Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là qui luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn tơí nền kinh tế. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển.
8 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 4930 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là qui luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. Sự
mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất
lớn tơí nền kinh tế. Sự tổng hoà mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất phát triển kéo theo một quan hệ sản xuất
phát triển.
Nói cách khác Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một nền kinh tế.
Trong sự thay đổi đó, các quá trình kinh tế, xã hội được chuyển sang một chất mới.
Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của
những thời đại kinh tế khác nhau. Mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa
lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Đó cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Do vậy, quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa nó con là quy luật
cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của lịch sử nhân loại bởi vì nó là quy luật của
bản thân phương thức sản xuất. Sự tác động của quy luật này dẫn tới sự thay đổi của
phương thức sản xuất và kéo theo sự thay đôỉ cua toàn bộ đời sống xã hội.
Với những lý do trên, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa hết sức to lớn. Tuy nhiên, việc nắm bắt được quy
luật này không phải là đơn giản, nhận biết được một quan hệ sản xuất có phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay không hoàn toàn phải phụ thuộc
vào thực tiễn của sản xuất và kinh nghiệm bản thân.
Với những chính sách, đường lối và chủ trương đúng đắn, nắm bắt tốt quy luật của đảng
và nhà nước, nền kinh tế, đặc biệt là kinh nhiều thành phần đã phát triển mạnh mẽ, đưa
nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu phát triển thành nước sản xuất nông nghiệp tiên
tiến; góp phần đẩy nhanh nền kinh tế nước nhà đi sang một hướng khác, sánh vai cùng
các nước trong khu vực và trên thế giới.
II- A/ Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
1/ Lực lượng sản xuất:
Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất và kỹ thuật nhất định.
Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên.
Nghĩa là trong quá trình thực hiện sản xuất xã hội con người trinh phục tự nhiên bằng các
sức mạnh hiện thực của mình suức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát
trong khái niệm lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ chinh
phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người
trong quá trình sản xuất tạo nên của cải cho xã hội đảm bảo sự phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và kỹ năng lao động và tư liệu sản xuất.
Trong quá trình sản xuất công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của
cải vật chất thì tư liệu lao động được hoàn thiện nhằm đạt được năng suất lao động cao.
Còn trong tư liệu lao động tức là tất cả các yếu tố vật chất mà con người sử dụng để tác
động vào đối tượng lao động thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất linh hoạt
nhất. Bởi vậy khi công cụ lao động đã đạt đến trình độ tin học hoá được tự động hoá thì
vai trò của nó lại càng quan trọng. Trong mọi thời đại công cụ sản xuất luôn là yếu tố
đông nhất của lực lượng sản xuất.
Chính sự chuyển đổi cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây lên những biến
đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển công cụ lao động là thước
đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Tuy nhiên LêNin viết: “Lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, người lao động” có thể cói yếu tố
quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất chính là con người.
Trong thời đại ngày nay khoa học đã phát triển tới mức trở thành nguyên nhân trực tiếp
của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống nó đã trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp. Nó vừa là ngành sản xuất riêng vừa thâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất đem lại thay đổi về chất cho lực lượng sản xuất.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất nó hoàn toàn có
thể coi là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2/ Khái niệm về quan hệ sản xuất:
Để tiến hành quá trình sản xuất nhất định con người phải có mối quan hệ với nhau. Tổng
thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất. Nói cách khác quan hệ sản xuất là
quan hệ giữa người với người trong sản xuất.
Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay không cũng buộc
phải duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi hoạt động sản xuất cũng như
kết quả lao động những quan hệ sản xuất này mang tính tất yếu. Như vậy quan hệ sản
xuất do con người tạo ra song nó được hình thành một cách khách quan không phụ thuộc
vào ý muốn của bất kỳ ai. Việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là
vấn đề có tính quy luật tất yếu, khách quan của sự vận động xã hội.
Với tính chất là những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của con
người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất của đời sống xã hội. Quan
hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản xuất.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối
với tư liệu sản xuất – Biểu hiện thành chế độ sở hữu. Trong hệ thống các quan hệ
sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trò quyết định đối với các
quan hệ xã hội khác.
Trong các hình thái kinh tế xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử đã được chứng
kiến sự tồn tại của 2 loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và
sở hữu công cộng. Sở hữu công cộng là loại hình mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về
mọi thành viên của cộng đồng.
Do tư liệu sản xuất là tài sản chung của cả cộng đồng nên các quan hệ xã hội trong sản
xuất và trong đời sống xã hội nói chung trở thành quan hệ hợp tác giúp đỡ nhau. Ngược
lại trong các chế độ tư hữu do tư liệu sản xuất chỉ nằm trong tay một số người nên của cải
xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về một số ít người các quan hệ xã hội do vậy bất
bình đẳng.
Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất: Tức là quan hệ giưuã người với
người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải. Trong hệ thống các quan
hệ sản xuất các quan hệ về mặt tổ chức quản lý sản xuất là các quan hệ có khả
năng quyết định một cách quy mô tốc độ hiệu quả và xu hướng mỗi nền sản xuất
cụ thể đi ngược lại các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ
sở hữu ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế xã hội.
Quan hệ phân phối sản xuất sản phẩm tức là quan hệ chặt trẽ với nhau cùng mục
tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu qủa tư liệu sản xuất để làm cho chúng
không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng nâng cao phúc lợi
cho người lao động. Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý,trong hệ thống
quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những
nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ nền kinh tế.
Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản xuất nhưng ngược
lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm hãn sự phát triển của xã hội.
Nêu xét riêng trong phạm vi một quan hệ sản xuất nhất định thì tính chất sở hữu quyết
định tính chất của quản lý và phân phối. Mặt khác trong mỗi hình thái kinh tế xã hội nhất
định quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chi phối các quan hệ sản xuất
khác, ít nhiều cải biến chúng để chẳng những chung không đối lập mà phục vụ đắc lực
cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế xã hội mới.
B/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất:
1/ Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:
a/ Tính chất:
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tu liệu sản xuất và lao động. Khi nền sản
xuất được thực hiện với những công cụ ở trình độ phổ thông, lực lượng sản xuất chủ yếu
mang tính chất cá nhân.
Khi trình độ sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hoá, lực lượng sản xuất đòi hỏi phải được vận
động cho sự hợp tác xã hội rộng rãi trên cơ sở chuyên môn hoá. Tính chất tự cấp tự túc cô
lập của nền sản xuất nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi tính chất xã hội hoá.
b/ Trình độ của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất là yếu tố có tác dụng quyết định đối với sự phát triển của
phương thức sản xuất:
Trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử loài người thể hiện trình
độ chinh phục tự nhiên của loài người trong giai đoạn đó.
Khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thông qua việc
sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự sinh
tồn và phát triển của mình.
Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện ở:
Trình độ công cụ lao động, trình độ quản lý xã hội trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, kinh nghiệm và kỹ năng của con người và trình độ phân công lao động.
Trên thực tế tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất không tách biệt nhau.
B/ Quy luật về quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, sự tác động
lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiên mối quan hệ mang tính
chất biện chứng. Chính sự thống nhất và tác động giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất đã hình thành nên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và
trìng độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi và phát triển. Ngược lại quan hệ sản
xuất thường có tính ổn định trong một thời gian dài.
Sự biến đội của lực lượng sản xuất có nhiều nguyên nhân:
Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm không ngừng tích luỹ
và tăng lên.
Bản thân tri thức khoa học trí thức công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp.
Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể sản xuất được.
Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một giới hạn nhất định sẽ đặt ra
nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ thay nó
bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là diệt vong cả một phương thức sản xuất
lỗi thời và sự ra đời của một phương thức sản xuất mới.
Sự xoá bỏ các hình thức quan hệ sản xuất hiện có không phải là tự thân mà phải thông
qua một phương thức chính trị và pháp quyền mà phương thức pháp quyền là trực tiếp.
Những quan hệ sản xuất cũ và hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm bảo
duy trì khai thác, phát triển của lực lượng sản xuất giờ đây trở thành những hình thức kìm
hãm sự phát triển đó như CácMác đã nhận định “Từ một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất
hiện có trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển.
Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất những quan hệ ấy trở thàng
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc Cách
mạng xã hội”Đó cũng chính là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Thực tiễn cho thấy rằng lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản
xuất hợp lý đồng bộ phù hợp với nó. quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc tiên tiến hơn một
cách giả tạo cũng sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt đòi hỏi phải
giải quyết nhưng còn lực lượng sản xuất người không phát hiện được cũng như mâu
thuẫn được phát hiện mà không giải quyết được hoặc giải quyết một cách sai lầm thì tác
dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản
xuất.
Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta không nên tuyệt đối hoá vai trò của lực lượng sản xuất
mà bỏ qua sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với nó khi giữa chúng có sự phù
hợp. Đôi khi sự phát triển chệch hướng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là do yếu tố chủ quan, chứ không phải
do tính chất đặc thù của quy luật đó.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối
với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ cũng thể hiện
tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng
sản xuất, nó là yếu tố quyết định là tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất
hoạt động, cũng như đảm bảo lợi ích chính đáng cho người lao động phát huy tính tích
cực sáng tạo cho con người là nhân tố quan trọng và quyết định trong lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất vì nó
quyết định mục đích sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội quy
định phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó tạo
ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển của công cụ sản xuất áp
dụng thành tựu khoa học và sản xuất hợp tác phân công lao động.
C/ Sự vận dụng quy luật vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Sự nghiệp đã đổi mới của Việt Nam được bắt đầu ngay từ giữa những năm 80 và được
triển khai mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực từ đó đến nay. Quá trình đổi mới đã đưa lại
nhiều thành tựu to lớn, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều lý luận quan trọng mà việc áp
dụng quy luật quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất vào việc giải quyết chúng một cách đúng đắn sẽ là cơ sở hết sức cần thiết
cho việc tiếp tục hoạch định và đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới, cũng như sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việt Nam đã xây dựng chủ nghĩa xã hội được hơn 30 năm ở miền Bắc và hơn 10 năm
trên phạm vi toàn quốc nếu tính đến thời điểm bắt đầu đổi mới. Ngôi nhà xã hội chủ
nghĩa mà chúng ta muốn xây dựng có thể có nhiều đặc trưng, nhưng có hai đặc trưng chất
lượng quan trọng nhất mà dứt khoát chúng ta phải đặt đến, đó là vừa giàu có hơn, vừa
công bằng hơn so với trong chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội thì nền kinh tế sản xuất của nước ta lại
chậm phát triển, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Sự khó khăn này có thể có
nhiều nguyên nhân, nhưng có lẽ một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là: không
nắm vững quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Nghị quyết Đại hội VIII đã chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm:
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức mạnh tranh chấp. Nhịp độ tăng
trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) nhịp độ tăng giá trị sản xuất nông nghiệp, dịch
vụ, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu… không đạt chỉ tiêu đề ra. Nhìn chung, năng xuất
lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt, giá thành cao.
Nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ
trong cả nước và nước ngoài. Hệ thống tài chính-ngân hàng còn yếi kém và thiếu lành
mạnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, đầu tư còn phân tán,
lãng phí và thất thoát nhiều. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm, công
tác quản lý, điều hành công tác này còn nhiều vướng mắc và thiếu sót.
Quan hệ một số mặt chưa phù hợp. Kinh tế nhà nước chưa được củng cố tương xứng với
vai trò chỉ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể trong việc sắp xếp, đổi mới và phát triển
doanh nghiệp nhà nước.
Một số vấn đề văn hoá-xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết. Tỷ lệ thất nghiệp
ở thành thị và nông thôn còn ở mức cao. Các hoạt động khoa học và công nghệ chưa
được đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.
Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Một số cơ
chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi.
Nhiều cấp, ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy định về quản lý nhà nước không còn
phù hợp, chưa bổ sung những cơ chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ
lực lượng sản xuất.
Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, nhà
nước ta đã không thấy rõ bước đi có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và
xét về thực chất là theo đường lốiđẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản
xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Điều đó có nghĩa là đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Điều đó là hoàn toàn mâu thuẫn với quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. để khắc phục những mâu thuẫn có
thể phát sinh đòi hỏi phải thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi
phù hợp và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Những chính sách mới của đảng và nhà nước đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển
một cách mạnh mẽ.Sự thúc đẩy nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa đã đưa nền kinh tế nước ta sang một bước đi mới. Mọi người được tự do kinh
doanh buôn bán, các doanh nghiệp kinh doanh hợp tác và cạnh tranh với nhau một cách
bình đẳng trước pháp luật…Tất cả đều nhằm vào mục tiêu duy nhất là thúc đẩy nền kinh
tế nước nhà.
Để làm rõ hơn về nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ, chúng ta sẽ đi phân tích nền
sản xuất nông nghiệp trong thời gian này. tại đại hội lần thứ VI, Đảng ta đã nhận
định:"…Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc
hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so
với trình độ của lực lượng sản xuất ( Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI. Nxb sự thật, HN, 1987, tr.57).
Trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội phải kể đến yếu tố chủ quan của việc đảng lãnh
đạo, Nhà nước phát động tính tích cực xã hội của quần chúng bằng những lợi ích vật chất
và tinh thần yêu nước vốn có của họ.
Tuy nhiên, theo nhận định trên của đảng, ta thấy rằng, không thể cho rằng những yếu tố
tiên tiến của quan hệ sản xuất mãi là tiền đề sự thúc đẩy phù hợp giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất. Chúng chỉ tác động tích cực trong một thời gian ngắn và cuối cùng,
vẫn phải tuân thủ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Thực trạng nền sản xuất nông nghiệp của nước ta trong thời gian chuẩn bị vào những
năm đầu bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn đã
làm rõ nhận định trên của đảng.
Tại thời điểm đó nền sản xuất nông nghiệp không ổn định, nhiều nơi, nhiều vùng nông
thôn bị đói kém. Khi đó có người cho rằng, nguyên nhân sản xuất chậm phát triển là do
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mâu thuẫn. Mâu thuẫn đó thể hiện giữa
một bên là yêu cầu phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất theo hướng tất yếu chuyển
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn với một bên là chế độ sở hữu phân tán.
Trong sản xuất nông nghiệp, sự đa dạng của các thành phần kinh tế đã tạo ra cơ chế quản
lý với nhiều hình thức sản xuất nông nghiệp mới phù hợp với những quan điểm đổi mới
không ngừng của Đảng và nhờ đó, tạo ra sự biến đổi mới trong các Hợp tác xã nông
nghiệp trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất. Điều đó càng khẳng định ý nghĩa to lớn của
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào để khẳng định rằng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Trước hết sự phù hợp đó thể hiện ở chỗ, hiệu quả sản
xuất ngày càng cao (năm sau cao hơn năm trước), mặc dù đất bị thiên tai nhiều bề và ít
nhiều chịu ảnh hưởng của tình trạng suy thoái kinh tế trong khu vực và trên thế giới.
Điều quan trọng nữa, khi nói quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất không thể
không nhìn vào đời sống của nông dân, thực tế cho thế qua 15 năm thực hiện đường lối
đổi mới do Đảng đề ra, đời sống của nông dân từng bước được nâng cao, điều kiện nhà ở
và học tập của con em nông dân cũng khá hơn trước.
Như vậy thực trạng nền kinh tế có phát triển không? Lực lượng sản xuất có phát triển
không đó chính là tiêu thức để đánh giá sự phù hợp của quan hệ sản xuất vào tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất. Một quy luật có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
thúc đẩy nền kinh tế của mỗi quốc gia.
1/ Kết luận:
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên không phải bất cứ lúc nào cũng có sự
phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt tốt quy chúng ta có thể áp dụng vào từng trường hợp
cụ thể. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất còn là quy luật
phổ biến trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại.
Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ qua chế
độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản
tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.pdf