5. KẾT LUẬN
Những phân tích và kết quả khảo sát nêu trên về việc dạy–học KTKN và KTQT về hàm
số bậc nhất cho thấy một thực tế đang tồn tại là học sinh ở trung học cơ sở có thế mạnh
trong việc áp dụng các KTQT, nhưng lúng túng khi vận dụng KTKN, và còn yếu trong
việc kết hợp cả hai loại kiến thức trong việc giải quyết các vấn đề có nội dung thực tế.
Nguyên nhân mấu chốt của vấn đề này, theo chúng tôi, đó là chương trình toán trung học
đã quá chú trọng đến kiến thức quy trình mang tính thuật toán, người dạy và người học
chưa có cơ hội để thực sự quan tâm đúng mức đến tầm quan trọng của sự hiểu biết sâu sắc
ý nghĩa của khái niệm, dẫn đến khó khăn trong việc phân tích, biểu diễn vấn đề thực tế,
đưa vấn đề thực tế về bài toán thuần túy quen thuộc. Mặt khác, các vấn đề có nội dung
thực tế liên quan trực tiếp đến các kiến thức ở trung học cơ sở vẫn chưa được đưa nhiều
vào trong chương trình sách giáo khoa cũng như trong bài giảng của giáo viên.
Vì vậy, để có thể giúp các em học sinh có một kiến thức đủ tốt giải quyết các vấn đề
quen thuộc trong chương trình học tập, cũng như áp dụng tốt kiến thức đã được học để
giải quyết các vấn đề thực tế phù hợp, chúng tôi nghĩ rằng cần có một sự thay đổi triệt
để trong tư duy dạy–học các loại kiến thức, đặt nặng sự hiểu biết sâu về khái niệm, kết
hợp tốt với các quy trình liên quan; đưa thêm vào trong bài giảng cũng như trong sách
giáo khoa hệ thống các bài toán thực tế gắn chặt với từng nội dung kiến thức các em
đang được học. Đồng thời, trang bị cho các em quy trình giải quyết vấn đề nêu trên của
PISA để các em có thể vận dụng một cách chủ động trong quá trình giải quyết các vấn
đề có nội dung thực tế, đáp ứng tốt hơn sự đánh giá của PISA trong thời gian sắp đến.
9 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 526 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kiến thức quy trình và kiến thức khái niệm về hàm số bậc nhất hướng tới áp dụng giải quyết các vấn đề thực tế trong chương trình Trung học Cơ sở - Hồ Thị Minh Phương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 01(41) /2017: tr. 5-13
Ngày nhận bài: 06/9/2016; Hoàn thành phản biện: 10/10/2016; Ngày nhận đăng: 12/02/2017
KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM VỀ HÀM SỐ
BẬC NHẤT HƯỚNG TỚI ÁP DỤNG GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ
THỰC TẾ TRONG CHƯƠNG TRÌNH TRUNG HỌC CƠ SỞ
HỒ THỊ MINH PHƯƠNG
Khoa Toán học, Trường Đại học Quy Nhơn
ĐT: 0129 375 8492, Email: homphuong@yahoo.com
Tóm tắt: Trong bài báo này chúng tôi nghiên cứu lý thuyết về kiến thức quy
trình và kiến thức khái niệm được đưa ra lần đầu tiên trong cuốn sách của
Hiebert và Leferve (1986, [4]). Bài báo tập trung nghiên cứu hai loại kiến
thức này đối với hàm số bậc nhất, từ đó áp dụng giải quyết các vấn đề thực
tế có nội dung phù hợp với độ tuổi 15, vận dụng các quá trình giải quyết vấn
đề của OECD/PISA.
Từ khóa: Kiến thức quy trình, kiến thức khái niệm, hàm số bậc nhất,
OECD/PISA, giải quyết vấn đề.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Dubinsky và Harel (1992, [2]), khái niệm hàm số là khái niệm quan trọng nhất từ
lúc học mẫu giáo cho đến khi tốt nghiệp trung học phổ thông. Trong chương trình sách
giáo khoa môn Toán hiện hành ở bậc Trung học cơ sở, khái niệm hàm số được đưa vào
giảng dạy trong chương trình Toán 7 và Toán 9, tập trung vào khái niệm hàm số bậc
nhất và hàm số bậc hai. Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề có nội dung thực tiễn phù hợp với
độ tuổi 15 gắn với khái niệm hàm số bậc nhất. Vì thế chúng tôi lựa chọn nghiên cứu
việc dạy-học khái niệm hàm số bậc nhất ở bậc Trung học cơ sở nhằm tìm hiểu tình hình
giảng dạy, học tập và khả năng áp dụng hàm số bậc nhất trong việc giải quyết các vấn
đề có nội dung thực tế của học sinh ở độ tuổi 15, từ đó có những đề xuất phù hợp để
nâng cao chất lượng việc dạy-học khái niệm quan trọng này.
Bên cạnh đó, nghiên cứu việc dạy-học khái niệm hàm số bậc nhất cho đối tượng học
sinh ở độ tuổi 15 xuất phát từ Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) do Tổ
chức Hợp tác và Phát triển (OECD, 2003, [5]) khởi xướng và chỉ đạo, nhằm tìm kiếm
các chỉ số đánh giá tính hiệu quả - chất lượng hệ thống giáo dục của mỗi nước tham gia,
qua đó rút ra các bài học về các chính sách đối với giáo dục phổ thông.
Một trong những nội dung đánh giá của PISA trong lĩnh vực Toán học là Năng lực toán
học (Mathematical literacy), là năng lực của một cá nhân có thể nhận biết về mặt ý
nghĩa, vai trò của toán học trong cuộc sống; là khả năng lập luận và giải toán; biết học
toán, vận dụng toán theo cách nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống hiện tại và tương lai một
cách linh hoạt. Có 3 mức trong đánh giá năng lực toán học của PISA:
- Mức 1: Ghi nhớ, tái hiện: Học sinh có thể nhớ lại các đối tượng, định nghĩa và tính chất
toán học; thực hiện được một cách làm quen thuộc; áp dụng một thuật toán đặc trưng.
6 HỒ THỊ MINH PHƯƠNG
- Mức 2: Kết nối và tích hợp: Học sinh có thể kết nối, tích hợp thông tin để giải quyết
các vấn đề đơn giản; tạo một kết nối trong các cách biểu đạt khác nhau; đọc và giải
thích được các ký hiệu và ngôn ngữ hình thức (toán học) và hiểu mối quan hệ của chúng
với ngôn ngữ tự nhiên.
- Mức 3: Khái quát hóa, toán học hóa: Học sinh có thể nhận biết nội dung toán học trong
tình huống có vấn đề phải giải quyết; sử dụng kiến thức toán học để giải quyết vấn đề;
biết phân tích, lập luận, chứng minh toán học (BGD&ĐT, 2011, [1]; OECD, 2003, [5]).
Nội dung các bài toán trong PISA đề cao tính ứng dụng của toán học vào thực tiễn, vừa
giúp học sinh thấy được vai trò của toán học trong cuộc sống, vừa hấp dẫn, kích thích
được ham muốn tìm tòi, khám phá của các em. Hàm số bậc nhất là một trong những
kiến thức có liên quan mật thiết đến nội dung các bài toán nói trên của PISA. Việc
nghiên cứu một phương pháp hiệu quả để giảng dạy cho học sinh ở bậc Trung học cơ sở
các kiến thức liên quan đến hàm số bậc nhất là rất cấp thiết, nhằm đáp ứng tốt yêu cầu
đánh giá năng lực toán học của PISA.
Có hai quan điểm dạy-học một kiến thức toán học. Quan điểm thứ nhất là dạy-học kiến
thức theo hướng đề cao phát triển kỹ năng, nâng cao khả năng tính toán qua việc dạy-học
một thuật toán liên quan đến kiến thức toán học. Quan điểm thứ hai là dạy–học kiến thức
để hiểu nội hàm của kiến thức, vận dụng kiến thức trong nhiều tình huống khác nhau.
Quan điểm “thuật toán” liên quan đến “quy trình”, còn quan điểm “hiểu” liên quan đến sự
“khái niệm hóa” của kiến thức. Trong phần tiếp theo chúng tôi tập trung nghiên cứu hai
dạng này của kiến thức, đặc biệt hóa đối với kiến thức về hàm số bậc nhất.
2. KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM VỀ HÀM SỐ BẬC NHẤT
2.1. Kiến thức quy trình, kiến thức khái niệm và quan hệ giữa chúng
Một quy trình là một chuỗi các bước hoặc các hoạt động, được thực hiện nhằm hoàn
thành một mục tiêu; một quy trình cũng có thể xem là một thuật toán – một dãy các
hành động có trình tự, nó sẽ đưa đến câu trả lời đúng khi được thực hiện đúng, hoặc
những hành động có thể được tiếp nối nhau một cách phù hợp để giải quyết một vấn đề
đặt ra. Kiến thức về các quy trình thường được gọi là kiến thức quy trình (KTQT).
Một khái niệm là một ý tưởng trừu tượng hoặc đủ tổng quát, được khái quát hóa từ nhiều
trường hợp riêng. Kiến thức về các khái niệm thường được gọi là kiến thức khái niệm
(KTKN) (Hiebert & Leferve, 1986, [4]; Rittle-Johnson, Siegler & Alibali, 2001, [6]).
Kiến thức toán học bao gồm cả hai dạng quy trình và khái niệm và “Sự kết hợp giữa
KTKN và KTQT sẽ có nhiều thuận lợi trong việc tiếp thu và sử dụng KTQT” (Hiebert &
Lefevre, 1986, [4]). Trong quá trình áp dụng toán học để giải quyết các vấn đề thực tế,
chỉ có KTKN hay chỉ có KTQT là chưa đủ, mà đòi hỏi học sinh phải vận dụng cả hai
loại kiến thức. Điều này định hướng cho giáo viên phải có sự kết hợp nhuần nhuyễn hai
loại kiến thức trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh.
KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM VỀ HÀM SỐ BẬC NHẤT 7
2.2. Kiến thức quy trình và kiến thức khái niệm về hàm số bậc nhất
Dựa trên lý luận về KTQT và KTKN được trình bày ở phần trước, chúng tôi đưa ra định
nghĩa cho hai loại kiến thức này đối với hàm số bậc nhất như sau.
KTKN về hàm số bậc nhất biểu thị sự vận dụng khéo léo mạng lưới các mối quan hệ về
hàm số bậc nhất, bao gồm mối quan hệ giữa các biến, mối quan hệ giữa các hình thức
biểu diễn khác nhau của hàm số bậc nhất (đồ thị, biểu thức đại số, bảng, lời), mối quan
hệ điểm-đồ thị, mối quan hệ giữa dạng đồ thị và sự
biến thiên của hàm số, mối quan hệ giữa đồ thị của
các hàm số bậc nhất khác nhau (trùng nhau, song
song, cắt nhau)
Ví dụ đơn giản sau đây minh họa cho việc vận
dụng KTKN về hàm số bậc nhất: “Xác định biểu
thức đại số của hàm số ( )y f x có đồ thị được
cho ở Hình 1.”
Trước tiên, với kiến thức về khái niệm hàm số, học
sinh nhận xét được rằng đồ thị của hàm số đã cho
là một đường thẳng, do đó ( )f x phải có
dạng ( ) ,f x ax b trong đó 0a và b là các số
cần tìm. Tiếp theo, với kiến thức về quan hệ điểm-đồ thị và giá trị của hàm số tại một
giá trị của biến số, học sinh có thể đưa về giải một hệ phương trình bậc nhất hai biến số
là a và b .
KTQT về hàm số bậc nhất biểu thị sự vận dụng thành công và linh động các quy tắc,
thuật toán hoặc các quy trình đặc biệt trên các hàm số bậc nhất. Các câu hỏi để kiểm tra
KTQT về hàm số bậc nhất thường liên quan đến việc tính toán giá trị của một hàm số
cho trước tại những giá trị khác nhau của biến số, vẽ đồ thị của hàm số bậc nhất, tìm
điều kiện của tham số để hàm số đồng biến hay nghịch biến, xét sự tương giao của đồ
thị hai hay nhiều số hàm số bậc nhất,
Chẳng hạn, xét ví dụ: “Vẽ đồ thị của các hàm số 2 3y x và 2 5y x trên cùng
một mặt phẳng tọa độ. Từ đó xác định tọa độ giao điểm của đồ thị hai hàm số đã cho.”
Để vẽ đồ thị của từng hàm số, học sinh áp dụng quy trình vẽ đồ thị hàm số bậc nhất
được học trong sách giáo khoa Toán 9. Dựa vào hai đồ thị đã vẽ được, một cách trực
quan học sinh dễ dàng tìm được tọa độ của giao điểm.
3. ÁP DỤNG KTQT VÀ KTKN VỀ HÀM SỐ BẬC NHẤT ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC
VẤN ĐỀ THỰC TẾ Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ
Nhiều vấn đề có nội dung thực tế dành cho học sinh ở độ tuổi 15 liên quan đến khái
niệm hàm số bậc nhất. Việc nghiên cứu phương pháp và cách thức tổ chức dạy học
KTQT và KTKN về hàm số bậc nhất cho học sinh ở độ tuổi này là một nhiệm vụ quan
Hình 1
8 HỒ THỊ MINH PHƯƠNG
trọng được đặt ra cho mỗi giáo viên, nhằm giúp các em có đủ kiến thức và đủ khả năng
áp dụng giải quyết các vấn đề có nội dung thực tế.
Trong các lĩnh vực đánh giá của PISA, Giải quyết vấn đề là năng lực của một cá nhân
trong việc vận dụng các quá trình nhận thức để đối mặt và giải quyết các tình huống
thực tế xuyên suốt các môn học. Theo PISA (2003, [5]), quá trình giải quyết vấn đề
gồm các bước cơ bản sau:
Bước 1: Hiểu vấn đề. Học sinh có thể hiểu một văn bản, một công thức, một biểu đồ,
hoặc một bảng như thế nào và rút ra các kết luận từ đó; liên kết thông tin từ các nguồn
khác nhau.
Bước 2: Phân tích vấn đề. Học sinh có thể nhận biết các biến số trong vấn đề và các mối
liên quan giữa chúng; quyết định biến số nào là phù hợp và biến số nào là không phù hợp.
Bước 3: Biểu diễn vấn đề. Học sinh xây dựng các biểu diễn dưới dạng bảng, đồ thị, ký
hiệu hay lời, hoặc làm thế nào để các em học sinh áp dụng một dạng biểu diễn bên
ngoài cho trước để giải quyết vấn đề.
Bước 4: Giải quyết vấn đề. Học sinh đưa ra một quyết định; phân tích một hệ thống
hoặc thiết kế một hệ thống để đạt được một mục tiêu nào đó, hoặc phát hiện và đề xuất
một lời giải.
Bước 5: Phản ánh về lời giải. Học sinh kiểm tra lời giải của mình; đánh giá lời giải của
mình theo các quan điểm khác nhau nhằm điều chỉnh lại lời giải.
Bước 6: Giao tiếp về lời giải. Học sinh lựa chọn phương tiện và cách thức thể hiện phù
hợp để truyền đạt lời giải của các em đến những người quan tâm.
Trong các bước trên đây của quá trình giải quyết vấn đề, các bước hiểu vấn đề, phân
tích vấn đề, biểu diễn vấn đề đòi hỏi KTKN; bước giải quyết vấn đề đòi hỏi KTQT về
các vấn đề đang đối mặt giải quyết; bước Phản ánh về lời giải đòi hỏi sự kết hợp của cả
hai loại kiến thức.
Các bước nêu trên của PISA cung cấp một quy trình tốt để giải quyết các vấn đề có nội
dung thực tế. Chúng tôi minh họa cho quy trình này thông qua ví dụ sau đây của OECD,
vận dụng KTQT và KTKN về hàm số bậc nhất.
Ví dụ 3.1. (Vấn đề tham quan, xem chi tiết OECD, 2003, [5] tr. 100) Một lớp học muốn
thuê một chiếc xe khách đi tham quan. Có ba công ty được tiếp cận để tham khảo giá:
Công ty A có giá khởi điểm là 3.750.000 đồng cộng thêm 5000 đồng cho mỗi km;
Công ty B có giá khởi điểm là 2.500.000 đồng cộng thêm 7.500 đồng cho mỗi km;
Công ty C có giá nền là 3.500.000 đồng nếu không quá 200 km, cộng thêm 10.200 đồng
cho mỗi km chạy xe vượt quá 200 km.
Theo bạn lớp đó nên chọn thuê xe của công ty nào nếu chuyến tham quan có tổng đoạn
đường cần di chuyển trong khoảng 400 km đến 600 km?
KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM VỀ HÀM SỐ BẬC NHẤT 9
Đối với vấn đề này, học sinh sẽ có những khó khăn nhất định trong việc xác định giá của
từng công ty theo quãng đường di chuyển, và thậm chí còn lúng túng hơn khi quãng
đường di chuyển không cố định mà thay đổi trong một khoảng cho trước. Tuy nhiên, nếu
các em có thể bám chặt vào từng bước của quá trình giải quyết vấn đề nêu trên của PISA,
vận dụng KTQT và KTKN về hàm số bậc nhất, khả năng giải quyết vấn đề sẽ tốt hơn.
Bước 1: Hiểu vấn đề
Lớp học có 3 phương án để lựa chọn đi tham quan. Tùy thuộc vào quãng đường cần di
chuyển và giá cả tương ứng của từng phương án mà lựa chọn một phương án với chi phí
thấp nhất.
Bước 2: Phân tích vấn đề
Học sinh nhận ra được hai biến số phụ thuộc nhau trong vấn đề: giá và quãng đường di
chuyển. Nếu giá được tính theo đơn vị chục ngàn đồng thì đối với Công ty A, giá = giá
khởi điểm + 0,5quãng đường di chuyển; đối với Công ty B, giá = giá khởi điểm +
0,75 quãng đường di chuyển; đối với Công ty C, giá = giá nền nếu quãng đường di
chuyển không quá 200 km, còn nếu quãng đường di chuyển vượt quá 200 km thì giá =
giá nền + 1,02quãng đường vượt quá 200 km. Bằng cách so sánh giá của từng công ty
với nhau tương ứng với quãng đường di chuyển trên, học sinh đưa ra lời giải cho vấn đề.
Bước 3: Biểu diễn vấn đề
Học sinh cần biết cách dùng ký hiệu để biểu diễn quan hệ phụ thuộc giữa giá và quãng
đường di chuyển. Ký hiệu x cho quãng đường di chuyển, ( )f x cho giá của Công ty A,
( )g x cho giá của Công ty B, ( )h x cho giá của Công ty C. Khi đó, từ bước phân tích
vấn đề, học sinh có thể biểu diễn được giá của từng công ty theo quãng đường di chuyển
bằng các công thức sau đây:
350, khi 200
( ) ( )
350 1,02( 200), khi 200
375 0,5 , 250 0,75
.
,
x
x g x xf x h x
x x
Bằng KTKN về hàm số bậc nhất, học sinh sẽ nhận ra
rằng , ,f g h là các hàm số bậc nhất theo biến số x .
Các em có thể biểu diễn các hàm số này bằng đồ thị
trên cùng một hệ trục tọa độ để dễ dàng so sánh giá trị
của từng hàm số tại một điểm, vận dụng KTQT về vẽ
đồ thị của hàm số bậc nhất (xem Hình 2). Với
400 600,x so sánh giá trị của ( ), ( ), ( )f x g x h x
để xác định giá trị nhỏ nhất của 3 giá trị này, từ đó lựa
chọn phương án tối ưu nhất. Việc so sánh này có thể
quan sát trực tiếp dựa trên đồ thị hàm số. Dựa vào
KTKN về giá trị của hàm số tại một giá trị của biến
số, học sinh có thể tìm được giá trị nhỏ nhất bằng
Hình 2. Đồ thị của các hàm số
f(x), g(x), h(x)
10 HỒ THỊ MINH PHƯƠNG
cách tìm điểm thấp nhất trong 3 điểm tương ứng trên đồ thị của 3 hàm số.
Bước 4: Giải quyết vấn đề
Dựa vào phân tích và biểu diễn trên đây của vấn đề, quan sát trên đồ thị của các hàm số,
học sinh sẽ nhận ra rằng với x nhận các giá trị từ 400 đến hoành độ giao điểm của đồ
thị hai hàm số ( )f x và ( )g x , phần đồ thị của ( )g x là thấp nhất trong 3 đồ thị. Hơn nữa,
với x nhận các giá trị từ hoành độ của giao điểm nói trên đến 600, phần đồ thị của
( )f x là thấp nhất. Học sinh cần có một kiến thức quy trình về sự tương giao của đồ thị
các hàm số để có thể tìm được tọa độ giao điểm của đồ thị hai hàm số ( )f x và ( )g x . Từ
đó học sinh đưa ra kết luận: Nếu quãng đường di chuyển từ 400 km đến 500 km thì lớp
học nên chọn Công ty B; nếu quãng đường di chuyển từ 500 km đến 600 km thì lớp học
nên chọn Công ty A.
Bước 5: Phản ánh về lời giải
Trong lời giải trên của vấn đề, tại giá trị đặc biệt 500x (hoành độ giao điểm của đồ thị
hai hàm số ( )f x và ( )g x ), các giá trị (500)f và (500)g bằng nhau. Do đó, nếu quãng
đường di chuyển đúng bằng 500 km thì lớp học có thể chọn Công ty A hoặc Công ty B.
Bước 6: Giao tiếp về lời giải
Học sinh trình bày lời giải nêu trên của vấn đề với giáo viên và bạn học bằng nhiều cách
khác nhau, chẳng hạn bằng cách trình bày trên bảng hay trên giấy, giải thích cho mọi
người hiểu lời giải của mình.
4. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
Để có cơ sở đánh giá thực tế dạy–học
KTQT và KTKN về hàm số bậc nhất, đồng
thời để hiểu được mức độ kết hợp hai loại
kiến thức này của học sinh trung học cơ sở
trong việc giải quyết các vấn đề có nội
dung thực tế, chúng tôi tiến hành khảo sát
N = 79 học sinh lớp 9 tại Trường THCS
Quang Trung, thành phố Quy Nhơn, tỉnh
Bình Định.
Chúng tôi sử dụng phiếu thăm dò gồm 4
câu hỏi về hàm số bậc nhất, được học sinh thực hiện trong thời gian 45 phút với nội
dung như sau:
Câu 1 (2 điểm). Cho hàm số bậc nhất (1 2) 3.y x
a) Tính giá trị của y với 1 2;x
b) Tính giá trị của x với 2.y
Hình 3
KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM VỀ HÀM SỐ BẬC NHẤT 11
Câu 2 (2 điểm). Xác định biểu thức đại số của hàm số ( )y f x có đồ thị được cho như
ở Hình 3.
Câu 3 (2 điểm). Cho hai hàm số bậc nhất ( 3)y m x m và 2 1y mx , với m là
tham số.
a) Tìm giá trị của m để đồ thị hai hàm số trên cắt nhau;
b) Tìm giá trị của m để đồ thị hai hàm số trên song song với nhau.
Câu 4 (4 điểm). Giá tiền dịch vụ (ngàn/km) của hai hãng taxi A và B tương ứng với số
quãng đường đi (km) được minh họa bằng hai đồ thị trong cùng một hệ trục tọa độ như
ở Hình 4.
a) Tìm quãng đường khách hàng cần
phải đi để số tiền trả cho mỗi hãng taxi
là như nhau.
b) Nếu đi 4 km thì số tiền khách hàng
của từng hãng taxi phải trả là bao
nhiêu?
c) Nếu cần đi 10 km thì khách hàng
nên lựa chọn hãng taxi nào?
Hình 4
Trong các câu hỏi trên, Câu 1, Câu 4a) chú trọng đến KTQT về hàm số bậc nhất; Câu 2,
Câu 3, Câu 4c) chú trọng đến KTKN cũng như sự kết hợp giữa hai loại kiến thức để giải
các bài tập về đồ thị của hàm số bậc nhất. Riêng Câu 4b) chú trọng đến sự kết hợp của
hai loại kiến thức nhằm giải quyết vấn đề có nội dung thực tế.
Kết quả bài làm của học sinh được chúng tôi tổng hợp trong Bảng 1 dưới đây. Nhìn vào
bảng ta thấy rằng tỉ lệ học sinh đạt điểm tối đa ở Câu 1, Câu 4a) là rất cao; tỉ lệ học sinh
đạt điểm tối đa ở Câu 2, Câu 3, Câu 4c) thấp hơn một ít so với các câu nêu trên; riêng
đối với Câu 4b), một số học sinh làm đúng kết quả cho hãng taxi B, tuy nhiên tỉ lệ học
sinh đạt điểm tối đa là rất thấp.
Bảng 1. Kết quả đánh giá phiếu thăm dò việc dạy-học KTQT và KTKN về hàm số bậc nhất
Câu
1 2
(2đ)
3 4
a)
(1đ)
b)
(1đ)
a)
(1đ)
b)
(1đ)
a)
(1đ)
b)
(2đ)
c)
(1đ)
Mức
điểm
Tỉ lệ phần trăm (%) học sinh hoàn thành theo các câu
0 0 2,5 8,9 11,4 11,4 3,8 50,8 12,7
1 100 97,5 10,1 88,6 88,6 96,2 35,3 87,3
2 0 0 81 0 0 0 13,9 0
12 HỒ THỊ MINH PHƯƠNG
Kết quả trên cho thấy học sinh được trang bị tốt các quy trình liên quan đến hàm số bậc
nhất. Đối với các vấn đề liên quan đến việc áp dụng KTKN cũng như sự kết hợp hai loại
kiến thức về phương trình hoặc đồ thị của hàm số bậc nhất để giải quyết các vấn đề toán
học thuần túy, học sinh gặp lúng túng hơn, nhưng kết quả đạt được vẫn còn khả quan.
Tuy nhiên khả năng kết hợp hai loại kiến thức để giải quyết các vấn đề có nội dung thực
tế thực sự còn yếu.
Để khảo sát khả năng áp dụng KTQT và KTKN về hàm số bậc nhất của học sinh trong
việc giải quyết các vấn đề có nội dung thực tế, chúng tôi tiến hành đánh giá lời giải của
học sinh cho Câu 4 của phiếu thăm dò, đối chiếu với 6 bước giải quyết vấn đề của PISA
được trình bày ở phần trước. Để tiện đánh giá, chúng tôi tạm phân chia thang điểm cho
từng bước như sau: Bước 1: 1 điểm; Bước 2, Bước 3 và Bước 4: mỗi bước 2 điểm; Bước
5: 2 điểm; Bước 6: 1 điểm. Kết quả đánh giá về mức độ hoàn thành các bước được
chúng tôi tổng hợp trong Bảng 2 dưới đây.
Bảng 2. Kết quả đánh giá các bước giải quyết vấn đề của PISA đối với Câu 4
Bước 1 2 3 4 5 6
Câu Tỉ lệ phần trăm (%) học sinh hoàn thành theo các bước
4a) 100 96,2 96,2 100 96,2 100
4b) 100 13,9 13,9 84,8 13,9 84,8
4c) 100 87,3 87,3 100 87,3 100
Nhìn vào Bảng 2 ta thấy rằng toàn bộ học sinh đều hiểu được vấn đề, đồng thời, khi các
em giải quyết xong vấn đề (có thể đúng hoặc sai) thì việc giao tiếp lời giải vấn đề luôn
được thực hiện tốt. Khi các em phân tích được và biểu diễn đúng vấn đề thì toàn bộ các
em đều giải quyết được vấn đề, từ đó phản ánh và giao tiếp đúng lời giải của mình. Tuy
nhiên, khi các em phân tích sai hoặc biểu diễn vấn đề không đúng thì dù rằng các em có
thể giải quyết được dựa trên phân tích của mình, phản ánh về lời giải của các em cũng
không chính xác. Tỉ lệ học sinh hoàn thành được 2 bước phân tích và biểu diễn vấn đề
trong Câu 4b) rất thấp. Điều này phản ánh việc áp dụng KTKN về phương trình và đồ
thị của hàm số bậc nhất vào việc giải quyết các vấn đề vẫn còn chưa tốt.
5. KẾT LUẬN
Những phân tích và kết quả khảo sát nêu trên về việc dạy–học KTKN và KTQT về hàm
số bậc nhất cho thấy một thực tế đang tồn tại là học sinh ở trung học cơ sở có thế mạnh
trong việc áp dụng các KTQT, nhưng lúng túng khi vận dụng KTKN, và còn yếu trong
việc kết hợp cả hai loại kiến thức trong việc giải quyết các vấn đề có nội dung thực tế.
Nguyên nhân mấu chốt của vấn đề này, theo chúng tôi, đó là chương trình toán trung học
đã quá chú trọng đến kiến thức quy trình mang tính thuật toán, người dạy và người học
chưa có cơ hội để thực sự quan tâm đúng mức đến tầm quan trọng của sự hiểu biết sâu sắc
ý nghĩa của khái niệm, dẫn đến khó khăn trong việc phân tích, biểu diễn vấn đề thực tế,
đưa vấn đề thực tế về bài toán thuần túy quen thuộc. Mặt khác, các vấn đề có nội dung
KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM VỀ HÀM SỐ BẬC NHẤT 13
thực tế liên quan trực tiếp đến các kiến thức ở trung học cơ sở vẫn chưa được đưa nhiều
vào trong chương trình sách giáo khoa cũng như trong bài giảng của giáo viên.
Vì vậy, để có thể giúp các em học sinh có một kiến thức đủ tốt giải quyết các vấn đề
quen thuộc trong chương trình học tập, cũng như áp dụng tốt kiến thức đã được học để
giải quyết các vấn đề thực tế phù hợp, chúng tôi nghĩ rằng cần có một sự thay đổi triệt
để trong tư duy dạy–học các loại kiến thức, đặt nặng sự hiểu biết sâu về khái niệm, kết
hợp tốt với các quy trình liên quan; đưa thêm vào trong bài giảng cũng như trong sách
giáo khoa hệ thống các bài toán thực tế gắn chặt với từng nội dung kiến thức các em
đang được học. Đồng thời, trang bị cho các em quy trình giải quyết vấn đề nêu trên của
PISA để các em có thể vận dụng một cách chủ động trong quá trình giải quyết các vấn
đề có nội dung thực tế, đáp ứng tốt hơn sự đánh giá của PISA trong thời gian sắp đến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011). Sổ tay PISA dành cho cán bộ quản lý giáo dục và
giáo viên trung học, (Tài liệu lưu hành nội bộ), Hà Nội.
[2] Dubinsky, E. & Harel, G. (1992). The nature of the process conception of
function0. In Harel, G. & Dubinsky, E. (Ed.), The concept of function: Aspects of
epistemology and pedagogy (Vol. 25). Washington: Mathematical Association of
America.
[3] Haapasalo, L. & Kadijevich, D. (2000). Two types of mathematical knowledge and
their relation, Journal for Mathematics Teaching, 21(2), pp. 139-157.
[4] Hiebert, J. & Lefevre, P. (1986). Conceptual and procedural knowledge in
mathematics: An introductory analysis. In Hiebert, J. (Ed.), "Conceptual and
procedural knowledge: The case of mathematics" (pp. 1-27). Hillsdale, NJ: Lawrence
Erlbaum.
[5] OECD (2003). The PISA 2003 assessment framework: Mathematics, reading, science
and problem solving knowledge and skills, Paris: OECD.
[6] Rittle-Johnson, B., Siegler, R. S. & Alibali, M. W. (2001). “Developing conceptual
understanding and procedural skill in mathematics: an iterative process”, Journal of
Educational Psychology, 93, pp. 346–362.
Title: CONCEPTUAL AND PROCEDURAL KNOWLEDGE OF LINEAR FUNCTIONS
TOWARD APPLYING TO SOLVE REALISTIC PROBLEMS IN LOWER SECONDARY
SCHOOL CURRICULUM
Abstract: In this paper we study a theory of conceptual and procedural knowledge which
appeared for the first time in the book of Hiebert and Leferve (1986, [4]). The paper
concentrates on studying these types of knowledge for linear functions, then applying to solve
realistic problems whose content agrees with 15-year-old pupils, using problem solving
processes of OECD/PISA.
Keywords: Procedural knowledge, conceptual knowledge, linear function, OECD/PISA,
problem solving
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36_555_hothiminhphuong_04_ho_thi_minh_phuong_3754_2020258.pdf