đáp án theo thang điểm
Likert sắp xếp theo 5 mức độ: “hoàn toàn không
đồng ý”, “không đồng ý”, “không có ý kiến”,
“đồng ý” và “hoàn toàn đồng ý” để đánh giá thái
độ của người kinh doanh TĂĐP. Tùy theo chiều
tích cực hay tiêu cực, số điểm của mỗi câu hỏi sẽ
dao động thấp nhất là 0 điểm đến cao nhất là 4
điểm, tổng số điểm cho phần 3 là từ 0 đến 32
điểm. Cuối cùng là phần 4, được dùng để hỏi các
đối tượng nghiên cứu về kỹ năng thực hành khi
chế biến thực phẩm, như: dùng găng tay, đeo tạp
dề, khẩu trang,... Phần này bao gồm 12 câu hỏi,
với đáp án có 3 mức độ là: “không bao giờ”,
“thỉnh thoảng” và “luôn luôn”. Số điểm tương
ứng với mỗi đáp án được chọn, tùy thuộc vào
chiều tích cực hay tiêu cực, dao động từ điểm
thấp nhất là 0 điểm đến cao nhất là 2 điểm. Tổng
số điểm phần này dao động từ 0 đến 24 điểm.
Xử lý và thống kê số liệu bằng phần mềm EPI-
DATA 3.1 và SPSS 20.0.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO
LUẬN
3.1 Kết quả nghiên cứu
3.1.1 Đặc tính của mẫu nghiên cứu
Bảng 1. Đặc tính chung của mẫu nghiên cứu
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Giới tính
Nam 136 33,7
Nữ 267 66,3
Dân tộc
Kinh 401 99,5
Hoa 1 0,25
Khmer 1 0,25
Độ tuổi
Dưới 30 tuổi 126 31,3
Từ 31 đến 45 tuổi 181 44,9
Trên 45 tuổi 96 23,8
Trình độ học vấn
Mù chữ 29 7,2
Tiểu học 158 39,2
Trung học cơ sở 107 26,6
Trung học phổ thông 57 14,1
Trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên 52 12,9
Địa điểm của quán ăn
Cố định 244 60,5
Lưu động 159 39,5
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
71
Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%)
Loại thực phẩm kinh
doanh(*)
Cơm 56 12,3
Bánh mì, xôi, bánh bao, bánh cuốn 94 20,7
Đồ nhậu 27 5,9
Bún, miến, phở, cháo 65 14,3
Bánh mứt, bánh kẹo 39 8,6
Nước giải khát (kem, chè, sinh tố) 76 16,7
Trái cây đã chế biến (gọt, ngâm) 33 7,3
Thức ăn nguội (nem, thịt, giò, chả) 64 14,1
Kiểu bán thức ăn (hình
thức chế biến)(*)
Bán thức ăn chế biến, nấu ăn tại chỗ 230 54,6
Bán thức ăn tươi sống 32 7,6
Bán thức ăn chế biến, nấu từ nơi khác đem đến 159 37,8
Nguồn nước được sử
dụng để chế biến, rửa
dụng cụ, thiết bị(*)
Nước máy 394 96,8
Nước sông 7 1,7
Nước giếng 0 0
Nước mưa 6 1,5
Nơi mua nguyên liệu và
thực phẩm(*)
Chợ 316 75,2
Thông qua người bỏ mối 104 24,8
Tiếp xúc với nguồn
thông tin tuyên truyền
về VSATTP
Không 64 15,9
Có 339 84,1
Nếu có, tiếp xúc với
nguồn thông tin qua:(*)
Tivi, radio 250 38,3
Internet 44 6,7
Cán bộ y tế địa phương 81 12,4
Người thân, bạn bè 93 14,3
Sách, báo 78 12
Loa, đài của địa phương 96 14,7
Nguồn khác 10 1,5
(*): Câu hỏi có thể chọn nhiều đáp án
Từ kết quả thống kê của Bảng 1 cho thấy, đa số
người kinh doanh TĂĐP là nữ giới (66,3%), dân
tộc Kinh (99,5%), độ tuổi từ 31 đến 45 (44,9%),
trình độ học vấn ở mức tiểu học (39,2%). Về đặc
điểm của ngành kinh doanh, địa điểm quán ăn có
vị trí cố định chiếm tỷ lệ 60,5%; kinh doanh
nhiều nhất là mặt hàng “bánh mì, xôi, bánh bao,
bánh cuốn” (20,7%); kiểu bán thức ăn chế biến,
nấu ăn tại chỗ chiếm tỷ lệ cao nhất (54,6%). Bên
cạnh đó, nguồn nước được sử dụng để chế biến,
rửa dụng cụ, thiết bị chủ yếu là nước máy
(96,8%) và đa số người kinh doanh TĂĐP
thường mua nguyên liệu và thực phẩm ở chợ
(75,2%). Về truyền thông giáo dục sức khỏe về
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
72
VSATTP, có 84,1% người được hỏi cho rằng có
tiếp xúc với những nguồn thông tin tuyên truyền,
trong đó chiếm nhiều nhất là Tivi, radio (38,3%),
kế đến là thông qua loa, đài của địa phương
(14,7%).
3.1.2 Thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành
về VSATTP của người kinh doanh TĂĐP
Kết quả của nghiên cứu cho thấy, phần kiến thức
của người kinh doanh TĂĐP có điểm trung bình
(mean) là 8,3 ± 2,1 với điểm kiến thức thấp nhất
là 4 và cao nhất là 12. Phần thái độ có điểm thấp
nhất là 10 và cao nhất là 31, giá trị điểm trung
bình là 21,9 ± 4,9. Trong khi đó, phần thực hành
có điểm trung bình là: 14,8 ± 3,7, điểm thấp nhất
là 4, cao nhất là 23 (Hình 1).
Hình 1. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn của kiến thức, thái độ, thực hành về VSATTP của người kinh doanh
TĂĐP tại TP. Long Xuyên, năm 2014
Mặt khác, để phân loại kiến thức, thái độ, thực
hành về VSATTP của người kinh doanh TĂĐP,
nghiên cứu này đã dựa vào công thức về điểm cắt
của Bloom (Bloom’s cut off point) để chia ra làm
3 loại: chưa tốt (<60%), trung bình (60 - 80%),
tốt (>80%) (Gizaw, Gebrehiwot, & Teka, 2014;
Mizanur, Arif, Kamaluddin, & Tambi, 2012;
Thidarat, Suwat, & Duangjai, 2011). Kết quả từ
Hình 2 cho thấy, các đối tượng nghiên cứu không
cho thấy sự chênh lệch nhiều về tỷ lệ kiến thức
và thái độ ở cả 3 nhóm phân loại. Tuy nhiên, ở
phần thực hành, tỷ lệ người kinh doanh TĂĐP có
thực hành chưa tốt khá cao (49,4%), trong khi đó,
thực hành tốt chỉ chiếm 15,9%.
Kiến thức Thái độ Thực hành
Điểm trung bình 8.3 21.9 14.8
0
5
10
15
20
25
30
Đ
iể
m
Điểm trung bình (Mean) và độ lệch chuẩn (SD)
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
73
Hình 2. Sự phân loại theo tỷ lệ phần trăm về kiến thức, thái độ, thực hành về VSATTP của người kinh doanh
TĂĐP tại TP. Long Xuyên, năm 2014
Về phần kiến thức, đối tượng nghiên cứu có kiến
thức đúng về phần nước sạch là nước trong,
không cặn bẩn chiếm tỷ lệ cao nhất (79,4%), kế
đến là bảo hộ lao động giảm sự lây lan bệnh tật
(77,7%). Tuy nhiên, vẫn còn có một số đối tượng
có kiến thức không đúng về sự tồn tại của mầm
bệnh trong nước đá, khi chiếm tỷ lệ 51,4% (Bảng
2).
Bảng 2. Kiến thức về VSATTP của người kinh doanh, chế biến TĂĐP
Nội dung
Đúng Sai
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%)
Mầm bệnh gây mất VSATTP 230 57,1 173 42,9
Nước sạch là nước trong, không cặn bẩn 320 79,4 83 20,6
Nước sạch là nước không chứa hóa chất độc 296 73,4 107 26,6
Nước sạch là nước không có vi trùng, vi sinh
vật
308 76,4 95 23,6
Nước sạch là nước không có mùi vị lạ 296 73,4 107 26,6
Mầm bệnh tồn tại được trong nước đá 196 48,6 207 51,4
Sự lây lan mầm bệnh là do dùng chung dao
thớt cho thực phẩm sống và chín
249 61,8 154 38,2
Bảo hộ lao động giảm sự lây lan bệnh tật 313 77,7 90 22,3
Nơi chế biến hoặc bày bán thức ăn trên mặt
nền cao ≥ 60 cm
220 54,6 183 45,4
Nơi chế biến hoặc bày bán thức ăn cách nhà
vệ sinh, cống rãnh ≥ 2 m
302 74,9 101 25,1
Lau rửa bề mặt nơi chế biến hoặc bày bán 290 72,0 113 28,0
00%
05%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
45%
50%
Kiến thức Thái độ Thực hành
34% 33%
49%
36%
37%
35%
30% 30%
16%
Chưa tốt
Trung bình
Tốt
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
74
Nội dung
Đúng Sai
Tần số Tỷ lệ (%) Tần số Tỷ lệ (%)
thức ăn sau mỗi lần chế biến
Bày hàng (thức ăn) trong tủ kiếng 308 76,4 95 23,6
Đối với phần thái độ, có tổng cộng 97,5% người
được hỏi cho rằng họ “đồng ý” và “hoàn toàn
đồng ý” với việc dùng nước sạch để rửa dụng cụ,
chén dĩa; 93,6% đối tượng cũng “đồng ý” và
“hoàn toàn đồng ý” với nơi bán thức ăn cần phải
cách xa nguồn gây ô nhiễm. Bên cạnh đó, vẫn
còn có khoảng 29,8% đối tượng (3,7% “đồng ý”;
26,1% “hoàn toàn đồng ý”) và 24,9% (5,5%
“đồng ý”; 19,4% “hoàn toàn đồng ý”) lần lượt
cho rằng việc dùng tay bốc thức ăn rồi cầm tiền
cũng như dùng giấy, báo để gói thức ăn là bình
thường (Bảng 3).
Bảng 3. Thái độ về VSATTP của người kinh doanh, chế biến TĂĐP
Nội dung
Hoàn toàn
không đồng
ý
Không
đồng ý
Không ý
kiến
Đồng ý
Hoàn toàn
đồng ý
Tần số (%) Tần số (%) Tần số (%)
Tần số
(%)
Tần số
(%)
Dùng nước sạch để rửa dụng
cụ, chén dĩa
- 3 (0,7) 7 (1,7) 120 (29,8) 273 (67,7)
Dùng giấy, báo để gói thức ăn
là bình thường
37 (9,2) 154 (38,2) 112 (27,8) 22 (5,5) 78 (19,4)
Nơi bán thức ăn phải cách xa
nguồn gây ô nhiễm
1 (0,2) 7 (1,7) 18 (4,5) 132 (32,8) 245 (60,8)
Dùng bảo hộ lao động là cần
thiết
3 (0,7) 29 (7,2) 95 (23,6) 46 (11,4) 230 (57,1)
Khám sức khỏe định kỳ 11 (2,7) 168 (41,7) 80 (19,9) 19 (4,7) 125 (31)
Người kinh doanh TĂĐP bị
ho, sốt, tiêu chảy tiếp tục bán
hàng là bình thường
47 (11,7) 206 (51,1) 84 (20,8) 9 (2,2) 57 (14,1)
Dùng tay bốc thức ăn rồi cầm
tiền là bình thường
42 (10,4) 208 (51,6) 33 (8,2) 15 (3,7) 105 (26,1)
Tập huấn kiến thức về
VSATTP
13 (3,2) 108 (26,8) 67 (16,6) 18 (4,5) 197 (48,9)
Ghi chú: Phần in đậm là đáp án có thái độ đúng nhất (được 4 điểm)
Dựa vào Bảng 4, có 86,4% đối tượng luôn luôn
rửa tay sau khi đi vệ sinh trong khi chế biến;
74,2% nơi chế biến luôn luôn có thùng rác có nắp
đậy, luôn luôn đổ rác sau 1 ngày và luôn luôn sử
dụng găng tay khi chế biến lần lượt là 56,6% và
54,6%. Tuy nhiên, lại có đến 69,7% đối tượng
được hỏi cho rằng không bao giờ đeo khẩu trang
khi chế biến.
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
75
Bảng 4. Thực hành về VSATTP của người kinh doanh, chế biến TĂĐP
Nội dung
Không bao giờ Thỉnh thoảng Luôn luôn
Tần số (%) Tần số (%) Tần số (%)
Sử dụng găng tay khi chế biến 61 (15,1) 122 (30,3) 220 (54,6)
Đeo tạp dề khi chế biến 92 (22,8) 139 (34,5) 172 (42,7)
Đeo khẩu trang khi chế biến 281 (69,7) 75 (18,6) 47 (11,7)
Rửa tay đúng cách sau khi chạm vào thực phẩm
sống
107 (26,6) 129 (32,0) 167 (41,4)
Rửa tay sau khi đi vệ sinh trong khi chế biến 1 (0,2) 54 (13,4) 348 (86,4)
Ăn uống ở nơi làm việc 182 (45,2) 78 (19,4) 143 (35,5)
Nếm thử thức ăn bằng tay trần 246 (61,0) 56 (13,9) 101 (25,1)
Sử dụng thớt khác nhau cho thực phẩm sống và
thực phẩm chín
103 (25,6) 118 (29,3) 182 (45,2)
Bỏ, không sử dụng thực phẩm trong ngày bán
không hết để tiếp tục bán vào ngày hôm sau
141 (35,0) 55 (13,6) 207 (51,4)
Nơi chế biến có thùng rác có nắp đậy 58 (14,4) 46 (11,4) 299 (74,2)
Đổ rác sau một ngày 115 (28,5) 60 (14,9) 228 (56,6)
Đổ rác sau mỗi khi chế biến 142 (35,2) 90 (22,3) 171 (42,4)
3.1.3 Một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về VSATTP của người kinh doanh
TĂĐP
Khi xét đến mối liên quan giữa các yếu tố đến
kiến thức, thái độ, thực hành về VSATTP, nghiên
cứu này không cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa giới tính với kiến thức, thái độ,
thực hành; độ tuổi với kiến thức và thực hành
(p>0,05). Tuy nhiên, có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa những người có trình độ học vấn
khác nhau và những người tiếp xúc với các
nguồn thông tin tuyên truyền với kiến thức, thái
độ, thực hành; giữa kiến thức, thái độ đối với
thực hành (p<0,05). Mối liên quan giữa các yếu
tố này được trình bày tóm tắt trong Bảng 5:
Bảng 5. Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về VSATTP
Yếu tố
Kiến thức Thái độ Thực hành
Chưa
tốt
n (%)
Trung
bình
n
(%)
Tốt
n (%)
2 (p)
Chưa
tốt
n (%)
Trung
bình
n
(%)
Tốt
n (%)
2 (p)
Chưa
tốt
n (%)
Trung
bình
n
(%)
Tốt
n (%)
2 (p)
Học
vấn
Mù chữ 25
(86,2)
4
(13,8)
0
(0)
60,94
(0.000)
14
(48,3)
7
(24,1)
8
(27,6)
20,3
(0,009)
24
(82,8)
5
(17,2)
0
(0)
55,03
(0,000)
Tiểu
học
55
(34,8)
69
(43,7)
34
(21,5)
64
(40,5)
59
(37,3)
35
(22,2)
80
(50,6)
57
(36,1)
21
(13,3)
Trung
học cơ
sở
34
(31,8)
36
(33,6)
37
(34,6)
30
(28)
38
(35,5)
39
(36,4)
59
(55,1)
33
(30,8)
15
(14,1)
Trung
học phổ
17 17 23 14 27 16 29 22 6
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
76
thông (29,8) (29,8) (40,4) (24,6) (47,4) (28,1) (50,9) (38,6) (10,5)
Trung
cấp, cao
đẳng,
đại học
trở lên
7
(13,5)
18
(34,6)
27
(51,9)
10
(19,2)
20
(38,5)
22
(42,3)
7
(13,5)
23
(44,2)
22
(42,3)
Tiếp
xúc
với
thông
tin
Có
101
(29,8)
127
(37,5)
111
(32,7)
19,4
(0,000)
103
(30,4)
129
(38,1)
107
(31,6)
6,15
(0,046)
157
(46,3)
123
(36,3)
59
(17,4)
8,65
(0,013)
Không
37
(57,8)
17
(26,6)
10
(15,6)
29
(45,3)
22
(34,4)
13
(20,3)
42
(65,6)
17
(26,6)
5
(7,8)
Độ
tuổi
Dưới 30
tuổi
- - -
-
25
(19,8)
52
(41,3)
49
(38,9)
15,82
(0,003)
- - -
-
Từ 31
đến 45
tuổi
- - - 70
(38.7)
62
(34,3)
49
(27,0)
- - -
Trên 45
tuổi
- - - 37
(38,5)
37
(38,5)
22
(22,9)
- - -
Kiến
thức
Chưa tốt - - -
-
79
(57,2)
43
(31,2)
16
(11,6)
77,25
(0,000)
86
(62,3)
41
(29,7)
11
(8,0)
16,99
(0,002)
Trung
bình
- - - 35
(24,3)
66
(45,8)
43
(29,9)
62
(43,1)
54
(37,5)
28
(19,4)
Tốt - - - 18
(14,9)
42
(34,7)
61
(50,4)
51
(42,1)
45
(37,2)
25
(20,7)
Thái
độ
Chưa tốt - - -
-
- - -
-
76
(57,6)
43
(32,6)
13
(9,8)
10,99
(0,027)
Trung
bình
- - - - - - 65
(43,0)
61
(40,4)
25
(16,6)
Tốt - - - - - - 58
(48,3)
36
(30,0)
26
(21,7)
3.2 Thảo luận
Trong 403 đối tượng tham gia nghiên cứu, có
66,3% là nữ giới, tỷ lệ này gần bằng so với
nghiên cứu của FAO năm 1997 và phù hợp với
đặc trưng của loại hình kinh doanh TĂĐP ở Việt
Nam. Đối với nhóm tuổi, độ tuổi chiếm tỷ lệ cao
nhất là từ 31 đến 45 tuổi (44,9%), đây là nhóm
tuổi trong độ tuổi lao động, có đầy đủ sức khỏe,
kinh nghiệm sống để thực hiện việc kinh doanh
này. Ngoài ra, trình độ học vấn của người kinh
doanh TĂĐP tại TP. Long Xuyên còn thấp,
chiếm tỷ lệ cao nhất là bậc tiểu học (39,2%) và tỷ
lệ mù chữ là 7,2%. Kết quả này phù hợp với
nghiên cứu của Trung tâm Dinh dưỡng TP. Hồ
Chí Minh (2003) điều tra về dịch vụ TĂĐP ở
Việt Nam với trình độ văn hóa của người kinh
doanh, chế biến ở cấp I trở xuống là 41,1% và có
5,0% chưa biết chữ. Trình độ học vấn thấp sẽ ảnh
hưởng tương đối không tốt đến việc tiếp nhận
kiến thức về VSATTP.
Mặt khác, các đối tượng tham gia nghiên cứu này
có tỷ lệ kiến thức chưa tốt là 34,2%; trung bình là
35,7% và tốt là 30,1%. Kết quả này khá khác biệt
so với nghiên cứu của Mizanur và cs. (2012) khi
tỷ lệ kiến thức chưa tốt, trung bình, tốt của người
kinh doanh TĂĐP lần lượt là 20,5%; 41,6%;
36,8%. Bên cạnh đó, tỷ lệ đối tượng có kiến thức
chưa tốt của nghiên cứu này cao hơn so với
nghiên cứu của Gizaw và cs. (2014), chỉ ở mức
10,9%; trong khi tỷ lệ kiến thức tốt đạt đến
47,4%. Tương tự như vậy, tỷ lệ đối tượng có thái
độ về VSATTP chưa tốt của nghiên cứu này
(32,8%) cao hơn so với nghiên cứu của Mizanur
và cs (2012) và Gizaw và cs. (2014), lần lượt là 2
lần và 10 lần. Trong khi đó, mặc dù tỷ lệ thái độ
tốt (29,8%) thấp hơn so với nghiên cứu của
Gizaw và cs. (2014) (31,8%), nhưng nó lại cao
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
77
hơn so với nghiên cứu của Mizanur và cs. (2012)
(19,1%) và nghiên cứu của Thidarat và cs. (2011)
(18,5%). Tuy nhiên, các đối tượng tham gia
nghiên cứu này lại có tỷ lệ thực hành tốt (15,9%)
khá giống với nghiên cứu của Thidarat và cs.
(2011) (15,2%) và Mizanur và cs. (2012)
(10,8%).
Có sự khác biệt thống kê (p<0,05) về kiến thức,
thái độ, thực hành giữa những người kinh doanh
TĂĐP tại TP. Long Xuyên có trình độ học vấn
khác nhau. Những người mù chữ có kiến thức,
thái độ và thực hành đúng về VSATTP chiếm tỷ
lệ thấp nhất, lần lượt là 0%; 27,6%; 0%, và cao
nhất là những người có học vấn từ trung cấp trở
lên, lần lượt là 51,9%; 42,3%; 42,3%. Điều này
cũng được chứng minh trong nghiên cứu của
Faruque, Haque, Shekhar và Begum (2010) tại
Bangladesh, khi hầu hết những người kinh doanh
TĂĐP mù chữ đều có tỷ lệ kiến thức và thực
hành về VSATTP chưa tốt. Bên cạnh đó, cũng có
sự khác biệt thống kê về kiến thức, thái độ, thực
hành giữa nhóm người kinh doanh TĂĐP có tiếp
xúc với thông tin tuyên truyền về VSATTP và
không có tiếp xúc (p<0,05). Các đối tượng cho
biết họ có tiếp xúc với nguồn thông tin tuyên
truyền thì tỷ lệ kiến thức tốt, thái độ tốt và thực
hành tốt luôn cao hơn so với những người không
tiếp xúc. Điều này cũng phản ánh đúng thực tế vì
những người được nghe thông tin tuyên truyền
thì họ sẽ nhận thức đúng về những gì nên làm và
không nên làm để đảm bảo VSATTP khi kinh
doanh TĂĐP. Vì vậy, vấn đề tuyên truyền kiến
thức VSATTP rất cần thiết và quan trọng đối với
những người kinh doanh TĂĐP. Ngoài ra, có sự
khác biệt có ý nghĩa giữa người kinh doanh
TĂĐP có kiến thức, thái độ đúng với thực hành
đúng về VSATTP. Đây cũng là điều dễ hiểu, vì
những người có kiến thức tốt và thái độ tốt đối
với vấn đề VSATTP thì họ sẽ vận dụng vào thực
tiễn để thực hành tốt, đảm bảo VSATTP cho
người tiêu dùng TĂĐP.
4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
4.1 Kết luận
Đối với kiến thức: Tỷ lệ kiến thức chưa tốt là
34,2%; trung bình là 35,7%; tốt là 30,1%. Trong
đó, đối tượng nghiên cứu có kiến thức đúng về
phần nước sạch là nước trong, không cặn bẩn
chiếm tỷ lệ cao nhất (79,4%), kế đến là bảo hộ
lao động giúp giảm sự lây lan bệnh tật (77,7%);
bên cạnh vẫn còn có một số đối tượng có kiến
thức không đúng về sự tồn tại của mầm bệnh
trong nước đá, khi chiếm tỷ lệ 51,4%.
Đối với thái độ: Tỷ lệ thái độ chưa tốt là 32,8%;
trung bình là 37,4%; tốt là 29,8%. Thái độ tích
cực về việc dùng nước sạch để rửa dụng cụ, chén
dĩa và nơi bán thức ăn cần phải cách xa nguồn
gây ô nhiễm chiếm tỷ lệ cao nhất (lần lượt là
97,5% và 93,6%). Mặt khác, vẫn còn có 29,8%
và 24,9% đối tượng có thái độ chưa tốt khi lần
lượt cho rằng việc dùng tay bốc thức ăn rồi cầm
tiền cũng như dùng giấy, báo để gói thức ăn là
bình thường.
Đối với thực hành: Tỷ lệ thực hành chưa tốt,
trung bình, tốt lần lượt là: 49,4%; 34,7% và
15,9%. Có 86,4% đối tượng luôn luôn rửa tay sau
khi đi vệ sinh trong khi chế biến, 74,2% nơi chế
biến luôn luôn có thùng rác có nắp đậy, luôn luôn
đổ rác sau 1 ngày và luôn luôn sử dụng găng tay
khi chế biến lần lượt là 56,6% và 54,6%. Tuy
nhiên, lại có đến 69,7% đối tượng được hỏi cho
rằng không bao giờ đeo khẩu trang khi chế biến.
Có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa những
người có trình độ học vấn khác nhau và những
người có tiếp xúc và không tiếp xúc với các
nguồn thông tin tuyên truyền với kiến thức, thái
độ, thực hành; giữa người kinh doanh TĂĐP có
tỷ lệ kiến thức, thái độ đúng với thực hành đúng
về VSATTP (p<0,05).
4.2 Khuyến nghị
Khi kiểm tra, đánh giá và cấp giấy chứng nhận,
cần phân loại các cơ sở kinh doanh TĂĐP thành
2 loại “khá” hoặc “tốt” (dựa trên tỷ lệ trả lời đúng
các câu hỏi về kiến thức, thái độ, thực hành về
VSATTP) nếu cơ sở đó đạt tiêu chuẩn về
VSATTP, để người tiêu dùng phân biệt cũng như
lựa chọn cơ sở nào đảm bảo VSATTP hơn. Sau
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 13 (1), 68 – 78
78
mỗi đợt kiểm tra cần nêu những cơ sở tốt, đạt
chất lượng VSATTP cũng như cơ sở vi phạm
trên các phương tiện truyền thông địa phương.
Khi tổ chức các cuộc vận động, tuyên truyền và
tập huấn về kiến thức an toàn vệ sinh thực phẩm
cho người kinh doanh TĂĐP tại địa bàn nghiên
cứu nên tập trung vào các đối tượng trong độ tuổi
lao động từ 31 đến 45 tuổi, có trình độ học vấn từ
cấp I trở xuống.
Tổ chức nhiều hơn, sâu và rộng hơn các buổi tập
huấn, tuyên truyền kiến thức vệ sinh an toàn thực
phẩm thông qua tivi, radio, loa đài địa phương,
áp phích, pa nô, khẩu hiệu nhằm giúp người
kinh doanh TĂĐP nâng cao kiến thức, thái độ và
thực hành về VSATTP.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
FAO. (1997). Street Food: Small Entrepreneurs.
Big Business.
Retrieved from
highlights/ 1997/970408-e.html.
FAO. (December, 1998). Street Foods. Report of
an FAO Expert Consultation, FAO Nutrition,
Jogjakarta, Indonesia.
FAO/WHO. (January, 2002). The experience of
improving the safety of street food via
international technical assistance. Paper
presented at the Global Forum of Food Safety
Regulators, Marrakech, Morocco.
Faruque, Q., Haque, Q.F., Shekhar, H.U., &
Begum, S. (February, 2010).
Institutionalization of Healthy Street Food
System in Bangladesh: A Pilot Study with
Three Wards of Dhaka City Corporation as a
Model. Technical Report of the Consumer
Association of Bangladesh, Dhaka,
Bangladesh.
Gizaw, Z., Gebrehiwot, M., & Teka, Z. (2014).
Food safety knowledge, attitude and
associated factors of food handlers working in
substandard food establishments in Gondar
Town, Northwest Ethiopia. International
Journal of Medical and Health Sciences
Research, 1(4), 37 - 49.
Mizanur, R.Md., Arif, M.T., Kamaluddin, B., &
Tambi, Z.B. (2012). Food safety knowledge,
attitude and hygiene practices among the
street food vendors in Northern Kuching city,
Sarawak. Borneo Science, 31, 95 – 103.
Schlundt, J., Toyofuku, H., Jansen, J., & Herbst,
S.A. (2004). Emerging Food-Borne Zoonoses.
Review of Science and Technology, 23, 513 -
515.
Thidarat, C., Suwat, S., & Duangjai, M. (2011).
Food safety knowledge, attitude and practice
of food handlers and microbiological and
chemical food quality assessment of food for
making merit for monks in Ratchathewi
District, Bangkok. Asia Journal of Public
Health, 2, 27 - 34.
Tonder, V., Jan, I.L., & Theron, M.M. (2007).
The Personal and General Hygiene Practices
of Food Handlers in the Delicatessen Sections
of Retail Outlets in South Africa. Journal of
Environmental Health, 70(4), 33 - 38.
Trung tâm Dinh dưỡng TP. HCM. (2003). Hội
người tiêu dùng quốc tế, Hội tiêu chuẩn và
bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam. Hội thảo
xây dựng các quy định, chính sách về việc
bán thức ăn đường phố ở Việt Nam. TP. Hồ
Chí Minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 07_le_ngoc_hiep_0_1155_2024250.pdf