Nước là thành phần tự nhiên mà khả năng
khôi phục là phức tạp nhất. Bởi lẽ, môi
trường nước sau khi bị tác động bởi các hoạt
động khai thác khoáng sản thường ô nhiễm
lớn, có tính chất lan tỏa. Để khôi phục được
môi trường nước cần nhiều nhất là về thời
gian, tiếp đó là cần công nghệ. Xây dựng
phương án phòng chống, cảnh báo, dự báo
các nguy cơ làm suy thoái, ô nhiễm, cạn kiệt
nguồn nước ngầm do khai thác quá mức.
Trong khai thác mỏ cũng cần giảm thiểu
lượng nước tiêu thụ và sử dụng năng lượng có ụng nước tối đa. Muốn vậy, các thiết bị sử
dụng trong mỏ phải đảm bảo tiêu hao năng
lượng thấp và thải ít chất thải ra môi trường
xung quanh. Việc chuyển đổi phương pháp
khai thác từ lộ thiên sang hầm lò cũng giảm
thiểu tác động tới môi trường, khắc phục
được tình trạng ô nhiễm nước mặt, nước
ngầm do đất đá thải gây ra. [3]
Không khí: Các thành phần của cảnh quan có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu làm tốt
được khôi phục hệ sinh vật, cải tạo được môi
trường đất đai, địa hình thì khôi phục môi
trường không khí là điều hoàn toàn có thể.
Tuy nhiên, ở mức độ nào đó không khí không
thể trong lành hoàn toàn như trước kia do dư
lượng của các bụi khí, khí độc vẫn tồn tại ở
độ cao nhất định và lơ lửng trong các tầng
không khí. Hạn chế nổ mìn bằng cách dùng
máy xúc có búa phá. Đảm bảo an toàn trong
công tác khoan, nổ mìn. Về lâu dài, trồng cây
xanh che phủ khu vực xung quanh là biện
pháp hữu hiệu nhất để đảm bảo môi trường
xanh – sạch - đẹp.
Đất: Trong kinh nghiệm khôi phục đất ô
nhiễm sau khai thác khoáng sản còn có hình
thức mới là trồng các loại cây cỏ có khả năng
hấp thụ các chất độc hại như dương xỉ, cỏ
mần trầu, cỏ vetiver... Nếu mô hình này được
nhân ra rộng rãi tại nhiều nơi khác của tỉnh sẽ
tạo ra một hướng khôi phục cảnh quan mà
hiệu quả cao, mức chi phí phù hợp với điều
kiện kinh tế của tỉnh. Khi đất đai màu mỡ,
việc phát triển của thực vật tại các rừng trồng
nhanh hơn, góp phần làm giảm thời gian khôi
phục các thành phần của cảnh quan tự nhiên
sau khai thác khoáng sản.
Sinh vật: Tỉnh Thái Nguyên nếu làm tốt được
vấn đề này sẽ góp phần đáng kể cải tạo và
khôi phục cảnh quan tự nhiên. Tuy tỷ lệ che
phủ rừng những năm gần đây cũng đã tăng
lên đáng kể: từ 27% năm 1994, lên 37% năm
1999, năm 2011 là 44,36%, nhưng tài nguyên
rừng và đa dạng sinh học của tỉnh vẫn còn
đang ở mức nghèo. Các giải pháp đưa ra chủ
yếu nhất vẫn là trồng rừng, khôi phục lại cảnh
quan tự nhiên tại các khu vực bị biến đổi do
hoạt động khai thác khoáng sản. Đồng thời
với đó là phải quản lý tốt hệ sinh vật đã khôi
phục để đảm bảo yếu tố bền vững lâu dài.
6 trang |
Chia sẻ: hoant3298 | Lượt xem: 614 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng phục hồi môi trường và cảnh quan tự nhiên sau hoạt động khai thác khoáng sản tại tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 33 - 38
33
KHẢ NĂNG PHỤC HỒI MÔI TRƯỜNG VÀ CẢNH QUAN TỰ NHIÊN
SAU HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC KHOÁNG SẢN TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Hồng*, Nguyễn Thanh Mai
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây, khai thác khoáng sản ở tỉnh Thái Nguyên trở thành vấn đề được nhiều
người quan tâm vì đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường và cảnh quan tự nhiên.
Những tác động xấu này không những ảnh hưởng trong thời gian hiện tại, làm cạn kiệt nguồn tài
nguyên mà còn làm tổn hại tới các thế hệ mai sau. Đây thực sự là vấn đề cấp thiết đòi hỏi đặt ra
những yêu cầu và hành động nhất định đối với chính quyền và nhân dân địa phương. Những
nghiên cứu khôi phục cảnh quan tự nhiên sau khai thác khoáng sản tại tỉnh Thái Nguyên làm sáng
tỏ hiện trạng khai thác, ảnh hưởng của hoạt động khai thác khoáng sản tới môi trường tự nhiên,
dân cư, xã hội và đề xuất một số giải pháp khôi phục cảnh quan tự nhiên sau khai thác khoáng sản
theo hướng phát triển bền vững.
Từ khóa: Khôi phục, cảnh quan, khai thác khoáng sản, tỉnh Thái Nguyên, địa lí.
TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN TỈNH
THÁI NGUYÊN*
Thái Nguyên có tiềm năng lớn về tài nguyên
khoáng sản do cấu tạo địa chất có nhiều yếu
tố thuận lợi cho tạo quặng, nên có thể nói
Thái Nguyên đã được thiên nhiên ưu đãi về
tài nguyên khoáng sản, trong đó có cả những
khoáng sản có giá trị đối với nền kinh tế quốc
dân. Căn cứ vào tài liệu điều tra tìm kiếm
khoáng sản cho thấy, khoáng sản dưới lòng
đất Thái Nguyên rất phong phú và đa dạng,
trong đó:
Nhóm 1: Khoáng sản kim loại gồm có: quặng
sắt (phân bố chủ yếu ở huyện Đồng Hỷ với
trữ lượng nghiên cứu địa chất ở mức độ thăm
dò là 40,9 triệu tấn), vàng sa khoáng (tập
trung ở huyện Đồng Hỷ, Võ Nhai, Phổ Yên
với trữ lượng nhỏ, bị khai thác tự do trái phép
nên hiện đã cạn kiệt), vàng gốc ở Đồng Hỷ,
Đại Từ, Võ Nhai, Phổ Yên chưa được đầu tư
nghiên cứu địa chất, quặng thiếc gốc phân bố
chủ yếu ở Đại Từ với trữ lượng 12.650 tấn,
quặng thiếc sa khoáng trữ lượng còn lại 665
tấn, quặng chì kẽm trữ lượng còn lại nhỏ (mỏ
Làng Hích) là 272.673 tấn, quặng vonfram
phân bố ở huyện Đại Từ với trữ lượng lớn.
*
Tel: 0912.847.549; Email: hongsptndiali@gmail.com
Nhóm 2: Than đá phân chủ yếu ở huyện Đại
Từ và Tây Bắc thành phố Thái Nguyên.
Trong đó, than antraxit có 2 mỏ chính là mỏ
Núi Hồng trữ lượng là 8,34 triệu tấn, mỏ
Khánh Hoà trữ lượng còn lại trên 40 triệu tấn.
Than mỡ có 2 mỏ Bắc Làng Cẩm và Nam
Làng Cẩm, tổng trữ lượng 9,3 triệu tấn, trữ
lượng còn lại khoảng 8 triệu tấn. [4]
Nhóm 3: Khoáng sản là nguyên liệu, vật liệu
xây dựng gồm có: cát, sỏi (Sông Cầu, Sông
Công); đất sét làm gạch ngói, sản xuất cao
lanh, đá vôi làm vật liệu xây dựng trữ lượng
gần 1 tỉ m3 tập trung ở Đồng Hỷ, Võ Nhai,
Định Hoá, Phú Lương; đá hoa làm trang trí ốp
lát ở Võ Nhai có trữ lượng 35 triệu tấn; đá
làm xi măng ở Đồng Hỷ, Võ Nhai có trữ
lượng 185 triệu tấn, đất sét để sản xuất xi
măng có ở Cúc Đường (Võ Nhai), Khe Mo
(Đồng Hỷ) trữ lượng 60,1 triệu tấn. [4]
Nhóm khoáng sản phi kim loại có: barít, pirít,
đôlômít, phôtphorít tập trung ở huyện Đại Từ,
Võ Nhai, Đồng Hỷ. Đáng kể là đôlômít trữ
lượng thăm dò là 109,3 triệu tấn với mỏ ở
Đồng Hỷ, Võ Nhai.
Nhìn chung, khoáng sản tỉnh Thái Nguyên
khá đa dạng về mặt chủng loại, có từ các
khoáng sản kim loại tới các khoáng sản phi
kim loại. Tuy nhiên, các mỏ khoáng sản chủ
38Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 33 - 38
34
yếu là các mỏ nhỏ, phân bố không tập trung.
Đồng thời, các mỏ lại nằm ở những khu vực
đồi núi vừa khó khăn cho việc khai thác vừa
dễ bị rửa trôi, làm xói mòn đất đai... Do đó,
khi khai thác khoáng sản rất cần phải chú ý
tới vấn đề này.
HIỆN TRẠNG KHAI THÁC KHOÁNG
SẢN TỈNH THÁI NGUYÊN
Tại tỉnh Thái Nguyên, hiện nay chủ yếu sử
dụng phương pháp khai thác lộ thiên đối với
các khoáng sản rắn như than, sắt, chì, kẽm,
thiếc, vàng,... Còn phương pháp khai thác hầm
lò rất ít được áp dụng. Phương pháp khoan và
bơm hút khoáng sản áp dụng với các mỏ nước
khoáng song công nghệ còn chưa hiện đại. Ở
nước ngoài công nghệ này đã lạc hậu, vậy Việt
Nam còn đi sau thời đại hơn nhiều.
Có nhiều loại phương tiện khai thác khác
nhau được sử dụng trong hoạt động khai thác
khoáng sản, tùy thuộc vào đặc điểm từng mỏ.
Đối với các khoáng sản rắn, khai thác lộ thiên
chủ yếu sử dụng mìn, các loại máy khoan,
máy xúc để bóc dỡ đất đá. Bên cạnh đó, sử
dụng các loại phương tiện vận tải để vận
chuyển quặng hoặc khoáng sản thô ra nơi chế
biến hoặc tiêu thụ. Riêng với khoáng sản ở
thể lỏng (cụ thể là nước khoáng) cần sử dụng
máy khoan sau đó dùng các thiết bị để bơm
hút vào các bể chứa.
Bên cạnh việc các loại khoáng sản được khai
thác bằng máy móc, các phương tiện hiện đại
được đầu tư bởi các công ty, doanh nghiệp lớn
thì tại nhiều điểm mỏ khoáng sản trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên vẫn có hiện tượng khai thác
khoáng sản trái phép bằng các loại phương tiện
thô sơ như ở mỏ sắt Trại Cau (huyện Đồng Hỷ),
mỏ vàng sa khoáng (xã Thần Sa – huyện Võ
Nhai), mỏ chì/kẽm Làng Hích (xã Tân Long,
huyện Đồng Hỷ), hay như mỏ titan Cây Châm
(huyện Phú Lương)
Trong một năm, phần nhiều các mỏ chỉ khai
thác 6 tháng mùa khô (từ tháng 10 đến tháng
3 năm sau), còn vào mùa mưa các mỏ tiến
hành bóc đất đá, cải tạo tầng bè, trùng đại tu
và bảo dưỡng máy móc thiết bị (trừ các hoạt
động khai thác tự do và không có kiểm soát
của Nhà nước).
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA CẢNH QUAN TỰ
NHIÊN DO HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC
KHOÁNG SẢN
Do địa hình phân hoá phức tạp kết hợp với
điều kiện khí hậu tỉnh Thái Nguyên đã tác
động lớn đến thổ nhưỡng của tỉnh: khi bóc
tách đất đá, khai thác khoáng sản mặt đất bị
xói mòn, rửa trôi mạnh nên tầng đất mỏng,
đất chua, độ phì kém. Nhiều thung lũng được
cấu tạo bởi các lớp đất sét không thấm nước,
ở dưới các lớp đất mới được lắng đọng, làm
nước ngầm dâng cao, xuất hiện những thung
lũng đất lầy thụt, đất chua và khó canh tác.
Đồng thời về mùa mưa nước tràn trên mặt
đất, bóc mòn mặt đất gây xói lở. Nước còn
ngấm xuống sâu làm rửa trôi các chất tầng
mặt. Mùa khô thì tầng mặt bị khô hạn, nước
đưa các ôxít sắt, nhôm lên mặt. Nếu trên mặt
có địa hình bằng phẳng, không có lớp phủ
thực vật, tầng đất ở dưới tầng đất mặt sẽ biến
thành đá ong.
Trong phạm vi các mỏ khai thác lộ thiên,
không chỉ bề mặt địa hình bị biến dạng mà cả
chế độ nước ngầm tại đó cũng bị thay đổi, vì
thế đã xảy ra sự cạn kiệt của các tầng chứa
nước và chế độ cung cấp nước cho các điểm
dân cư cũng bị phá vỡ. Bởi lẽ khi khai thác
mỏ lộ thiên nước sẽ bị rút ra với khối lượng
rất lớn. Bên cạnh đó, quá trình khai thác mỏ
còn gây ô nhiễm nguồn nước mặt và hầu như
không sử dụng được cho sinh hoạt và sản xuất
nông nghiệp.
Nước thải phát sinh từ hoạt động tuyển
khoáng, từ nước tích dưới đáy moong khai
thác có chứa nhiều kim loại, đặc biệt là các
kim loại nặng. Trong quá trình khảo sát điều
tra các cơ sở khai khoáng cho thấy, nước thải
chỉ được xử lý lắng cặn tại các hồ chứa sau đó
tuần hoàn lại quá trình sản xuất. Trong thành
phần nước thải ở nhiều điểm khai thác mỏ có
tính axit, tính kiềm cao, có kim loại nặng và
các chất độc hại. Thành phần độc hại trong
các dòng nước thải gồm có: chất rắn lơ lửng
trong nước, các loại muối hòa tan như SO42-,
NO3-, các kim loại nặng, dầu mỡ và hóa chất
sử dụng trong quá trình khai thác[4]... Nguồn
nước ngầm bị suy thoái, cạn kiệt và hạ thấp
39Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 33 - 38
35
mực nước ngầm do đào moong và khai thác, ô
nhiễm các tầng chứa nước ngọt và thấu kính
nước ngọt. Ví dụ: Tại điểm khai thác vàng
thuộc xã Cây Thị (huyện Đồng Hỷ), đoạn
suối ở khu vực này đã bị biến dạng với những
ụ đất, cát khá cao, cạnh đó là những hố nham
nhở bên bờ suối rộng trên dưới 20m2 và sâu
chừng 4-5m. Việc đào đãi vàng khiến đất
ruộng bị đào xới bừa bãi và muốn sử dụng
được thì phải bỏ nhiều công sức mới khôi
phục được. Suối Hoan, nơi cung cấp nước
tưới cho 1/3 diện tích đất trồng lúa và trồng
chè của xã Cây Thị đang cạn kiệt và biến
dạng nghiêm trọng.
Ngoài ra, biến đổi của môi trường không khí
do các hoạt động khai thác khoáng sản tại tỉnh
Thái Nguyên (chủ yếu là khai thác than) là
tạo ra bụi và các khí độc hại. Bao gồm các
mảnh vụn đá, bụi silic, bụi than. Bụi thường
phát sinh trong quá trình nổ mìn, đào xúc đất
đá, bốc xúc và vận chuyển khoáng sản. Các
khí độc hại gồm các dạng cacbonhyđrô
(mêtan, propan, butan,... ), SiO2, CO2, CO,
NOx, khí trơ và nhiều loại khác. Các khí này
phát sinh từ khối khoáng sản đang khai thác
và vật liệu nổ mìn. [1]
Ảnh hưởng do công tác bốc xúc, vận chuyển
than cũng gây ra những biến đổi không nhỏ
tới không khí. Quá trình hoạt động của các
phương tiện vận tải và các thiết bị bốc xúc đất
đá và than phát sinh ra tiếng ồn, bụi và các
khí độc hại. Khi tổ chức khai thác tại khu vực
khai trường có khoảng 10 xe vận tải 12 tấn
của mỏ chạy trên cung đường 1 – 1,5km và 3
– 4 thiết bị bốc xúc làm việc. Ngoài ra, còn có
một số xe tải của khách hàng vận chuyển than
tới nơi tiêu thụ.
Tại Thái Nguyên, việc khai thác thiếc ở xã Hà
Thượng (huyện Đại Từ) và khai thác chì/kẽm
ở Làng Hích thuộc xã Tân Long (huyện Đồng
Hỷ) đang là những điểm nóng về môi trường
vì trong đất có chứa nhiều asen và cađimi là
những kim loại nguy hại tới môi trường và
sức khoẻ con người. [3]
Kết quả phân tích mẫu đất tại mỏ than Núi
Hồng cho thấy: Hàm lượng asen trong đất từ
202-3.690 ppm (1ppm = 1 phần triệu), gấp
17-308 lần Tiêu chuẩn Việt Nam, có nơi lên
tới 15.146 ppm. Mỏ chì/kẽm Làng Hích cũng
có hàm lượng chì và kẽm tương ứng là 13.028
ppm và 9.863ppm, gấp 186 lần Tiêu chuẩn
Việt Nam đối với chì và 49 lần đối với kẽm.
Mỏ titan Hà Thượng cũng ô nhiễm asen
nghiêm trọng, có nơi hàm lượng asen trong
đất lên đến 14.146ppm, gấp 1.262 lần Tiêu
chuẩn Việt Nam[4]
Mặc dù trước đây Thái Nguyên có diện tích
che phủ rừng tự nhiên tương đối lớn. Tuy
nhiên, hiện nay diện tích rừng chỉ đạt 44,36%
(2011) và chủ yếu là rừng thứ sinh. Từ những
tài liệu lịch sử và các dấu tích còn lại, có thể
thấy phần lớn diện tích đồi núi của tỉnh Thái
Nguyên trước đây là những thảm rừng dày.
Nhưng do khai thác sử dụng không hợp lý,
lớp phủ thực vật ở tỉnh Thái Nguyên đã suy
giảm cả về diện tích và sinh khối. Điều này
gây ảnh hưởng xấu đến tài nguyên sinh vật,
suy thoái môi trường và tác động tiêu cực đến
khả năng phát triển KT - XH của tỉnh. Sự suy
giảm đa dạng sinh học thể hiện rõ ở sự tuyệt
chủng một số loài, suy giảm cá thể ở nhiều
loài khác, trong đó có nhiều loài quý hiếm.
Hiện nay với việc tích cực thực hiện các
chương trình trồng rừng, phần lớn diện tích
đất rừng ở các huyện trong tỉnh đã được che
phủ bởi các loài cây ngoại lai: bạch đàn, keo,
tràm bông vàng. Tuy nhiên đa dạng sinh học
ở các rừng trong này rất thấp, giá trị về môi
trường kém xa so với rừng tự nhiên trước đây.
KHẢ NĂNG KHÔI PHỤC CẢNH QUAN
TỰ NHIÊN
Trên lý thuyết, môi trường và cảnh quan tự
nhiên có khả năng tự phục hồi. Tuy nhiên,
chúng ta cần nhận thức rõ ràng rằng, việc
khôi phục đó chỉ mang tính chất tương đối.
Sau khi đã tác động gây biến đổi cảnh quan,
tức là không chỉ tác động vào một thành phần
nhất định nào đó mà là toàn bộ cảnh quan nói
chung, tức là toàn bộ các thành phần tự nhiên.
Vì thế, khôi phục không bao giờ trở về được
trạng thái ban đầu. Tùy vào mức độ suy thoái
sẽ có thời gian khôi phục khác nhau. [2]
40Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 33 - 38
36
Như vậy, mức độ suy thoái có mối quan hệ
chặt chẽ với thời gian khôi phục cảnh quan.
Mức độ suy thoái càng lớn, thời gian khôi
phục càng lâu và cảnh quan khó trở lại trạng
thái ban đầu. Việc khôi phục cảnh quan sau
khai thác khoáng sản là vấn đề cấp bách, đòi
hỏi cần phải làm ngay khi vẫn còn đang trong
quá trình khai thác.
Cảnh quan đồi núi là một hệ thống, các thành
phần của hệ thống là địa hình, khí hậu, thổ
nhưỡng, thuỷ văn, sinh vật. Giữa các thành
phần có mối liên hệ qua lại với nhau rất mật
thiết tạo nên tính hoàn chỉnh của cảnh quan.
Thực tế cho thấy khi ta tác động vào một hay
nhiều thành phần sẽ làm biến đổi các thành
phần còn lại và làm ảnh hưởng tới trật tự của
hệ thống. Đồng thời, bản thân sự thay đổi của
các thành phần đó lại tác động tới môi trường
bao quanh chúng.
Thực tế ở mỏ than Núi Hồng (thuộc địa phận
huyện Đại Từ) đã tiến hành hoàn nguyên môi
trường trả lại ruộng cho dân sau khai thác để
tái canh tác. Song song với công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng mở rộng khai
trường sản xuất, công tác môi trường khai
thác mỏ cũng được chú trọng như xử lý bụi
phát sinh trong quá trình sản xuất xử lý nước
thải và thu hồi các chất thải rắn nguy hại
trong quá trình sửa chữa thiết bị. Công tác
phục hồi cải tạo đất sau khai thác than tại Núi
Hồng đã tạo điều kiện thuận lợi giải quyết
việc làm và ổn định đời sống cho các hộ dân
đia phương trong diện bồi thường.
Trước thực trạng mỏ than Khánh Hoà (xã Sơn
Cẩm, huyện Phú Lương) ngày càng gặp nhiều
khó khăn về vấn đề xử lý đất đá thải trong
quá trình khai thác than đồng thời nhằm tận
dụng nguồn đá vôi nguyên liệu, nhà máy xi
măng Quán Triều đã được xây dựng với công
suất 820.000 tấn/năm nhằm mục đích giúp
hạn chế tối đa ảnh hưởng của đất đá thải do
quá trình khai thác than ở mỏ than Khánh Hoà
tạo ra. Đây cũng là một kinh nghiệm xử lý
chất thải và bảo vệ môi trường khá hiệu quả
để khai thác khoáng sản theo hướng phát triển
bền vững.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm khôi phục căn bản
nhất là trong quá trình khai thác cần phải áp
dụng những quy trình, công nghệ mới nhằm
hạn chế phát sinh khí độc, bụi ra môi trường
xung quanh, trồng thật nhiều cây xanh để làm
giảm lượng bụi gây ô nhiễm không khí.
Địa hình tỉnh Thái Nguyên là dạng địa hình
đồi núi thấp, về mùa mưa rất dễ bị xói mòn và
rửa trôi, vì thế, cần quan tâm đến lớp phủ thực
vật có tác dụng ngăn chặn, làm giảm bớt sự
rửa trôi của lớp đất bề mặt. Khi lớp phủ thực
vật còn thì đất khó bị xói mòn do rễ thực vật
có tác dụng điều hoà lượng nước có trong đất
và giữ đất, còn đã mất lớp phủ thực vật thì tốc
độ đó diễn ra nhanh hơn. Trong việc sử dụng
tài nguyên, bên cạnh việc khai thác phải chú ý
tới trồng rừng để làm giảm tối thiểu mất lớp
phủ thực vật. Bởi lẽ, nó không chỉ làm mất
đất mà còn ảnh hưởng tới cả hệ thống sông
ngòi, chế độ thuỷ văn sẽ trở nên khắc nghiệt
hơn. Đồng thời, khí hậu cũng có những thay
đổi theo chiều hướng bất lợi, ảnh hưởng tới
cây trồng vật nuôi, có nghĩa là tác động gián
tiếp tới sự phát triển kinh tế.
Trong quy hoạch khai thác khoáng sản cần
phải làm theo đường vành đai, cùng với đó là
không nên tiến hành san lấp tự do. Bởi khi lấy
đất ở chỗ này mang sang nơi khác hoặc lấp đi
các ao hồ, sông ngòi sẽ làm ảnh hưởng tới
tổng thể tự nhiên chung ở khu vực đó. Vì vậy,
trong các hoạt động khai thác cần phải có quy
hoạch cụ thể, có các giải pháp tổng thể, đồng
bộ, kết hợp chặt chẽ giữa các giải pháp kỹ
thuật và chiến lược lâu dài. Và nhất là cần
phải có quy hoạch khoa học, hợp lý. [2]
Nước là thành phần tự nhiên mà khả năng
khôi phục là phức tạp nhất. Bởi lẽ, môi
trường nước sau khi bị tác động bởi các hoạt
động khai thác khoáng sản thường ô nhiễm
lớn, có tính chất lan tỏa. Để khôi phục được
môi trường nước cần nhiều nhất là về thời
gian, tiếp đó là cần công nghệ. Xây dựng
phương án phòng chống, cảnh báo, dự báo
các nguy cơ làm suy thoái, ô nhiễm, cạn kiệt
nguồn nước ngầm do khai thác quá mức.
Trong khai thác mỏ cũng cần giảm thiểu
lượng nước tiêu thụ và sử dụng năng lượng có
41Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 33 - 38
37
hiệu quả, đồng thời áp dụng công nghệ tái sử
dụng nước tối đa. Muốn vậy, các thiết bị sử
dụng trong mỏ phải đảm bảo tiêu hao năng
lượng thấp và thải ít chất thải ra môi trường
xung quanh. Việc chuyển đổi phương pháp
khai thác từ lộ thiên sang hầm lò cũng giảm
thiểu tác động tới môi trường, khắc phục
được tình trạng ô nhiễm nước mặt, nước
ngầm do đất đá thải gây ra. [3]
Không khí: Các thành phần của cảnh quan có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu làm tốt
được khôi phục hệ sinh vật, cải tạo được môi
trường đất đai, địa hình thì khôi phục môi
trường không khí là điều hoàn toàn có thể.
Tuy nhiên, ở mức độ nào đó không khí không
thể trong lành hoàn toàn như trước kia do dư
lượng của các bụi khí, khí độc vẫn tồn tại ở
độ cao nhất định và lơ lửng trong các tầng
không khí. Hạn chế nổ mìn bằng cách dùng
máy xúc có búa phá. Đảm bảo an toàn trong
công tác khoan, nổ mìn. Về lâu dài, trồng cây
xanh che phủ khu vực xung quanh là biện
pháp hữu hiệu nhất để đảm bảo môi trường
xanh – sạch - đẹp.
Đất: Trong kinh nghiệm khôi phục đất ô
nhiễm sau khai thác khoáng sản còn có hình
thức mới là trồng các loại cây cỏ có khả năng
hấp thụ các chất độc hại như dương xỉ, cỏ
mần trầu, cỏ vetiver... Nếu mô hình này được
nhân ra rộng rãi tại nhiều nơi khác của tỉnh sẽ
tạo ra một hướng khôi phục cảnh quan mà
hiệu quả cao, mức chi phí phù hợp với điều
kiện kinh tế của tỉnh. Khi đất đai màu mỡ,
việc phát triển của thực vật tại các rừng trồng
nhanh hơn, góp phần làm giảm thời gian khôi
phục các thành phần của cảnh quan tự nhiên
sau khai thác khoáng sản.
Sinh vật: Tỉnh Thái Nguyên nếu làm tốt được
vấn đề này sẽ góp phần đáng kể cải tạo và
khôi phục cảnh quan tự nhiên. Tuy tỷ lệ che
phủ rừng những năm gần đây cũng đã tăng
lên đáng kể: từ 27% năm 1994, lên 37% năm
1999, năm 2011 là 44,36%, nhưng tài nguyên
rừng và đa dạng sinh học của tỉnh vẫn còn
đang ở mức nghèo. Các giải pháp đưa ra chủ
yếu nhất vẫn là trồng rừng, khôi phục lại cảnh
quan tự nhiên tại các khu vực bị biến đổi do
hoạt động khai thác khoáng sản. Đồng thời
với đó là phải quản lý tốt hệ sinh vật đã khôi
phục để đảm bảo yếu tố bền vững lâu dài.
KẾT LUẬN
Vấn đề khôi phục cảnh quan tự nhiên sau khai
thác khoáng sản tại tỉnh Thái Nguyên là cầp
thiết, phải tiến hành ngay khi các mỏ vẫn còn
trong thời gian hoạt động. Cảnh quan tự nhiên
mới có khả năng khôi phục được. Mặc dù
cảnh quan đã bị khai thác thì không thể trở về
hiện trạng ban đầu.
Cùng với các giải pháp khôi phục cảnh quan
ngay sau khi khai thác, các doanh nghiệp khai
thác, chế biến khoáng sản cần chủ động đổi
mới công nghệ, hướng tới công nghệ sạch,
tiết kiệm tài nguyên với một đội ngũ cán bộ
quản lý, kỹ thuật lành nghề để phát triển bền
vững. Các ngành hữu trách cần hoàn thiện các
khung chính sách và pháp luật bảo vệ tài
nguyên, triển khai hiệu quả chương trình
“Phục hồi môi trường ở các vùng khai thác
khoáng sản”, đánh giá tổng thể tác động môi
trường trong hoạt động khai thác khoáng sản
để từ đó đề ra cơ chế, chính sách phù hợp,
xây dựng hệ thống thanh tra khoáng sản có
hiệu lực. Đặc biệt, chính quyền địa phương
nên thành lập các trung tâm khôi phục cảnh
quan tự nhiên sau khai thác khoáng sản, ngoài
nguồn ngân sách nhà nước song cũng có thể
kêu gọi đầu tư nước ngoài, từ các tổ chức phi
chính phủ và thuế môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Báo cáo đánh giá tác động môi trường – Dự
án mở rộng khai thác mỏ than Bá Sơn tại xã Sơn
Cẩm – huyện Phú Lương – Tỉnh Thái Nguyên –
Công ty cổ phần xây dựng và khai thác than Thái
Nguyên, 2004.
[2] Cảnh quan học ứng dụng. A.G.Ixatxenko
(Người dịch Đào Trọng Năng), Nxb Khoa học và
Kỹ thuật, Hà Nội, 1975.
[3] Dự án cải tạo môi trường của các mỏ khoáng
sản ở tỉnh Thái Nguyên. Chi cục bảo vệ môi
trường tỉnh Thái Nguyên, 2010.
[4] Đề tài nghiên cứu khoa học “Tìm hiểu khả
năng khôi phục cảnh quan tự nhiên sau khai thác
khoáng sản theo hướng phát triển bền vững tại
tỉnh Thái Nguyên”, PGS.TS Nguyễn Thị Hồng,
Nguyễn Thanh Mai, 2011.
42Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Thị Hồng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 33 - 38
38
SUMMARY
POSSIBLE RECOVERY ENVIRONMENT AND NATURAL LANDSCAPE
AFTER MINING ACTIVITIES IN THAI NGUYEN PROVINCE
Nguyen Thi Hong*, Nguyen Thanh Mai
College of Education – TNU
In recent years, mining activities in Thai Nguyen province become more interested. because this
job has caused negative impacts on the environment and natural landscape. These negative impacts
do not only influence the current time, exhausted national resources but also compromising the
needs of future generations. This is really a urgent matter requires to set out certain requirements
and actions for local government and the people. Restore landscape studies after mining in Thai
Nguyen province found mining present situation to nature, population, society and put forth
solutions to recover natural landscape after mining issue on sustainable development.
Key words: recover, landscape, mining activities, Thai Nguyen province, geography.
Ngày nhận bài: 24/01/2013; Ngày phản biện: 29/01/2013; Ngày duyệt đăng: 06/6/2013
*
Tel: 0912.847.549; Email: hongsptndiali@gmail.com
43Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_38831_42376_49201315375033_9868_2052007.pdf