Abstract: The purpose of this article is to study the procedural knowledge and conceptual
knowledge of functions in high school, thereby clarifying the relationship and find an
instrument to measure these knowledge types. The study was performed on 113 students of 12th
graders in the Quang Tri province. Structural Equation Modeling (SEM) was employed to check
the hypothesis of the research. The results show that procedural knowledge is necessary to
develop conceptual knowledge of students, moreover, conceptual knowledge also affect the
ability to apply functions to solve the problems of students.
7 trang |
Chia sẻ: dntpro1256 | Lượt xem: 681 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức quy trình và kiến thức khái niệm về hàm số ở trung học phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 03(35)/2015: tr. 15-21
KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM
VỀ HÀM SỐ Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
PHẠM XUÂN THẾ
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu hai dạng kiến thức quy
trình và kiến thức khái niệm về hàm số của học sinh trung học phổ thông,
qua đó làm rõ mối quan hệ và đề xuất một phương pháp đo hai dạng kiến
thức này. Nghiên cứu được thực hiện trên đối tượng 113 học sinh lớp 12 trên
địa bàn tỉnh Quảng Trị. Phương pháp mô hình phương trình cấu trúc (SEM)
được sử dụng để kiểm định các mối quan hệ giả thiết nghiên cứu. Kết quả
cho thấy kiến thức quy trình là điều kiện cần để phát triển kiến thức khái
niệm của học sinh, hơn nữa, kiến thức khái niệm cũng ảnh hưởng đến khả
năng áp dụng hàm số vào giải quyết các bài toán của học sinh.
Từ khóa: Kiến thức quy trình, kiến thức khái niệm, hàm số, mô hình
phương trình cấu trúc.
1. GIỚI THIỆU
Theo một nghiên cứu của Trung tâm Quốc gia về Đánh giá Tiến triển Giáo dục, Hoa Kỳ
(National Assessment of Educational Progress: NAEP), chín trong số mười học sinh
đồng ý với câu phát biểu “luôn luôn có một quy tắc để làm theo trong việc giải quyết
các bài toán”. Lý do cho suy nghĩ này có thể là do học sinh được tiếp xúc với cách giải
các bài toán theo thuật toán hướng dẫn của giáo viên trong quá trình học.
Trong các kì thi, hầu như các bài toán về hàm số thường tập trung vào các kỹ năng, nên
có thể che dấu sự vắng mặt của kiến thức khái niệm. Thông thường, nếu học sinh nắm
vững các phương pháp thì có thể tìm đúng đáp án. Điều này vô tình tạo ra một lý do để
giáo viên tin rằng học sinh hiểu được khái niệm toán học, nhưng có lẽ điều này không
đúng. Vậy nếu có một sự quan tâm nhiều hơn cho việc giảng dạy kiến thức khái niệm
(KTKN) trong trường học, thì liệu rằng kiến thức quy trình (KTQT) có bị bỏ qua, hay là
ít được quan tâm hơn? Điều này có thể không xảy ra, nhiều lập luận chỉ ra rằng, KTQT
là một điều kiện cần thiết cho KTKN. Hơn nữa, việc đo hai loại kiến thức này như thế
nào cũng rất quan trọng để giải thích bằng chứng về mối liên hệ giữa chúng.
Trong bài báo này, chúng tôi cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi: Thứ nhất,
chúng ta sẽ đo KTKN và KTQT của học sinh về hàm số ở bậc học THPT như thế nào?
Thứ hai, các kiến thức có tính quy trình và kiến thức có tính khái niệm về hàm số của
học sinh ở bậc học THPT có quan hệ với nhau như thế nào? Thứ ba, khả năng để giáo
viên có thể vận dụng kiến thức khái niệm trong việc định hướng cho học sinh giải quyết
các bài toán về hàm số như thế nào?
16 PHẠM XUÂN THẾ
2. KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KHÁI NIỆM
Thuật ngữ quy trình và khái niệm của toán học xuất hiện và trở nên phổ biến giữa
những năm 1980, đặc biệt sau khi Hiebert (1986, [6]) biên tập cuốn sách “Kiến thức
khái niệm và quy trình: Trường hợp của toán học”, các thuật ngữ này được phổ biến và
nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà giáo dục toán. Sự phân biệt giữa kiến thức
quy trình và khái niệm đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định những kiến thức
mà học sinh thu nhận được. Piaget (1978, [5]) phân biệt giữa sự hiểu biết về khái niệm
và hoạt động thành công; Schefller (1965, [5]) phân biệt giữa "biết tại sao" và "biết làm
thế nào"; Tulving (1983, [5]) phân biệt giữa bộ nhớ ngữ nghĩa và bộ nhớ phân đoạn;
Anderson (1983, [5]) phân biệt giữa kiến thức mô tả và quy trình; Nesher (1986, [5])
phân biệt giữa học thuật toán và học để hiểu; Hiebert (1986, [6]) nhấn mạnh rằng,
KTQT có hầu hết trong các thuật toán, nhưng còn thiếu các mối quan hệ, trong khi
KTKN rất giàu các mối quan hệ nhưng còn thiếu trong các thuật toán; Sfard (1994,
[10]) phân biệt giữa “tư duy hoạt động” và “tư duy cấu trúc”. Haapasalo và Kadijevich
(2000, [4]) đã đưa ra những đặc trưng cho hai loại kiến thức:
- Kiến thức quy trình biểu thị cách thức thực hiện các thuật toán, quy trình cụ thể.
Điều này thường đòi hỏi không chỉ kiến thức của các đối tượng toán học được sử
dụng, mà còn kiến thức về định dạng và cú pháp cần thiết để biểu diễn chúng.
- Kiến thức khái niệm biểu thị kiến thức về khả năng kết nối và vận dụng khéo léo
các yếu tố trong các mạng lưới riêng biệt, các yếu tố trong mạng này có thể là các
khái niệm, quy tắc (thuật toán, quy trình), và thậm chí cả các vấn đề được đưa
ra với những hình thức biểu diễn khác nhau.
Mối quan hệ giữa KTQT và KTKN hiện nay vẫn còn khá nhiều ý kiến khác nhau, xoay
quanh bốn quan điểm. Quan điểm kế thừa cho rằng KTQT là điều kiện cần nhưng chưa
đủ cho KTKN (Kline (1980, [9]), Kitcher (1983, [9]),Vergnaud (1990, [9]), Gray & Tall
(1993, [9]) và Sfard (1994, [10])). Quan điểm tương tác động cho rằng KTKN là điều
kiện cần nhưng chưa đủ cho KTQT (Byrnes & Wasik (1991, [9])). Quan điểm đồng
hoạt hóa ủng hộ việc xem KTQT là điều kiện cần và đủ cho KTKN (Byrnes & Wasik
(1991, [9]) và Haapasalo (1993, [9])). Quan điểm bất hoạt hóa lại cho rằng KTQT và
KTKN không liên quan (Nesher (1986, [9]) và Resnick & Omanson (1987, [9])).
Hiebert và Lefevre (1986, [6]) kết luận rằng, trong mối quan hệ giữa kiến thức quy trình
và khái niệm thì quy trình "giữ chìa khóa" để cải thiện sự hiểu biết toán học:
“... mặc dù có thể xem xét các quy trình mà không có các khái niệm, tuy nhiên không
phải là dễ dàng như vậy để hình dung kiến thức khái niệm mà không được liên kết với
một số quy trình. Điều này một phần là do thực tế rằng các quy trình biến kiến thức khái
niệm thành một cái gì đó quan sát được. Nếu không có các quy trình để tiếp cận và tác
động lên những kiến thức khái niệm, chúng ta sẽ không biết nó đã có”.
Caroline Long (2005, [2]) cho thấy rằng, không phải luôn luôn phân biệt được các khái
niệm từ các quy trình bởi vì việc hiểu và thực hiện được kết nối theo những cách phức
tạp. Nghiên cứu của Isleyen và Işik (2003, [7]) chỉ ra sự khác biệt rất lớn về điểm số của
KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM... 17
học sinh trong các bài kiểm tra về kiến thức quy trình và khái niệm. Tuy nhiên, nghiên
cứu này cũng như một số khác của Rittle-Johnson và cộng sự (2012, [1]), Tseng (2012,
[3]) đã không đề cập đến một mô hình đo lường cụ thể và có độ tin cậy cao về hai loại
kiến thức này. Lauritzen (2012, [9]) đã khám phá cách đo kiến thức quy trình và khái
niệm, mối quan hệ giữa chúng là gì và khả năng áp dụng hàm số trong phạm vi các bài
toán kinh tế.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng thực nghiệm: nghiên cứu này được thực hiện trên đối tượng là 113 học sinh
lớp 12 ở trường THPT Thị xã Quảng Trị, THPT Vĩnh Định và THPT Bùi Dục Tài, tỉnh
Quảng Trị. Phân tích tiên nghiệm được thực hiện vào tháng 1và bài kiểm tra chính được
thực hiện từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2015, sau khi học sinh đã học xong các phần về
hàm số. Các lớp được lựa chọn một cách ngẫu nhiên, bao gồm cả ban Cơ bản và Nâng
cao.
Bài kiểm tra chính: bao gồm tổng cộng 24 nhiệm vụ, các nhiệm vụ được đánh giá theo
thang điểm 10, đo lường ba biến tiềm ẩn là KTQT, KTKN và khả năng áp dụng hàm số,
số lượng nhiệm vụ để đo các biến được thể hiện trên bảng 1. Bài kiểm tra chính được
chia nhỏ vì lý do nhiều câu hỏi. Học sinh làm bài trong giờ học rãnh, hoặc ở lại làm tại
Quy trình
Khái niệm
Đồ thị (QT1)
Đại số (QT2)
Giải tích (QT3)
Mối liên hệ
(*) (KN1)
Giải thích đồ thị
(KN2)
Giải thích đại số
(KN3)
Giải thích giải
tích (KN4)
Áp dụng
Bài toán thực
tế (AD1)
Đạo hàm
(AD2)
Đồ thị đạo hàm
(AD3)
(*): Mối liên hệ giữa đồ thị và biểu thức đại số
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
18 PHẠM XUÂN THẾ
lớp sau giờ học với sự giúp đỡ của giáo viên đứng lớp. Các bài kiểm tra được thu thập
sau đó loại bỏ các bài không đạt yêu cầu.
Phân tích kết quả: Kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha được sử dụng để đánh giá độ
tin cậy của thang đo. Các biến có hệ số tương quan biến - tổng nhỏ hơn 0.3 sẽ bị loại.
Nếu Cronbach’s Alpha tổng lớn hơn hoặc bằng 0,60 là thang đo có thể chấp nhận được
về mặt tin cậy (Nunnally, J. và Berstein, I.H., 1994, [8]). Mô hình phương trình cấu trúc
(Tiếng Anh: SEM) cho phép tích hợp các yếu tố phân tích và phân tích hồi quy thành
một mô hình thống kê để nghiên cứu các mối quan hệ đề xuất trong mô hình. Phần mềm
SPSS 21 và AMOS 22 được sử dụng trong nghiên cứu này như một công cụ cho việc xử
lý và phân tích số liệu.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có tất cả 24 nhiệm vụ được sử dụng trong nghiên cứu để đo các mục KTQT, KTKN và
khả năng áp dụng hàm số. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn của các mục đo thể hiện
qua bảng sau:
Bảng 1. Kết quả cho các nhiệm vụ đo
Thành
phần QT1 QT2 QT3 KN1 KN2 KN3 KN4 AD1 AD2 AD3
Số
nhiệm
vụ
2 2 2 4 3 2 2 4 1 2
Trung
bình 8.07 7.12 7.98 6.82 6.74 6.47 4.91 5.90 6.10 5.49
Độ
lệch
chuẩn
1.89 1.88 1.89 1.80 2.22 2.59 2.58 1.72 3.67 2.11
Đánh giá thang đo bằng hệ
số tin cậy Cronbach’s
Alpha: kết quả kiểm định
độ tin cậy thang đo với hệ
số Cronbach’s Alpha, các
thành phần của thang đo
kiến thức quy trình, khái
niệm và khả năng áp dụng
hàm số đều đạt yêu cầu
(lớn hơn mức yêu cầu 0.6),
các hệ số tương quan biến -
tổng đều đạt yêu cầu lớn
hơn 0.3.
Hình 2. Biểu đồ phân tán tổng điểm khái niệm và quy trình
KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM... 19
Kết quả phân tích mô hình SEM: Kết quả ước lượng của mô hình đề xuất được thể hiện
trên hình 3. Giá trị Chi-square/df = 1.571 và p=0.024 có ý nghĩa thống kê (nhỏ hơn
0.05); các chỉ tiêu CFI=0.951, GFI=0.932 đều đạt yêu cầu (lớn hơn 0.9) cho thấy mô
hình xây dựng phù hợp với dữ liệu nghiên cứu. Dựa vào kết quả trọng số hồi quy giữa
các nhân tố ta thấy KTQT có tác động mạnh, cùng chiều đến KTQT về hàm số của học
sinh với trọng số 0.92, đồng thời KTKN cũng tác động mạnh đến khả năng áp dụng hàm
số với trọng số 0.78. Tuy nhiên, trọng số hồi quy giữa KTQT và khả năng áp dụng hàm
số chỉ 0.06, như vậy KTQT không ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng áp dụng hàm số
của học sinh mà tác động gián tiếp thông qua KTKN.
5. THẢO LUẬN VÀ KẾT LUẬN
Nghiên cứu này được tiến hành để xem xét ba câu hỏi nghiên cứu đề ra ban đầu. Liên
quan đến câu hỏi đầu tiên, chúng tôi có thể nói rằng, kiến thức quy trình và khái niệm
về hàm số trong nhóm đối tượng học sinh thực nghiệm có thể được đo bởi mô hình
nghiên cứu đề xuất. Các thành phần của thang đo đều đạt được giá trị hội tụ với trọng số
hồi quy từ 0.56-0.72, các tham số ước lượng đều có ý nghĩa thống kê (p<5%).Bảng 1
cho thấy điểm trung bình trong các nhiệm vụ đo KTQT khá cao, từ 7.12 – 8.07. Điều
này chỉ ra rằng KTQT của học sinh là khá tốt. Tuy nhiên điểm trung bình trong các
nhiệm vụ đo KTKN thấp hơn khá nhiều, từ 4.91 – 6.82. Hơn nữa, số học sinh không trả
lời được các câu hỏi cũng chiếm số lượng đáng kể. Điều này cũng hợp lý, bởi thực tế
rằng học sinh đã được tiếp xúc quá nhiều với tư tưởng dạy học chú trọng về phát triển
Hình 3. Kết quả mô hình SEM đề xuất ban đầu
20 PHẠM XUÂN THẾ
kỹ năng về quy trình. Đa số các bài tập trong sách giáo khoa về hàm số học sinh đã
được làm quen về quy trình giải, thậm chí rất nhiều dạng bài được giáo viên cho học
sinh luyện tập đến mức thành thục kỹ năng giải.
Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu thứ hai, chúng tôi xem KTQT và KTKN như là các biến
tiền ẩn và tìm hiểu mối tương quan giữa chúng. Kết quả từ mô hình SEM với trọng số hồi
quy 0.92 cho thấy KTQT đóng vai trò quan trọng, quyết định đến KTKN về hàm số của
học sinh. Như vậy, kết quả nghiên cứu ủng hộ quan điểm kế thừa cho rằng KTQT là điều
kiện cần cho KTKN. Biểu đồ phân tán tổng điểm ở Hình 2 cho thấy một sự chênh lệch
khá lớn, khi mà điểm số phân bố về phía KTQT. Phương pháp giáo dục của chúng ta hiện
nay quá chú trọng đến các kỹ thuật giải toán, theo những khuôn mẫu có sẵn mà chưa dành
nhiều quan tâm đến khả năng kết nối, vận dụng các khái niệm, quy tắc.
Đối với câu hỏi nghiên cứu thứ ba, kết quả phân tích của mô hình nghiên cứu nói lên
rằng, KTKN là điều kiện cần thiết cho khả năng áp dụng hàm số. Trọng số hồi quy 0.78
cho thấy mối liên hệ này là rất mạnh mẽ. Mối liên hệ giữa KTQT và khả năng áp dụng
hàm số trong nghiên cứu này là rất yếu, trọng số chỉ đạt 0.06. Nói một cách khác,
KTQT một mình dường như là không đủ để áp dụng vào việc giải quyết các bài toán về
hàm số. KTQT không tác động trực tiếp lên khả năng áp dụng, mà tác động gián tiếp
thông qua KTKN của học sinh. Một suy diễn từ kết quả này có thể là chúng ta cần phải
có KTKN về một đối tượng toán học ở mức độ nhất định thì mới có thể áp dụng nó,
việc hiểu biết các kĩ thuật là chưa đủ.
Những khó khăn của học sinh trong việc giải quyết nhiều vấn đề thực tế là biểu hiện của
một trong những điểm yếu của trọng tâm giảng dạy hiện nay, khi mà mục đích giảng
dạy nhằm thúc đẩy sự hiểu biết về KTQT, giải quyết các bài toán quen thuộc, luyện tập
đến mức độ thuần thục các kỹ năng thực hiện thuật toán nhằm đạt điểm cao trong các kì
thi. Nếu chỉ đặt nặng rèn luyện KTQT thì học sinh không có năng lực vận dụng kiến
thức toán trong giải quyết các bài toán mới lạ, không quen thuộc. Việc dạy học cần
được đẩy mạnh với trọng tâm hiểu khái niệm toán học để giải quyết các vấn đề thực tế,
phát triển tư duy trong khám phá tự nghiệm các bài toán kết thúc mở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bethany Rittle-Johnson, Michael Schneider (2012). Developing Conceptual and
Procedural Knowledge of Mathematics, The Oxford Handbook of Numerical
Cognition, Oxford University Press.
[2] Caroline Long (2005). Maths concepts in teaching: procedural and conceptual
knowledge, Pythagoras, Issue 62 (2005), 59-65.
[3] David H. Tseng (2012). Conceptual and procedural knowledge in Mathematics
education in the case of law of exponents, Polygon Spring 2012, Vol. 4, 1-23.
[4] Haapasalo Lenni, Djordje Kadijevich (2000). Two Types of Mathematical
Knowledge and Their Relation, Journal for Mathematics Teaching,21 (2), 139-157,
Springer-Verlag.
[5] Haapasalo, L. & Sormunen, K. (Ed.) (2003). Towards Meaningful Mathematics and
Science Education, Proceedings on the IXX Symposium of the Finnish Mathematics
KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM... 21
and Science Education Research Association, University of Joensuu. Bulletins of the
Faculty of Education 86.
[6] Hiebert, J., & Lefevre, P. (1986). Conceptual and Procedural Knowledge in
Mathematics: An Introductory Analysis. In J. Hiebert (Ed.), Conceptual and
Procedural Knowledge: The Case of Mathematics, Hillsdale, NJ: Erlbaum, 1‑27.
[7] Isleyen, Tevfik & Işik, Ahmet (2003). Conceptual and Procedural Learning in
Mathematics, Journal of the Korea Society of Mathematical Education Series D:
Research in Mathematical Education, Vol. 7, No. 2, 91-99.
[8] Nunnally, J. & Berstein, I.H. (1994). Pschychometric Theory, 3rd ed., New York:
McGraw-Hill.
[9] PÅL Lauritzen (2012). Conceptual and Procedural Knowledge of Mathematical
Functions, Dissertations in Education, Humanities, and Theology, University of
Eastern Finland.
[10] Sfard, A. (1994). Reification as a birth of a metaphor. For the Learning of
Mathematics, 14(1), 44‑55.
Title: CONCEPTUAL AND PROCEDURAL KNOWLEDGE OF FUNCTIONS IN HIGH
SCHOOLS
Abstract: The purpose of this article is to study the procedural knowledge and conceptual
knowledge of functions in high school, thereby clarifying the relationship and find an
instrument to measure these knowledge types. The study was performed on 113 students of 12th
graders in the Quang Tri province. Structural Equation Modeling (SEM) was employed to check
the hypothesis of the research. The results show that procedural knowledge is necessary to
develop conceptual knowledge of students, moreover, conceptual knowledge also affect the
ability to apply functions to solve the problems of students.
Keywords: Conceptual knowledge, function, procedural knowledge, structural equation
modeling.
PHẠM XUÂN THẾ
Học viên Cao học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
ĐT: 0982 477 369, Email: xuanthe2010@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29_450_phamxuanthe_05_pham_xuan_the_7134_2020387.pdf