4.1. Kết luận
Khảo sát 498 hộ ở 9 thôn thuộc 3 xã Ba Nang, A Bung, A Ngo huyện Đakrông có 48 hộ
nuôi và 291 hộ ở 9 thôn thuộc 3 xã Hướng Linh, Hướng Phòng, Hướng Tân có 22 hộ
nuôi lợn Vân Pa, từ kết quả này cho thấy:
- Quy mô nuôi lợn Vân Pa ở nông hộ là 5,53 ± 0,19 con (Đakrông) và 9,50 ± 0,50
con (Hướng Hoá), số lợn nái là 2,39 ± 0,07 con (Đakrông), 1,09 ± 0,11 con
(Hướng Hoá), số lợn con theo mẹ là 3,41 ± 0,2 con (Đakrông) và 6,54 ± 0,55 con
(Hướng Hoá).
- Ở huyện Đakrông có 43,75% số hộ cho rằng có dịch bệnh xảy ra và ở huyện
Hướng Hoá có 36,36% số hộ cho rằng có xảy ra dịch bệnh ở lợn Vân Pa.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy ở huyện Đakrông 100% hộ nuôi và huyện Hướng
Hoá có đến 90,90% hộ nuôi đều sử dụng lợn Vân Pa để bán chứng tỏ giống lợn
này góp một phần vào giá trị kinh tế cho đồng bào dân tộc.
- Thức ăn mà người dân sử dụng nhiều nhất trong chăn nuôi là thân cây chuối, sắn
củ, thứ đến là môn, rau trồng, cám gạo.
- Hầu hết các hộ nuôi đều sử dụng loại chuồng tạm bợ, rất ít hộ sử dụng loại
chuồng kiên cố, 100% hộ nuôi đều không có hố phân.
7 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình hình chăn nuôi lợn Vân Pa trong nông hộ miền núi tỉnh Quảng Trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 01(13)/2010: tr. 47-53
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI LỢN VÂN PA
TRONG NÔNG HỘ MIỀN NÚI TỈNH QUẢNG TRỊ
NGUYỄN THỊ TƯỜNG VY
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
NGUYỄN ĐỨC HƯNG
Đại học Huế
TRẦN SÁNG TẠO
Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Huế
NGUYỄN VĂN HOÀ - NGUYỄN THỊ KIM CƠ - PHAN THỊ MỸ LỘC,
CHU QUỐC TRUNG - NGUYỄN CÔNG HẬU - HÀ VĂN PHƯỚC,
SV Khoa Sinh, Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Điều tra 48 hộ ở 9 thôn thuộc 3 xã Ba Nang, A Bung, A Ngo
huyện Đakrông và 22 hộ ở 9 thôn thuộc 3 xã Hướng Linh, Hướng Phòng,
Hướng Tân huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị, kết quả cho thấy: Ở huyện
Đakrông quy mô bình quân là 5,53 ± 0,19 con/hộ trong đó lợn nái là 2,39±
0,07, lợn con là 3,41 ± 0,29 con/hộ. Huyện Hướng Hoá quy mô bình quân là
9,50 ± 0,50 con/hộ trong đó lợn nái là 1,09 ± 0,11, lợn con là 6,54 ± 0,55
con/hộ. Dịch bệnh trên địa bàn nghiên cứu có xảy ra tuy nhiên các nông hộ
không tiêm phòng hoặc điều trị. Thức ăn cho lợn được các nông hộ sử dụng
phần lớn là thức ăn thô xanh. Các hộ nuôi lợn đều không có hố phân, chuồng
nuôi hầu hết là tạm bợ, ít hộ sử dụng chuồng kiên cố.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bảo tồn nguồn gen vật nuôi là một vấn đề cấp bách có tính chất toàn cầu. Nó chiếm một
phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường [2]. Ở Việt Nam nhiều giống vật nuôi cổ
truyền quý, có quá trình thích nghi lâu đời với điều kiện khí hậu nước ta đang bị mai
một, lai tạp, thậm chí tuyệt chủng. Sự tuyệt chủng này gần đây xảy ra rất nhanh theo tốc
độ phát triển của kinh tế thị trường và đô thị hóa. Khi nền kinh tế phát triển mạnh, nhu
cầu tiêu dùng các loại thực phẩm có chất lượng cao ngày càng gia tăng đặc biệt là các
loại thực phẩm được chế biến từ các giống bản địa. Giống lợn Vân Pa là một trong
những đối tượng được nuôi chủ yếu của bà con dân tộc Vân Kiều, Pakô ở vùng cao dọc
theo dải Trường Sơn, tập trung ở một số huyện vùng Dakrong, Hướng Hóa (Quảng Trị)
[1]. Với phương thức nuôi thả tự nhiên khâu chăm sóc, phối giống, phòng trừ dịch bệnh
chưa được quan tâm nên năng suất thấp và số lượng ngày càng ít. Nghiên cứu tình hình
chăn nuôi lợn Vân Pa ở các nông hộ miền núi ở hai huyện Đakrông và Hướng Hoá có ý
nghĩa lớn trong việc định hướng phát triển ngành chăn nuôi trên cơ sở tiềm năng sẵn có
của địa phương. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để phát triển hệ thống chăn nuôi ở miền
núi có hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của người dân tộc
thiểu số ở miền núi.
NGUYỄN THỊ TƯỜNG VY và cs.
48
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu
Quy mô, mục đích nuôi, thức ăn sử dụng nuôi lợn, tình hình chuồng trại, tình hình dịch
bệnh và công tác thú y của các hộ đang nuôi lợn Vân Pa
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Ở mỗi huyện, chọn 3 xã đại diện gồm xã Ba Nang, A Bung, A Ngo (huyện Đakrông) và
xã Hướng Linh, Hướng Phòng, Hướng Tân (huyện Hướng Hoá). Ở mỗi xã chọn tất cả
các hộ chăn nuôi để lập danh sách điều tra, khảo sát. Trong quá trình điều tra khảo sát
các hộ chăn nuôi, nhóm nghiên cứu kết hợp phỏng vấn các hộ chăn nuôi lợn Vân Pa ở
hai huyện.
Số liệu thứ cấp được thu thập từ số liệu thống kê, tài liệu đã công bố và báo cáo của các xã.
Số liệu sơ cấp được thu thập từ việc phỏng vấn hộ, phỏng vấn người cung cấp thông tin
và thảo luận nhóm. Các bản hỏi phỏng vấn hộ được chuẩn bị trước và kiểm tra thử trước
khi đi điều tra nghiên cứu.
Tất cả số liệu thu thập được từ nghiên cứu được tổng hợp, quản lý và phân tích bằng
Excel 2007 để tính các tham số thống kê của chỉ tiêu nghiên cứu.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Quy mô chăn nuôi lợn Vân Pa
Trên cơ sở danh sách hộ chăn nuôi đã lập ở mõi xã, nhóm nghiên cứu đã điều tra tình
hình chăn nuôi ở 3 xã của mỗi huyện. Số hộ được khảo sát ở huyện Đakrông là 498 hộ
trong đó có 48 hộ nuôi lợn Vân Pa. Số hộ khảo sát ở huyện Hướng Hoá là 291 hộ trong
đó có 22 hộ nuôi. Kết quả nghiên cứu được trình bày ở bảng 1.
Bảng 1. Quy mô chăn nuôi lợn Vân Pa ở các nông hộ của các xã nghiên cứu ở hai huyện
(ĐVT: con/hộ)
Chỉ tiêu nghiên cứu
Huyện Đakrông (n=48) Huyện Hướng Hoá (n=22)
X ± m CV% X ± m CV%
Quy mô bình quân 5,53 ± 0,19 39,67 9,50 ± 0,50 28,59
Trong
đó
Số lợn nái 2,39 ± 0,07 23,40 1,09 ± 0,11 48,24
Số lợn con 3,41 ± 0,29 70,11 6,54 ± 0,55 39,08
Số liệu ở bảng 1 cho thấy, quy mô bình quân lợn Vân Pa nuôi lợn trong nông hộ khá
cao. Xét về cơ cấu đàn lợn Vân Pa số lợn con được nuôi trong nông hộ từ 3,41 - 6,54
con/hộ, số lợn nái từ 1,09 - 2,39 con/hộ. So sánh về quy mô lợn Vân Pa nuôi ở hai
huyện chúng ta thấy số lợn nuôi bình quân ở huyện Hướng Hoá cao hơn so với các hộ
nuôi ở huyện Đakrông đồng thời số lợn con nuôi trong các nông hộ ở huyện Hướng
Hoá cũng cao hơn so với các nông hộ của huyện Đakrông.
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI LỢN VÂN PA
49
3.2. Thức ăn sử dụng nuôi lợn: Lợn Vân Pa là giống lợn thích nghi với lối sống hoang
dã, được nuôi theo phương thức thả rông, thích nghi với đời sống kiếm ăn trong tự
nhiên. Nguồn thức ăn chủ yếu của lợn là các loại củ quả như sắn, khoai, các loại rễ cây,
rau cỏ dại, chuối mà lợn có thể kiếm được trong rừng ven suối Những năm gần đây
người dân đã bắt đầu sử dụng các loại rau, củ để cho lợn ăn. Kết quả nghiên cứu về tình
hình sử dụng thức ăn của người dân để nuôi lợn được trình bày ở bảng 2.
Bảng 2. Thức ăn sử dụng nuôi lợn Vân Pa ở các hộ của hai huyện
Stt Loại thức ăn
Huyện Đakrông
(n=48)
Huyện Hướng Hoá
(n=22)
Số hộ sử dụng
(hộ) Tỷ lệ (%)
Số hộ sử dụng
(hộ) Tỷ lệ (%)
1 Thân chuối 48 100,00 22 100,00
2 Sắn củ 48 100,00 22 100,00
3 Môn 43 89,58 17 77,27
4 Rau trồng 36 75,00 15 68,18
5 Cám gạo 31 64,58 10 45,45
6 Thức ăn hỗn hợp 0 0 0 0
Qua bảng 2 chúng ta có thể thấy các loại thức ăn mà người dân sử dụng nhiều nhất
trong chăn nuôi lợn là thân cây chuối, môn rừng, sắn củ, rau trồng và cám gạo. Điều
đáng chú ý là không có hộ nào sử dụng thức ăn hỗn hợp để nuôi lợn. Như vậy hấy hầu
hết thức ăn được sử dụng là thức ăn thô xanh, việc sử dụng thức ăn tinh là rất hạn chế.
Điều này ảnh hưởng nhiều đến tốc độ tăng trưởng và khả năng sinh sản của lợn. Có thể
nói nhận thức của người dân đã bắt đầu thay đổi và họ quan tâm ngày càng nhiều hơn
đến chăm sóc nuôi dưỡng lợn. Hướng Hoá và Đakrông là hai huyện vùng cao, điều kiện
khí hậu, thời tiết hết sức khắc nghiệt nên giải quyết thức ăn cho lợn luôn được đặt lên
hàng đầu. Có thể nói, giun đất và các loại côn trùng khác sống trong đất là nguồn
prôtêin của lợn. Lợn thường tự kiếm bằng cách dùng cái mõm dài và khoẻ để đào bới
đất đá và điều này đã trở thành một bản năng sinh tồn của lợn Vân Pa.
3.3. Tình hình chuồng trại: Do tập quán chăn nuôi còn lạc hậu, chủ yếu theo phương
thức thả rông do đó chuồng trại chưa được người dân quan tâm. Kết quả đánh giá về
tình hình chuồng trại được trình bày ở bảng 3.
Bảng 3. Tình hình chuồng trại nuôi lợn Vân Pa của các hộ ở hai huyện
Stt
Loại
chuồng trại
Huyện Đakrông
(n=48)
Huyện Hướng Hoá
(n=22)
Số hộ sử dụng
(hộ) Tỷ lệ (%)
Số hộ sử dụng
(hộ) Tỷ lệ (%)
1 Bán kiên cố 5 10,42 3 13,63
2 Tạm bợ 34 70,83 11 50,00
3 Không có chuồng 9 18,75 8 36,37
4 Sử dụng máng ăn 48 100,00 22 100,00
5 Có hố phân 0 0 0 0
NGUYỄN THỊ TƯỜNG VY và cs.
50
Kết quả ở bảng 3 cho thấy, phần lớn các hộ nuôi lợn đều sử dụng loại chuồng tạm bợ
(Đakrông: 70,83%; Hướng Hoá:50,00%). Chuồng loại này thường được làm sơ sài, gồm
các cây que củi hoặc tre kết hợp với ván mỏng ghép lại với nhau tạo thành trung bình
khoảng 4-5m2. Tỷ lệ hộ sử dụng loại chuồng bán kiên cố còn ít (Đakrông: 10,42%;
Hướng Hoá: 13,63%) những chuồng này chủ yếu do một số chương trình, dự án tài trợ.
Theo kết quả điều tra 18, 75% hộ ở huyện Đakrông và 36,37% hộ ở huyện Hướng Hoá
không có chuồng để nuôi lợn. Lợn được thả tự do ở quanh sân vườn, nương rẫy và vào
rừng để kiếm ăn, tối đến lợn thường tập trung ngủ ở dưới gốc cây quanh nhà hoặc dưới
sàn nhà.
Mặc dù 100% hộ nuôi đều sử dụng máng ăn, nhưng rất đơn giản có thể là can nhựa,
bánh xe tải, nồi hỏng hoặc được đóng từ những cây gỗ nhỏ Máng ăn này vừa làm
máng uống, được đặt trong chuồng, ngoài sân hay giữa nhà. Kết quả điều tra cho thấy
do chăn nuôi theo phương thức thả rông nên 100% hộ nuôi đều không có hố phân, gây ô
nhiễm môi trường và lợn dễ mắc một số bệnh như giun sán, viêm phổi, ho... Điều này
ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của lợn. Ngoài ra, do phân chứa
nhiều mầm bệnh thải ra khắp nơi trong sân, dưới sàn nhà, trong bếp, quanh khu vực trẻ
em sinh hoạt ảnh hưởng đến môi trường sống và sức khoẻ của người dân.
3.4. Mục đích nuôi giống lợn Vân Pa
Mục đích chăn nuôi là một trong những nhân tố ảnh hưởng đền sự phát triển của giống
vật nuôi. Kết quả khảo sát về mục đích chăn nuôi lợn Vân Pa tại vùng nghiên cứu được
trình bày ở bảng 4
Bảng 4. Mục đích nuôi giống lợn Vân Pa của các hộ ở hai huyện
Stt
Chỉ tiêu
nghiên cứu
Huyện Đakrông
(n=48)
Huyện Hướng Hoá
(n=22)
Số hộ (hộ) Tỷ lệ (%) Số hộ (hộ) Tỷ lệ (%)
1 Bán 48 100 20 90,90
2 Sinh sản 40 83,33 18 81,81
3 Giết thịt 21 43,75 16 72,72
4 Mục đích khác 13 27,08 10 45,45
Số liệu ở bảng 4 cho thấy người dân ở hai huyện nuôi lợn Vân Pa trước hết là để bán,
thứ đến là để sinh sản, giết thịt và phục vụ cho mục đích khác. Ở huyện Đakrông 100%
hộ nuôi và huyện Hướng Hoá có đến 90,90% hộ nuôi cho rằng họ nuôi lợn Vân Pa để
bán. Chứng tỏ giống lợn này góp một phần vào giá trị kinh tế cho đồng bào dân tộc.
Phương thức bán của các nông hộ chủ yếu là bán tại nhà, các thương lái từ khắp nơi
trong tỉnh tìm đến các nông hộ để mua. Qua điều tra chúng tôi nhận thấy đồng bào dân
tộc sử dụng hai cách chủ yếu là bán vo (bán cáp cả con), hoặc đo theo vòng cổ, dài thân
và tính theo giá khối lượng. Tuy nhiên, do bị hạn chế về trình độ và thông tin thị trường
nên người dân bị ép giá.
Sau mục đích để bán, các nông hộ cho rằng nuôi để cho sinh sản, duy trì đàn lợn của gia
đình. Ở huyện Đakrông có 83,33% và ở Hướng Hoá có 81,81% số hộ nuôi lợn Vân Pa
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI LỢN VÂN PA
51
để sinh sản. Với phương thức sinh sản tự nhiên không cần sự can thiệp của thú y nên
xảy ra tình trạng lợn con nhảy lợn mẹ, sinh ra đồng huyết và sức sản xuất ngày càng
giảm. Ngoài những mục đích trên lợn Vân Pa còn được đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa
Kô sử dụng trong các dịp cúng tế cầu mùa, cúng nhà mới, ăn tết, cưới hỏi, ma chay
Qua nghiên cứu chúng tôi còn được biết lợn còn là của hồi môn của bố mẹ cho các cặp
vợ chồng mới cưới. Từ đây có thể thấy rằng giống lợn Vân Pa là vật nuôi truyền thống
từ xa xưa của đồng bào dân tộc Vân Kiều, Pa Kô ở Quảng Trị. Với ý nghĩa đó, giống
lợn này cần được bảo tồn và phát triển.
3.5. Dịch bệnh và công tác thú y trong chăn nuôi giống lợn Vân Pa
Do địa bàn ở xa trung tâm thành phố và thị trấn, đi lại quá khó khăn, phạm vi phân bố
rộng và điều kiện kinh tế xã hội còn kém phát triển nên đội ngũ cán bộ thú y cơ sở còn
thiếu. Mỗi xã thông thường chỉ có 1 cán bộ thú y với trình độ sơ cấp hoặc được đào tạo
ngắn hạn. Đa số họ hành nghề không chuyên, thu nhập và phụ cấp thấp nên các cán bộ
thú y cơ sở không nhiệt tình, hoạt động thú y còn nhiều hạn chế. Kết quả nghiên cứu về
dịch bệnh và công tác thú y tại các xã điều tra được trình bày ở bảng 5.
Bảng 5. Tình hình dịch bệnh và công tác thú y ở hai huyện
Stt Chỉ tiêu nghiên cứu
Huyện Đakrông
(n=48)
Huyện Hướng Hoá
(n=22)
Số hộ (hộ) Tỷ lệ (%) Số hộ (hộ) Tỷ lệ (%)
1 Có dịch bệnh 21 43,75 8 36,36
2 Không dịch bệnh 27 56,25 14 63,64
3 Điều trị 0 0 0 0
4 Tiêm phòng 0 0 0 0
Về tình hình dịch bệnh trên địa bàn xảy ra đối với lợn Vân Pa có nhiều ý kiến khác
nhau. Có 56,25% số hộ ở huyện Đakrông và 63,64% hộ ở huyện Hướng Hóa cho rằng
lợn địa phương không hề mắc bệnh giống như các loại bệnh mà lợn ở đồng bằng hay
mắc phải. Điều này chứng tỏ lợn Vân Pa có khả năng đề kháng cao, chống chịu tốt với
các điều kiện bất lợi về thức ăn, khí hậu thời tiết và dịch bệnh.
Ngược lại, có 43,75% số hộ ở huyện Đakrông và 36,36% số hộ ở huyện Hướng Hoá cho
rằng có dịch bệnh xảy ra ở lợn Vân Pa, như bệnh như tiêu chảy, ho, tụ huyết trùng, còi
cọc, bệnh thường mắc đối với lợn con. Nguyên nhân gây ra những bệnh trên đó là do
lợn được thả rông, thường xuyên ăn các loại thức ăn mang mầm bệnh do đó dễ mắc một
số bệnh như giun sán, ỉa chảy. Một trong những nguyên nhân liên quan đến dịch bệnh là
công tác tiêm phòng. Kết quả phỏng vấn cho thấy 100% hộ nuôi đều không tiêm phòng
cho lợn. Khi lợn bị bệnh, các hộ tự điều trị mà không có sự hỗ trợ của cán bộ thú y.
Kiến thức bản địa và kinh nghiệm trong việc điều trị bệnh cho lợn của người dân vô
cùng quan trọng khi mà trên địa bàn không có cơ sở bán thuốc thú y và tay nghề của cán
bộ thú y còn hạn chế.
NGUYỄN THỊ TƯỜNG VY và cs.
52
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Khảo sát 498 hộ ở 9 thôn thuộc 3 xã Ba Nang, A Bung, A Ngo huyện Đakrông có 48 hộ
nuôi và 291 hộ ở 9 thôn thuộc 3 xã Hướng Linh, Hướng Phòng, Hướng Tân có 22 hộ
nuôi lợn Vân Pa, từ kết quả này cho thấy:
- Quy mô nuôi lợn Vân Pa ở nông hộ là 5,53± 0,19 con (Đakrông) và 9,50± 0,50
con (Hướng Hoá), số lợn nái là 2,39± 0,07 con (Đakrông), 1,09± 0,11 con
(Hướng Hoá), số lợn con theo mẹ là 3,41± 0,2 con (Đakrông) và 6,54± 0,55 con
(Hướng Hoá).
- Ở huyện Đakrông có 43,75% số hộ cho rằng có dịch bệnh xảy ra và ở huyện
Hướng Hoá có 36,36% số hộ cho rằng có xảy ra dịch bệnh ở lợn Vân Pa.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy ở huyện Đakrông 100% hộ nuôi và huyện Hướng
Hoá có đến 90,90% hộ nuôi đều sử dụng lợn Vân Pa để bán chứng tỏ giống lợn
này góp một phần vào giá trị kinh tế cho đồng bào dân tộc.
- Thức ăn mà người dân sử dụng nhiều nhất trong chăn nuôi là thân cây chuối, sắn
củ, thứ đến là môn, rau trồng, cám gạo.
- Hầu hết các hộ nuôi đều sử dụng loại chuồng tạm bợ, rất ít hộ sử dụng loại
chuồng kiên cố, 100% hộ nuôi đều không có hố phân.
4.2. Đề nghị
- Các cơ quan chức năng cần có chính sách, phương án hỗ trợ vay vốn, tập huấn kỹ
thuật chăn nuôi cho bà con dân tộc ít người.
- Mở rộng địa bàn nghiên cứu và tập trung vào một số tập quán chế biến sử dụng
lợn của các đồng bào dân tộc ít người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Văn Do (2005). Sinh trưởng phát triển của lợn Vân Pa tại Đakrông, Hướng
Hóa, tỉnh Quảng Trị. Báo cáo tóm tắt đề tài NCKH; Sở Khoa học Công nghệ tỉnh
Quảng Trị.
[2] Lê Viết Ly (1994). Bảo tồn nguồn gen vật nuôi - Một nhiệm vụ cấp bách gìn giữ môi
trường sống. NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 5-8.
[3] Lê Viết Ly (2004). Chuyên khảo Bảo tồn nguồn gen động vật nuôi ở Việt Nam. NXB
Nông nghiệp (tập 1 và 2).
[4] Phạm Khánh Từ (2005). Nghiên cứu đa dạng và bảo tồn vốn gen động vật nuôi bản
địa khu vực Thừa Thiên Huế. Báo cáo tổng kết đề tài cấp Bộ trọng điểm 2004-2005,
57-68.
[5] Trần Sáng Tạo (2007). Tình hình chăn nuôi của Huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị. Kỷ
yếu Hội nghị Khoa học Trường Đại học Nông Lâm Huế.
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI LỢN VÂN PA
53
[6] Nguyễn Thị Tường Vy (2008). Dẫn liệu bước đầu về tình hình chăn nuôi lợn Cỏ tại xã
Húc Nghì, huyện Đakrông, tỉnh Quảng Trị, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, 12(46),
145-148.
Title: RESEARCH ON REAL SITUATION OF VAN PA PIG REARING IN HOUSEHOLDS
IN MOUNTAINOUS AREAS OF QUANG TRI PROVINCE
Abstract: The authors carried out to research 48 households in 3 communes A Bung, A Ngo,
Ba Nang of Dakrong district and 22 households in 3 communes Huong Linh, Huong Phong,
Huong Tan of Huong Hoa district about the Van Pa pig production. The result of the study
showed that the rate of the household raising Van Pa pig in Huong Hoa district was higher than
Dakrong district. The epidemic diseases has happened, however 100% households did not
inoculate or treat. Raising Van Pa pig played an important role contributing to the livelihood of
each family. The household used the main food was the rough green product to rase pigs. Most
of households used temporary pigsty, 100% households had not compost pit.
ThS. NGUYỄN THỊ TƯỜNG VY
Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế.
PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC HƯNG
Đại học Huế.
TS. TRẦN SÁNG TẠO
Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Huế.
NGUYỄN VĂN HOÀ - NGUYỄN THỊ KIM CƠ - PHAN THỊ MỸ LỘC
CHU QUỐC TRUNG - NGUYỄNCÔNG HẬU - HÀ VĂN PHƯỚC
SV Khoa Sinh, Trường Đại học Sư Phạm - Đại học Huế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_tinh_hinh_chan_nuoi_lon_van_pa_trong_nong_ho_mien_n.pdf