I. KHÁI QUÁT QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ VẬT CHẤT
* Chủ nghĩa duy tâm: Coi ý thức (tinh thần ) là có trước, quyết định. Coi vật chất (giới tự nhiên) là có sau, bị quyết định. Quan điểm này bị thực tiễn bác bỏ.
* Chủ nghĩa duy vật trước Mác: Cho rằng vật chất( giới tự nhiên) là có trước, là quyết định, còn ý thức (tinh thần) có sau, bị quyết định. Quan điểm này phù hợp với thực tiễn, tuy nhiên khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà duy vật trước mác lại có những quan điểm khác nhau.
- Một là: Quan niệm của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại thì đồng nhất vật chất với những sự vật hiện tượng cụ thể như nước, lửa, không khí, nguyên tử coi đó là cái đầu tiên mà từ đó sinh ra mọi cái còn lại. Quan niệm này mang nặng tính trực quan, ngây thơ, ấu trĩ và chưa khoa học nên đã bị khoa học bác bỏ.
- Hai là: Quan niệm của chủ nghĩa siêu hình thế kỷ XVII, XVIII quy vật chất về các thuộc tính của vật như là khối lương, quảng tính, hay là kết cấu nguyên tử. Quan niệm này đã có tính khoa học tuy nhiên nó còn mang nặng tính siêu hình cơ giới, máy móc. Do đó những quan niệm này cuối cùng cũng bị khoa học bác bỏ. Từ đó đặt ra nhu cầu phải có một quan niệm mới về vật chất. Lênin là người đầu tiên đưa ra được quan điểm này.
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2593 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hướng dẫn ôn thi cao học môn triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những thuộc tính cơ bản mới quy định chất cho sự vật và thuộc tính cơ bản cho Chất này có khi lại là không cơ bản đối với Chất khác. (thuộc tính cơ bản thay đổi thì Chất thay đổi: ví dụ cái cốc thủy tinh có những thuộc tính làm bằng thủy tinh, trong suốt, đáy lành, không thủng, miệng không ghồ ghề, không sứt mẻ => cái cốc có Chất: đựng nước; có thể làm cái chặn giấy: thuộc tính cơ bản là nó nặng; có thể úp đựng các con vật
Chất của sự vật là khách quan, tuy nhiên nó không thể tồn tại bên ngoài sự vật mà phải tồn tại thông qua sự vật mang nó và một sự vật có vô vàn Chất.
b. Phạm trù Lượng:
Định nghĩa: Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có về mặt số lượng, khối lượng, kích thước, quy mô, nhịp điệu... của quá trình vận động phát triển của các sự vật hiện tượng, cũng như của các yếu tố tạo nên chúng.
Như vậy khái niệm Lượng trả lời cho câu hỏi: Sự vật ấy như thế nào (lớn – bé, cao – thấp...).
Để xác định Lượng cho sự vật người ta thường sử dụng 2 loại chỉ số: con số và đại lượng. Có những Lượng được xác định bằng con số chính xác, nhưng có những Lượng chỉ xác định được bằng một đại lượng tương đối (trên đầu ta có rất nhiều tóc – không thể đếm cụ thể là bao nhiêu; cô ta rất đẹp; bà ấy rất ghen...).
Lượng cũng có tính khách quan và sự phân biệt giữa Chất và Lượng cũng chỉ là tương đối vì cùng một cái xét trong quan hệ này có thể là Chất, nhưng xét trong một quan hệ khác lại là Lượng. Ví dụ: xét con số 16 có nhiều cách xác định khác nhau: tích của 2 và 8, bình phương của 4, tứ thừa của 2, 16 tổng khác nhau...
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất: (diễn biến của quy luật)
- Chất và Lượng luôn luôn gắn liền với nhau, không tách rời nhau bởi vì mỗi sự vật hiện tượng đều phải phải có tính quy định về Chất lại vừa vừa có tính quy định về Lượng, nên không có Chất thiếu Lượng và ngược lại.
- Lượng có xu hướng biến đổi liên tục, nó được tích lũy dần dần. Còn Chất có xu hướng ổn định, ít thay đổi. Do đó không phải mọi sự thay đổi về Lượng đều làm cho Chất thay đổi. Khi Lượng biến đổi trong một giới hạn nhất định nào đó thì Chất của sự vật về cơ bản vẫn giữ nguyên. Giới hạn đó gọi là độ. Ví dụ: nước ở điều kiện thường ở 00C ->1000C nó là chất lỏng (trạng thái lỏng)... (có có độ cụ thể, có độ tương đối) Như vậy độ là như là một khoảng giới hạn mà trong đó những thay đổi về Lượng chưa dẫn đến những biến đổi căn bản về Chất.
- Trong quá trình phát triển của sự vật thì Lượng phát triển trước. Sự tích lũy dần dần về lượng đến một lúc nào đó sẽ vượt quá độ cho phép, khi đó chất của sự vật sẽ thay đổi theo. Như vậy phải có sự tích lũy đủ về Lượng thì mới dẫn đến sự biến đổi về Chất. Điểm giới hạn mà tại đó diễn ra sự biến đổi về Chất của sự vật được gọi là điểm nút.
- Khi Lượng biến đổi đạt đến đến điểm nút thì quá trình biến đổi về chất sẽ diễn ra, nhưng không diễn ra tức thời, mà nó được thực hiện thông qua một giai đoạn được gọi là bước nhảy. Bước nhảy là giai đoạn biến đổi Chất của sự vật do những thay đổi về Lượng của chất đó gây nên. Các bước nhảy diễn ra theo những quy mô và nhịp điệu khác nhau.
+ Theo quy mô: thì có bước nhảy cục bộ (quy mô nhỏ), bước nhảy toàn bộ (bước nhảy quy mô lớn).
+ Theo nhịp điệu: có bước nhảy đột biến (bùng nổ - diễn ra nhanh. Ví dụ phản ứng Hóa học...), bước nhảy dần dần (thời gian tương đối dài, diễn ra rất chậm. Ví dụ hạt thóc nảy mầm, trứng nở thành gà, cải cách xã hội, thực hiện một cuộc cách mạng, sự tiến hóa của loài người).
- Sau khi chất mới ra đời thay thế cho chất cũ thì nó sẽ tác động trở lại sẽ làm cho Lượng thay đổi theo. Bởi vì tương ứng với chất mới phải là một lượng mới, lượng nãy sẽ biến đổi với một quy mô, một tốc độ mới (quá trình học tập của trẻ từ tiểu học đến bậc cao hơn). Đây là nói sự tác động trở lại của Chất đối với Lượng. Như vậy cứ mỗi khi Chất thay đổi thì nó đòi hỏi Lượng cũng phải thay đổi theo.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật Lượng – Chất:
- Phải có sự tích lũy đủ về lượng thì mới dẫn đến sự biến đổi về chất. Do đó chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng tả khuynh, tức là tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nóng vội khi chưa có sự chuẩn bị về Lượng đã muốn làm thay đổi về Chất (theo xu hướng này không thể thành công được, trái quy luật, mang tính duy tâm, duy ý chí).
- Khi Lượng đã tích lũy đủ thì phải có quyết tâm thực hiện bước nhảy, do đó cũng phải đấu tranh để khắc phục tư tưởng hữu khuynh, tức là tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, trông chờ vào thực tế, bằng lòng với sự tích lũy thuần túy về Lượng mà không chịu tác động để làm thay đổi về Chất.
- Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy khác nhau, biết kết hợp bước nhảy cục bộ với bước nhảy toàn bộ, bước nhảy đột biến với bước nhảy dần dần.
QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
Quy luật này được coi là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, bởi vì nó nghiên cứu về nguồn gốc chung của quá trình vận động và phát triển đó chính là mâu thuẫn.
1. Các khái niệm cơ bản của quy luật:
- Khái niệm mặt đối lập: Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong hiện thực. VD: trong một nguyên tử có điện tích âm >< bảo thủ. Các mặt đối lập này phải có liên hệ với nhau, nếu tách rời nhau thì chúng không còn là mặt đối lập (xét trong một chỉnh thể).
- Khái niệm sự thống nhất giữa các mặt đối lập: là tính quy định ràng buộc lẫn nhau, nương tựa vào nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau giữa các mặt đối lập. Dó đó nếu không có mặt đối lập này thì cũng sẽ không có mặt đối lập kia và ngược lại. Sự thống nhất này còn nói lên sự đồng nhất giữa chúng: có nghĩa là giữa chúng có điểm giống nhau, nên khi biến đổi thì chúng có thể hóa vào nhau.
- Khái niệm sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: đó là sự tương tác qua lại theo xu hướng phủ định, bài trừ nhau của các mặt đối lập.
- Khái niệm mâu thuẫn: mâu thuẫn là sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Như vậy mỗi một mâu thuẫn cũng phải bao gồm hai mặt đối lập, hai mặt này vừa thống nhất với nhau đồng thời hai mặt đó đấu tranh qua lại với nhau.
2. Mâu thuẫn là nguồn gốc chung của sự phát triển: (diễn biến của quy luật mâu thuẫn)
- Mâu thuẫn trước hết là một hiện tượng khách quan và phổ biến, bởi vì trong mọi sự vật hiện tượng đều có chứa đựng các mặt đối lập, những mặt này tương tác qua lại lẫn nhau, từ đó tạo ra các mâu thuẫn, nên những mâu thuẫn ấy tồn tại khách quan trong sự vật, không phụ thuộc ý thức con người, đồng thời nó là một hiện tượng phổ biến của tự nhiên, xã hội và trong tư duy. Do đó nếu có một mâu thuẫn nào đó trong sự vật được giải quyết mất đi, thì tất yêu lại nảy sinh những mâu thuẫn mới thay thế làm cho sự vật không lúc nào là không chứa đựng mâu thuẫn.
- Khi một sự vật nào đó đang tồn tại một cách ổn định nó vẫn còn là nó, nó chưa chuyển hóa thành một cái khác thì trong lòng nó các mặt đối lập là đang thống nhất với nhau, nên sự thống nhất giữa các mặt đối lập là nhân tố quy định tính ổn định tương đối của các sự vật. Tuy vậy, sự thống nhất này chỉ là tạm thời, tương đối (chỉ trong giới hạn nào đó).
- Trong sự vật các mặt đối lập đồng thời đấu tranh qua lại với nhau, nhờ cuộc đấu tranh này mà sự vật dần dần biến đổi phát triển. Do đó, đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là nguồn gốc đích thực của sự phát triển và đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là vĩnh viễn, tuyệt đối.
- Thông qua đấu tranh giữa các mặt đối lập, làm cho các mặt đối lập ấy chuyển hóa vào nhau, nhờ đó mâu thuẫn được giải quyết làm cho cái cũ mất đi, cái mới ra đời thay thế. Trong cái mới lại dẫn dần hình thành những mâu thuẫn mới, lúc đầu chỉ là sự khác biệt giữa các mặt, sau đó chuyển thành đối lập để tạo nên mâu thuẫn. Sau khi hình thành thì mâu thuẫn sẽ phát triển và đến một lúc nào đó lại đòi hỏi phải được giải quyết. Mỗi sự vật có thể đồng thời tham gia vào nhiều loại mâu thuẫn khác nhau:
+ Mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài: trong đó mâu thuẫn bên trong đóng vai trò quyết định.
+ Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: mâu thuẫn cơ bản quy định bản chất;
+ Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu: mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết ngay.
+ Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng: mâu thuẫn đối khảng phải được giải quyết bằng con đường bạo lực.
3. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật:
- Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức mâu thuẫn của sự vật: đó là thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, phát hiện kịp thời mâu thuẫn, xuất phát từ bản thân sự vật để tìm ra mâu thuẫn của nó, phải xem xét phân tích một cách chi tiết cụ thể...
- Phải nắm vững phương pháp giải quyết mẫu thuẫn đó là thông qua đấu tranh giữa các mặt đối lập chứ không được phép dung hòa các mặt đối lập, tuy nhiên phải vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh.
- Phải biết vận dung linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thông qua hình thức chuyển hóa mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa (đồng hóa) vào mặt còn lại (chuyển hóa giai cấp tư sản thành giai cấp vô sản), hoặc mặt này thủ tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa sang những hình mới của mình (VD: giải quyết mâu thuẫn giữa nông thôn và thành thị: cải tạo nông thôn thành nông thôn mới, làm ranh giới, sự khác biệt giảm dần)
Sáng thứ 7, ngày 22 tháng 01 năm 2011
QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
Quy luật này nghiên cứu về khuynh hướng chung của quá trình phát triển, đó là một đường xoáy trôn ốc (phát triển không đi theo con đường thẳng đứng)
1. Khái niệm phủ định biện chứng:
Khái niệm phủ định nói chung nói lên sự thay thế một sự vật, hiện tượng này bằng một sự vật hiện tượng khác trong quá trình vận động, phát triển. Sự phủ định có thể diễn ra theo 2 khuynh hướng khác nhau là phủ định sạch trơn và phủ định biện chứng. Phủ định sạch trơn là sự phủ định được gán ghép từ bên ngoài sự vật làm cho sự vật ấy bị tiêu vong cho nên không còn khả năng phát triển tiếp (cái cây bị chặt => không còn khả năng sinh trưởng); Phủ định biện chứng là sự phủ định có tạo ra những tiền đề cần thiết cho quá trình phát triển tiếp theo của sự vật (Hạt thóc nảy mầm=> Lúa)
Phủ định biện chứng phải có đủ 2 đặc trưng cơ bản sau:
- Tính khách quan: Đây là kết quả của việc giải quyết các >< nọi tại bên trong cho nên nó diễn ra một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người và là một khâu tất yếu của quá trình phát triển. Cho nên Mác khẳng định: Ko có một sự vật nào trong hiện thực lại có thể phát triển được nếu như nó không biết tự phủ định đi những hình thức tồn tại trước đó của mình.
- Tính kế thừa: Trong quá trình phủ định biện chứng cái cũ bị phủ định nhưng không mất đi hoàn toàn bởi vì có nhiều yếu tố của nó vẫn tiếp tục được kế thừa trong lòng cái mới. Cho nên sự kế thừa phải đảm bảo tính chọn lọc, tức là phải biết kế thừa cái tích cực, cái tiến bộ, cái hợp quy luật đồng thời kiên quyết loại bỏ cái cũ, cái lỗi thời, lạc hậu, phản động.
2. Sự phủ định của phủ định (diễn biến của quy luật)
- Trong quá trình vận động, phát triển thông qua sự phủ định mà cái mới sẽ ra đời thay thế cho cái cũ, cái mới phải là cái tiến bộ so với cái cũ. Cái mới này trong quá trình phát triển tiếp theo lại dần dần trở nên cũ, lỗi thời nên nó lại bị phủ định bởi 1 cái mới cao hơn… Cứ như vậy thông qua vô số những lần phủ định kế tiếp nhau mà sự vật sẽ phát triển không ngừng.
- Tuy những sự vật phát triển không diễn ra theo một đường thẳng đứng mà nó được thực hiện thông qua những chu kỳ kế tiếp nhau. Trong mỗi một chu kỳ phát triển, thông qua lần phủ định thứ nhất nếu nó được thực hiện một cách căn bản thì sự vật sẽ chuyển hoá thành cái đối lập với nó (cây lúa đối lập với hạt thóc), sau đó qua lần phủ định thứ 2 hay gọi là phủ định của phủ định nếu nó cũng được thực hiện một cách căn bản thì cái đối lập ấy lại chuyển hoá thành cái đối lập với nó mà thực chất là quay trở về với cái ban đầu. Khi đó sẽ kết thúc một chu kỳ phát triển để chuyển sang một chu kỳ mới.
- Sự phủ định của phủ định làm cho sự vật có khuynh hướng vòng quay trở lại dường như là cái ban đầu nhưng với 1 trình độ phát triển cao hơn.
- Chúng ta không nên hiểu một cách mày móc là cứ qua 2 lần phủ định thì kết thúc một chu kỳ phát triển. Trong thực tế chu kỳ phát triển có thể phải thông qua nhiều lần phủ định mới hoàn thành.
VD: Chu kỳ phát triển của loài côn trùng qua 4 lần phủ định: Trứng => Tằm => Kén => Sâu
Quy luật này cho kết quả nên một khuynh hướng chung của quá trình phát triển mà Lênin gọi là đường xoáy trôn ốc. Khuynh hướng này không phải do sự phủ định tạo ra mà do sự phủ định của phủ định tạo ra.
3. Ý nghĩa, phương pháp luận:
- Quy luật này giúp ta hiểu rõ hơn về cái mới, cái mới không phải là cái có sau mà cái mới phải là cái tích cực, tiến bộ, hợp quy luật. Cái mới ra đời trong cuộc đấu tranh với cái cũ nên râtý khó có thể tự bảo vệ được mình nên chúng ta phải biết phát hiện cái mới, trân trọng cái mới, bảo về cái mới.
- Quy luật này khẳng định sự thắng lợi tất yếu của cái mới, tuy nhiên nó cũng chỉ ra rằng sự phát triển không diễn ra một cách bằng phẳng mà chứa đựng những rích rắc, mâu thuẫn, đôi khi có cả những bước thụt lùi tạm thời nhưng khuynh hướng tất yếu cuối cùng phải là tiến lên. Do đó nó góp phần củng cố tinh thần lạc quan CM.
- Cần phải quán triệt quan điểm kế thừa có chọn lọc, kiên quyết đấu tranh khắc phục 2 thái cực là phủ định sạch trơn và kế thừa nguyên xi.
CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG
1. Định nghĩa:
- Cái riêng là một phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật hiện tượng, một quá trình riêng biệt nào đó. Chẳng hạn là cái bàn này, cái cây nọ, hành tinh kia. Như vậy cái riêng là một chỉnh thể, nó có thể tồn tại tương đối độc lập trước nhiều cái khác.
- Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung cho nhiều sự vật hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn màu trắng, tư duy…Như vậy cái chung là cái bộ phận nhưng có sự lặp lại nhiều lần.
Ngoài cái chung và cái riêng còn có cái đơn nhất đó là những mặt, những thuộc tính chỉ xuất hiện ở sự vật duy nhất nào đó, không lặp lại ở những sự vật khác.
Tóm lại cái riêng là chỉnh thể thống nhất giữa cái chung và cái đơn nhất.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, tồn tại thông qua cái riêng bởi vì mỗi một cái chung chỉ là một mặt, một bộ phận của những cái riêng nên nó không thể tách riêng bởi cái riêng. VD: Tư duy không thể tách rời con người, nó là bộ phận tồn tại trong mỗi con người, lợi ích chung cũng là lợi ích riêng của từng người; Màu trắng được biểu hiện thông qua cái áo…
- Cái riêng tuy tồn tại độc lập nhưng không hoàn toàn cô lập mà mỗi cái riêng đều phải tồn tại trong mối liên hệ để dần đến cái chung.
- Cái chung thì bền vững sâu sắc hơn cái riêng, bởi vì nó bao gồm những mặt, những thuộc tính bên trong lặp đi lặp lại nên cái chung bao hàm 1 cách đại khái cái riêng. Ngược lại cái riêng thì phong phú, đa dạng hơn cái chung bởi vì trong cái riêng ngoài những cái riêng còn có cái đặc thù và đơn nhất. Cho nên cái riêng không ra nhập hết vào cái chung.
- Trong quá trình vận động và phát triển cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá vào nhau, từ một cái đơn nhất ban đầu có thể dần dần chuyển hoá thành cái chung, chẳng hạn sự xuất hiện cái mới… Ngược lại từ cái chung có thể chuyến hoá thành cái đơn nhất, chẳng hạn sự mất đi của một cái cũ..
3. Ý nghĩa, phương pháp luận:
- Quá trình nhận thức của con người phải đi từ cái riêng đến cái chung.
- Phải biết vận dụng cái chung vào để cải tạo cái riêng nhưng đồng thời phải tính đến những điều kiện đặc thù riêng có của từng cái riêng cho phù hợp.
- Phải biết vận dụng mối quan hệ chuyển hoá giữa cái chung và cái đơn nhất qua đó thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật.
CẶP PHẠM TRÙ NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ
1. Định nghĩa:
- Nguyên nhân: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ tương tác giữa những mặt trong sự vật, hiện tượng hay gữa các sự vật hiện tượng với nhau gây nên 1 biến đổi nhất định nào đó chẳng hạn sự tác động của dòng điện lên bóng đèn => sáng.
- Kết quả: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi được gây nên bởi tương tác giữa những mặt trong sự vật hiện tượng hay giữa các sự vật hiện tượng với nhau.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, cho nên nguyên nhân có trước, kết quả có sau. Tuy nhiên không phải mọi sự vật hiện tượng đều xảy ra theo trình tự trước sau, đều có quan hệ nhân quả với nhau.
Để nguyên nhân sinh ra kết quả cần có những điều kiện khách quan cho nó, tổng hợp những điều kiện ấy gọi là hoàn cảnh. Tuy nhiên hoàn cảnh khác nguyên nhân vì nó không sinh ra kết quả. Ngoài ra, nguyên nhân còn được phân biệt với nguyên cớ, nguyên cớ chỉ là lý do chủ quan mà con người đưa ra để biện hộ cho một hành vi nào đó.
- Cùng là một nguyên nhân có thể đồng thời có thể sản sinh ra nhiều kết quả khác nhau (chẳng hạn sự tác động của dây tóc lên bóng đèn ngoài tác dụng gây sáng còn toả nhiệt), và ngược lại cùng một kết quả lại có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau tác động đồng thời hoặc riêng rẽ gây nên. VD: Sự khủng hoảng kinh tế VN năn 80 xuất phát từ nguyên nhân khách quan, chủ quan.
- Mọi hiện tượng xảy ra đều phải có nguyên nhân của nó, không một hiện tượng nào là không có nguyên nhân. Do đó mỗi 1 hiện tượng đều phải nằm trong một chuỗi dài vô tận các mối quan hệ nhân quả mà trong đó nó vừa là kết quả lại vừa là nguyên nhân.
- Kết quả sau khi được sinh ra nếu tồn tại tương đối độc lập trước nguyên nhân đã sinh ra nó thì nó có thể tác động trở lại lên nguyên nhân ấy theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm nguyên nhân.
3. Ý nghĩa, phương pháp luận:
- Phải có thái độ khách quan trong việc nhận thức nguyên nhân của các hiện tượng, ta phải xuất phát từ bản thân sự vật để tìm ra nguyên nhân cho nó, phải căn cứ vào những hiện tượng có trước về mặt thời gian, phải căn cứ vào quan hệ sản sinh.
- Muốn loại bỏ một kết quả không mong muốn thì phải loại bỏ chính nguyên nhân đã sinh ra nó.
- Phải biết vận dụng sự tác động trở lại của kết quả lên nguyên nhân qua đó thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật.
VI. THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
1. Khái niệm nhận thức và thực tiễn:
* Khái niệm nhận thức: Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, sáng tạo của hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con người, được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của họ.
Như vậy, nhận thức phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc duy vật vầ nhận thức: Đó là thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất, coi đó là đối tượng của nhận thức.
- Nguyên tắc phản ánh của nhận thức: Coi quá trình nhận thức chẳng qua là quá trình phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người. Cho nên vai trò quyết định thuộc về khách thể nhận thức.
- Nguyên tắc sáng tạo của nhận thức: Đó là coi quá trình nhận thức là quá trình hoạt động chủ động, tích cực, sáng tạo của chủ thể con người.
- Nguyên tắc thực tiễn: Đó là coi thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, là mục đích cuối cùng của nhận thức và là tiêu chuẩn của chân lí.
* Khái niệm thực tiễn: Là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích và có tính lịch sử xã hội của con người, nhằm cải biến tự nhiên, xã hội.
Theo định nghĩa trên, thực tiễn có các đặc trưng cơ bản sau:
- Nó là hoạt động vật chất của con người, cho nên nó đối lập tương đối với các hoạt động tinh thần.
- Thực tiễn là hoạt động hướng đích của con người. Nó nhằm cải biến tự nhiên, xã hội để thoả mãn các nhu cầu, lợi ích của con người.
- Thực tiễn là hoạt động có tính lịch sử xã hội, tức là hoạt động cộng đồng và phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Hoạt động thực tiễn bao gồm 3 lĩnh vực cơ bản: Sản xuất vật chất; hoạt động chính trị - xã hội và thực nghiệm khoa học. trong đó sản xuất vật chất là đầu tiên và quyết định nhất.
(Hoạt động sản xuất vật chất, là hình thức hoạt động thực tiễn đầu tiên, cơ bản và quyết định sự vận động của các hình thức thực tiễn khác.
Hoạt động thực nghiệm khoa học, là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, được tiến hành trong điều kiện do con người tạo ra giống hoặc gần giống với hiện thực khách quan để cải tạo,biến đổi sự vật.
Hoạt động chính trị - xã hội (đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ hoà bình...) nhằm biến đổi các quan hệ xã hội, các trạng thái xã hội.
Các hình thức thực tiễn trên có mối quan hệ hữu cơ tác động lẫn nhau, trong đó hoạt động sản xuất vật chất giữ vai trò quyết định).
2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Trước hết, thực tiễn đóng vai trò là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức cho nên nó quyết định nhận thức của con người. Cụ thể là:
+ Thực tiễn luôn luôn là xuất phát điểm của nhận thức, cho nên nhận thức phải bắt nguồn từ nhu cầu của thực tiễn và phải quay lại để phục vụ thực tiễn.
+ Thực tiễn cung cấp cho nhận thức những tài liệu cần thiết, tài liệu đó chính là kinh nghiệm thực tiễn.
+ Thực tiễn trang bị cho nhận thức những công cụ cần thiết.
+ Thực tiến góp phần làm hoàn thiện bản thân chủ thể nhận thức con người.
+ Vật chất giải quyết các nhu cầu, nhiệm vụ của thực tiễn, luôn là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nhận thức.
-Thực tiễn đóng vai trò là mục đích cuối cùng của nhận thức. Do đó con người là nhận thức không có mục đích tự thân, con người nhận thức thế giới khách quan không vì bản thân sự nhận thức ấy mà nhận thức nó là để cải tạo nó. Cho nên Mác nói: “Các nhà triết học trước đây chỉ lý giải thế giới một cách khác nhau nhưng vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới”.
- Thực tiễn đóng vai trò là tiêu chuẩn của chân lý. Phải thông qua sự k’ ng của thực tiễn mới có thể phân định chắc chắn đâu là chân lý đâu là giả dối. Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối nhưng đồng thời cũng chỉ là tương đối. Tuyệt đối bởi vì nó là tiêu chuần duy nhất có tính khách quan và khoa học để kiểm tra chân lý. Tương đối bởi vì thực tiễn chỉ mang tính hữu hạn và thực tiễn cũng có thể sai lầm.
Thứ sáu, ngày 18 tháng 02 năm 2010
BIỆN CHỨNG GIỮA LLSX VÀ QHSX
(Quy luật về sự phù hợp của QHSX đối với trình độ phát triển của LLSX)
1. Các khái niệm: PTSX, LLSX, QHSX
- PTSX là cách thức mà XH tiến hành để làm ra của cải vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Mỗi PTSX gồm 2 mặt: LLSX và QHSX thống nhất với nhau.
- LLSX: biểu thị mỗi quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất nó nói lên trình độ chinh phục tự nhiên của con người. LLSX gồm 2 mặt: người lao động và tư liệu SX
- Người LĐ là những người có tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo nhất định, có tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Người LĐ là LLSX hàng đầu, đóng vai trò quyết định đối với quá trình SX vật chất.
- Tư liệu SX: là những tư liệu do XH tạo ra và sử dụng để tiến hành SX vật chất. Nó gồm 2 yếu tố: đối tượng lao động và tư liệu lao động.
+ Đối tượng LĐ là bộ phận của tự nhiên hoặc nhân tạo mà người lao động tác động lên để tạo ra của cải vật chất.
+ Tư liệu LĐ là những vật dụng được sử dụng tác động lên đối tượng LĐ, trong đó công cụ LĐ là quan trọng nhất, đó là vật dẫn truyền trực tiếp tác động của người LĐ lên đối tượng LĐ (công cụ LĐ thô sơ: cày, cuốc, búa; công cụ là máy móc...).
Công cụ LD được coi là LLSX có tính động nhất, cách mạng nhất (luôn luôn được cải tiến) và quyết định nhất, vì nó quy định năng suất lao động XH. Ngoài ra còn có những tư liệu LĐ hỗ trợ khác (nhà kho, sân phơi, bến, bãi...).
Trong thời đại ngày nay do sự phát triển của cuộc cách mạng KHCN cho nên chính khoa học cũng đang trở thành một LLSX trực tiếp (không phải là nhân tố thứ 3): tri thức khoa học đã thâm nhập và trở thành bộ phận không thể thiếu của từng yếu tố trong LLSX (ngày càng người ta càng sử dụng đối tượng LĐ nhân tạo, khoa học xã hội cũng tham gia vào sản xuất: quản lý sản xuất... => xuất hiện kinh tế tri thức: sản phẩm làm ra có giá trị tri thức khoa học từ 70% trở lên. Ví dụ điện thoại di động).
* Quan hệ sản xuất: Là mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất vật chất, đây là một quan hệ kinh tế cơ bản của XH được hình thành một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người. QHSX gồm 3 mặt:
- QH sở hữu đối với TLSX: QH này nói lên ai là người nắm giữ những TLSX chủ yếu trong XH (SX nông nghiệp: ai nắm giữ ruộng đất; SX công nghiệp: công xưởng, nhà máy ai nắm giữ). Trong lịch sử có hai hình thức sở hữu cơ bản đối với TLSX: sở hữu tư nhân và sở hữu XH (sở hữu công cộng);
- QH về mặt tổ chức quản lý SX: nói lên vai trò của con người trong quá trình SX vật chất: vai trò tổ chức quản lý hay là bị tổ chức, bị quản lý;
- QH về mặt phân phối sản phẩm: nói lên hình thức và quy mô thu nhận sản phẩm do XH tạo ra. Tùy thuộc chế độ XH thì có hình thức và quy mô thu nhận sản phẩm khác nhau.
Trong ba mặt trên của QHSX thì QH sở hữu là quyết định nhất, nó quy định những mặt còn lại.
VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LLSX VÀ QHSX
(Diễn biến của quy luật về sự phù hợp của QHSX đối với trình độ phát triển của LLSX)
1. Tính chất và trình độ của LLSX: Tính chất của LLSX là tính chất của LĐ và của quá trình SX. LLSX có thể mang hai tính chất: tính cá nhân hoặc tính XH: khi LLSX có trình độ thấp kém thì tính chất của nó là cá nhân bởi vì nó mang tính phân tán, tản mạn. Còn khi LLSX có trình độ cao đòi hỏi phải có sự hợp tác LĐ của nhiều người thì LLSX mang tính XH. Xu hướng phát triển của LLSX là có tính XH ngày càng cao (Xã hội hóa LLSX. Ví dụ để SX một chiếc ô tô thì phải do hàng nghìn người tham gia sản xuất – mang tính xã hội cao. Tính xã hội đó mang tính hợp tác lao động)
Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của công cụ LĐ, của người LĐ, của quy mô SX, của trình độ sử dụng khoa học... và LLSX có trình độ ngày càng cao (năng suất LĐ ngày càng cao...).
2. Sự quyết định của LLSX đối với QHSX: LLSX là nội dung, QHSX là hình thức. Nội dung quyết định hình thức nên LLSX đóng vai trò quyết định đối với QHSX. Điều đó được thể hiện cụ thể là:
- LLSX nào thì sinh ra QHSX ấy, nên tương ứng với mỗi LLSX ở trình độ nhất định thì bao giỡ cũng phải có một QHSX phù hợp nhất đối với nó được hình thành. VD: thời nguyên thủy chỉ là QHSX tập thể, vì công cụ lao động thô sơ, LLSX chưa phát triển.
- LLSX có xu hướng phát triển liên tục, trong khi QHSX có xu hướng ổn định ít thay đổi (sự phát triển LLSX là sự cải tiến công cụ LĐ => người lao động phải có trình độ nâng lên, ngày cao, quy mô SX ngày càng mở rộng; QHSX mang tính bền vững). Nên đến một giai đoạn nhất định nào đó thì LLSX đã phát triển sẽ mâu thuẫn với QHSX cũ lỗi thời (vì QHSX phát triển không kịp sự phát triển của LLSX). Khi đó đòi hỏi QHSX cũ phải bị xóa bỏ, QHSX mới sẽ ra đời thay thế để phù hợp với LLSX đã phát triển. Như vậy sự phát triển của LLSX quyết định sự phát triển, thay thế nhau của QHSX từ thấp đến cao làm cho lịch sử XH loài người lần lượt trải qua 5 kiểu QHSX và tương ứng là 5 phương thức SX: Cộng sản nguyên thủy – nô lệ - phong kiến – TBCN – CSCN.
3. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX: đây là biểu hiện tác động trở lại của hình thức lên nội dung với 2 xu hướng chính:
- Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của LLSX.
- Nếu QHSX không phù hợp: tức là nó đã trở nên cũ và lỗi thời hoặc là nó phát triển không đồng bộ dẫn đến có yếu tố của nó vượt trước so với LLSX thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX (làm nền SX XH không phát triển được, dẫn đến khủng hoảng, suy thoái).
Sở dĩ có sự tác động trở lại này là bởi vì QHSX quy định mục đích của nền SX (SX cho ai, SX làm gì), mục đích này quy định lợi ích của con người, lợi ích sẽ tác động lên thái độ của người LĐ từ đó tác động lên toàn bộ LLSX (người LĐ là LLSX chủ yếu).
Ở nước ta hiện nay do tồn tại nhiều khu vực kinh tế khác nhau với những trình độ của LLSX không đồng đều, điều đó đòi hỏi phải sử dụng nhiều chế độ sở hữu, nhiều chế độ tổ chức quản lý và nhiều hình thức phân phối khác nhau, đây chính là cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay.
CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC TƯỢNG TẦNG
1. Các khái niệm:
- CSHT (cơ sở hạ tầng): là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một XH ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Khái niệm CSHT chỉ phản ánh chức XH của các QHSX với tính cách là những quan hệ nền tảng của XH (từ nó tạo ra những QH còn lại), do đó nó không bao gồm LLSX. Trong CSHT của một XH có thể có nhiều loại hình QHSX khác nhau, trong đó có thể có:
+ QHSX thống trị nó được sinh ra từ PTSX đang thống trị XH ấy;
+ Những QHSX tàng dư, do PTSX cũ sinh ra;
+ Những QHSX mầm mống gắn với PTSX mới đang trong quá trình hình thành.
Ở nước ta hiện nay CSHT cũng bao gồm nhiều loại hình QHSX khác nhau tạo nên một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần (5 thành phần kinh tế).
- KTTT (kiến trúc thượng tầng): là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng về chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, triết học... và những tổ chức thiết chế XH tương ứng được hình thành trên một CSHT nhất định. KTTT bao gồm các nhóm hiện tượng cơ bản sau:
+ KTTT tư tưởng: gồm các tư tưởng chính trị, pháp quyền, tôn giáo, triết học, khoa học...
+ KTTT chính trị pháp lý: gồm các hiện tượng như nhà nước, các đảng phái chính trị, các tổ chức chính trị XH.
Ngoài ra còn có một hệ thống các quan hệ thượng tầng làm nên một cơ chế chính trị nhất định.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT:
a. CSHT quyết định KTTT: đây là phản ánh mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, trong đó KT là nền tảng, quyết định. Do đó CSHT quyết định KTTT, nó được thể hiện ở 2 nội dung sau:
- CSHT nào sẽ sinh ra KTTT ấy, nên tương ứng với mỗi CSHT nhất định sẽ hình thành nên một KTTT tương ứng với nó mà do đó giai cấp nào thống trị về kinh tế giai cấp đó cũng sẽ thống trị về chính trị và tư tưởng, những mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế (LLSX><tư tưởng vô sản).
- Những thay đổi của CSHT sẽ quy định những thay đổi tương ứng trong KTTT và kho CSHT cũ mất đi, CSHT mới ra đời thay thế thì nó đòi hỏi KTTT cũ cũng sẽ bị xóa bỏ và thay thế nó phải là một KTTT mới.
Tuy nhiên sự thay thế KTTT diễn ra một cách chậm chạp và lâu dài, bởi vì còn nhiều yếu tố của KTTT cũ vẫn tiếp tục được duy trì trong KTTT mới.
Ở nước ta hiện nay, v iệc XD CSHT và KTTT mới phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau:
+ Một là: phải XD một nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, hay còn được gọi là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
+ Hai là: phải lấy chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nan cho mọi hành động.
+ Ba là: phải XD hệ thống chính trị XHCN mang bản chất của giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam;
+ Bốn là: phải XD một cơ chế chính trị đúng đắn, theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ tạo ra sự đồng thuận trong toàn XH, chống đa nguyên, đa đảng.
PHẠM TRÙ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI LÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN
1. Phạm trù HTKTXH (Hình thái kinh tế xã hội): hình thái KTXH là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ XH ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định với một kiểu QHSX đặc trưng thích ứng với LLSX ở trình độ nhất định và một KTTT được XD lên trên những QHSX ấy.
Cấu trúc: HTKTXH là một xã hội cụ thể XH sống động bao gồm nhiều lĩnh vực, nhiều yếu tố hợp thành. Nó bao gồm lĩnh vực cơ bản: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tinh thần, đồng thời nó bao gồm các yếu tố cơ bản là LLSX và QHSX, CSHT và KTTT.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên, thì mỗi một HTKTXH còn bao gồm các yếu tố không cơ bản khác, như là vấn đề gia đình và quan hệ gia đình, vấn đề dân tộc, tôn giáo, lĩnh vực sinh hoạt của đời sống XH...
2. Sự phát triển của các HTKTXH là quá trình lịch sử tự nhiên: HTKTXH bao gồm nhiều yếu tố quá trình hợp thành, chúng tác động qua lại lẫn nhau để làm hình thành nên một hệ thống các quy luật xã hội (qua luật: phổ biến, đặc thù, riêng). Dưới sự tác động bởi hệ thống các quy luật này mà các HTKTXH không ngừng phát triển thay thế nhau dần dần từ thấp đến cao, quá trình đó diễn ra một cách tất yếu, khách quan độc lập với ý thức của con người, nên Mác gọi đó là quá trình lịch sử - tự nhiên. Quá trình lịch sử-tự nhiên được bắt đầu bằng sự phát triển của LLSX, LLSX phát triển cuối cùng sẽ mâu thuẫn với QHSX lỗi thời. Theo quy luật thì QHSX cũ sẽ bị xóa bỏ để thay thế bằng QHSX mới, khi đó CSHT cũng sẽ thay đổi: CSHT cũ mất đi, CSHT mới ra đời thay thế. Khi đó theo quy luật KTTT cũ bị xóa bỏ, KTTT mới ra đời thay thế. Khi các yếu tố cơ bản của XH đã thay đổi thì các yếu tố còn lại của nó cũng dần dần thay đổi theo, làm cho HTKTXH mới ra đời thay thế cho HTKTXH cũ. Tuy nhiên so với các quá trình diễn ra trong giới tự nhiên thì quá trình lịch sử có tính đặc thù, đó là nó không diễn ra một cách tự động mà được thực hiện thông qua các hoạt động có ý thức của con người (để LLSX phát triển thì người LD phải cải tiến công cụ lao động...), nhưng bản thân các hoạt động ấy phải tuân theo quy luật khách quan. Quá trình lịch sử - tự nhiên vừa là một quá trình mang tính thống nhất, tính toàn nhân loại mà mọi dân tộc đều phải đi theo, tuy nhiên vẫn mang tính đa dạng và nhiều vẻ với những biểu hiện khác nhau, như là: sự phát triển không đồng đều của các dân tộc ở cùng một thời điểm hoặc hình thức biểu hiện của một HTKTXH mỗi nơi một khác hoặc thời gian tồn tại của cùng một HTKTXH dài, ngắn khác nhau. Đó là một dân tộc không bắt buộc phải tuần tự trải qua cả 5 HTKTXH.
3. Ý nghĩa của học thuyết HTKTXH và sự vận dụng vào hoàn cảnh ở nước ta hiện nay:
- Học thuyết HTKTXH đã chỉ rfa vai trò quyết định của PTSX đối với sự phát triển của XH, nên khi nghiên cứu về XH Mác đã xuất phát từ PTSX;
- Học thuyết này chỉ ra tính quy luật của quá trình lịch sử, cho nên nghiên cứu XH là phải tìm ra các hệ thống quy luật khách quan của nó;
- Học thuyết này chỉ rfa tính khách quan của quá trình lịch sử, cho nên muốn nghiên cứu XH thì cần phải xuất phát từ bản thân nó, chứ không phải từ mong muốn chủ quan của con người;
- Vận dụng học thuyết HTKTXH vào hoàn cảnh nước ta hiện nay: Đảng ta đã chỉ rõ con đường đi lên CNXH ở nước ta với 4 nội dung cơ bản:
+ Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường phát triển tất yếu của nước ta;
+ XD nền kinh tế thị trường định hướng XHCN;
+ Tiến hành CNH – HĐH đất nước;
+ Kết hợp giữa phát triển kinh tế với chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống XH (VH, tinh thần...).
Ngày 19 tháng 02 năm 2011
VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC XÃ HỘI CÓ GIAI CẤP
1. Khái niệm ĐTGC (đấu tranh giai cấp): ĐTGC là cuộc đấu tranh của một bộ phận nhân này chống lại một bộ phận khác, là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám, là cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay giai cấp vô sản chống lại bọn hữu sản hay giai cấp tư sản.
Biểu hiện của đấu tranh giai cấp:
- Đấu tranh giai cấp từ sự đối lập về lợi ích giữa các giai cấp, mà sự đối lập này luôn luôn này trong các XH có giai cấp. Nên đấu tranh giai cấp là tất yếu;
- Đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh mang tính XH rộng rãi, nó lôi kéo cả một giai cấp này chống lại một giai cấp khác.
2. Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của XH có giai cấp:
Động lực xét đến cùng thúc đẩy sự phát triển của XH là mâu thuẫn giữa LLSX tiến bộ và QHSX lỗi thời. Tuy nhiên trong XH có giai cấp mâu thuẫn này lại được biểu hiện về mặt XH bằng mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị - người đại biểu cho LLSX với giai cấp thống trị - người đại biểu cho QHSX (giai cấp sở hữu TLSX, chi phối việc phân phối sản phẩm), mâu thuẫn này tất yếu làm bùng nổ cac cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến đỉnh cao của nó sẽ là một cuộc cách mạng XH nhằm xóa bỏ hình thái kinh tế XH cũ, thiết lập nên một hình thái kinh tế XH mới. Như vậy trong thời kỳ cách mạng, thì đấu tranh giai cấp chính là động lực thúc đẩy quá trình phát triển thay thế nhau của các hình thái KT-XH từ thấp đến cao. Trong thời bình (QHSX thống nhất, phù hợp với LLSX): đấu tranh giai cấp cũng là một động lực quan trọng kích thích sự phát triển của các lĩnh vực trong đời sống XH, cụ thể:
- Nó kích thích sự phát triển của LLSX, bởi vì nó đòi hỏi giới chủ phải quan tâm đến cải tiến công cụ lao động để nâng cao năng suất lao động XH (cuộc đấu tranh giai cấp của người lao động đầu tiên đòi hỏi về mặt kinh tế => nâng cao năng suất để thỏa mãn đòi hỏi của cuộc đấu tranh giai cấp, thỏa mãn nhu cầu lợi ích kinh tế của mình).
- Đấu tranh giai cấp kích thích sự phát triển của lĩnh vực văn hóa tinh thần, tạo ra nhiều giá trị tinh thần khác nhau như: văn học, nghệ thuật... để phản ánh lại các cuộc đấu tranh đó;
- Đấu tranh giai cấp góp phần làm hoàn thiện lĩnh vực chính trị XH đem lại nhiều giá trị XH quan trọng, như: tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền... (không phải là sự ban phát của giới chủ, mà là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài);
- Thông qua đấu tranh giai cấp mà bản thân các giai cấp không ngừng lớn mạnh làm hình thành nên các tổ chức lãnh đạo giai cấp (công đoàn, nghiệp đoàn, chính đảng... được hình thành, tôi luyện, trưởng thành...).
3. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản: đây là cuộc đấu tranh giai cấp điển hình, cao nhất và cuối cùng trong lịch sử.
Sau khi giai cấp vô sản được hình thành thì nó dần dần trở thành một lực lượng chính trị độc lập, đối lập với giai cấp tư sản và bắt đầu tiến hành cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, cuộc đất trành này phát triển dần dần từ tự phát đến tự giác và lần lượt trải qua 3 hình thức đấu tranh cơ bản (chỉ khác nhau về mục tiêu): hình thức đấu tranh kinh tế, hình thức đấu tranh chính trị và hình thức đấu tranh tư tưởng. Mục đích cuối cùng của cuộc đấu tranh này trong XH TBCN là nhằm giành chính quyền nhà nước về tay giai cấp vô sản.Sau khi giành được chính quyền nhà nước, giai cấp vô sản tiến hành công cuộc cải tạo XH cũ, XD XH mới XHCN, đây được gọi là thời kỳ quá độ lên CNXH. Ở thời kỳ này, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục diễn ra một cách gay go, quyết liệt, sở dĩ như vậy bởi vì:
- Giai cấp tư sản và các lực lượng phản động tuy đã bị lật đổ nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn nên vẫn tìm cách nổi dậy chống lại giai cấp vô sản, chống lại cách mạng;
- Nguy cơ làm nảy sinh chủ ngĩa tư bản tiếp tục tồn tại lâu dài (tồn tại trong suốt thời kỳ quá độ), đó chính là nền sản xuất nhỏ, cá thể, tư hữu;
- Những tàn dư của văn hóa tư tưởng cũ tiếp tục tồn tại lâu dài;
- Các thế lực thù địch từ bên ngoài luôn tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ trong nước;
4. Cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay: ở nước ta hiện nay cuộc đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra một cách gay go, quyết liệt với những điều kiện mới, nội dung, hình thức mới. Cuộc đấu tranh này tỏ ra rất phức tạp do không xác định được kẻ thù trực diện. Thực chất của cuộc đấu tranh này là nhằm để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước nghèo, lạc hậu, chống áp bức bất công, XD công bằng XH. Để thực hiện mục tiêu này thì cần phải tiến hành đấu tranh để khắc phục 4 nguy cơ, thách thức đối với cách mạng nước ta hiện nay (từ ĐH IX, XX): nguy cơ tụt hậu kinh tế, nguy cơ chệch hướng XHCN, nguy cơ tham nhũng, nguy cơ diễn biến hóa bình của CNĐQ.
MỖI QUAN HỆ BIẾN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
1. Các khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội:
* Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất của XH và những điều kiện sinh hoạt vật chất của nó. Đây là hình thức biểu hiện của vật chất trong lĩnh vực XH, bao gồm 3 yếu tố cơ bản:
+ Phương thức SX: đầu tiên nhất, quyết định nhất.
+ Môi trường tự nhiên
+ Điều kiện dân số
* Ý thức xã hội là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng, những tâm tư, tình cảm, những tập tục truyền thống, những thiên hướng, hứng thú... của XH phản ánh lại tồn tại XH ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định.
- Nếu phân chia theo chiều ngang (tạo các cấp độ cao thấp) thì ý thức xã hội XH bao gồm 2 cấp độ cơ bản:
+ Ý thức xã hội thông thường
+ Ý thức lý luận (ý thức xã hội khái quát từ kinh nghiệm hoạt động thực tiễn)
Trong hai cấp độ trên, thì vai trò quan trọng nhất thuộc về hai yếu tố là tâm lý XH và hệ tư tưởng.
+ Tâm lý XH là bộ phận của ý thức xã hội thông thường, nó bao gồm những tâm tư tình cảm, những tập tục truyền thống, những thói quen, tập quán... của XH phản ánh trực tiếp những điều kiện sinh hoạt vật chất hàng ngày của XH, đây là bộ phận có tính bền vững và bảo thủ cao.
+ Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức lý luận, nó bao gồm những quan điểm tư tưởng đã được hệ thống hóa thành chỉnh thể học thuyết để phản ánh những lợi ích cơ bản và địa vị của một giai cấp nhất định.
- Nếu phân chia ý thức xã hội theo chiều dọc thì ý thức xã hội bao gồm các hình thái ý thức xã hội khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học, khoa học...
2. Về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
a. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: Theo quan điểm thế gới quan duy vật thì vật chất có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức. Trong lĩnh vực XH thì quan hệ này được biểu hiện là: tồn tại xã hội có trước, nó sinh ra và quyết định ý thức xã hội, điều đó được thể hiện cụ thể là:
- Tồn tại xã hội nào thì sinh ra ý thức xã hội ấy. Tức là người ta không thể tìm nguồn gốc tư tưởng trong đầu óc con người, mà phải tìm nó trong chính tồn tại xã hội. Do đó phải tồn tại xã hội để lý giải cho ý thức xã hội.
- Khi tồn tại xã hội thay đổi một cách căn bản, nhất là khi phương thức SX đã thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức xã hội cũng phải thay đổi theo.
b. Tính độc lập tương đối và sự tác động trở lại của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội:
Sự lệ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội không phải lúc nào cũng diễn ra trực tiếp mà cần phải xét đến cùng qua nhiều khâu trung gian mới thấy được, bởi vì ý thức xã hội có tính độc lập của mình. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được thể hiện dưới các hình thức sau:
- Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Sở dĩ như vậy bởi vì:
+ Do nó chỉ là phản ánh của tồn tại xã hội nên thường biến đổi sau;
+ Do nó có những bộ phận có tính bền vững, tính bảo thủ cao (tâm lý XH, tôn giáo...);
+ Do có những lực lượng XH luôn tìm cách duy trì tính lạc hậu trên (nhằm cai trị ND, nô dịch ND...).
- Vai trò tiên phong vượt trước của tri thức khoa học, bộ phận này trong ý thức xã hội có khả năng nắm bắt các quy luật vận động khách quan, từ đó đưa ra được những dự báo, tiên đoán về sự phát triển của XH, nên có thể đi tồn tại xã hội nên có thể đi trước một bước so với tồn tại xã hội (VD dự báo của Mác về sự sụp đổ của CNTB...).
- Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức xã hội có thể làm cho nó có một trình độ phát triển cao hơn so với tồn tại xã hội. Nên có những dân tộc với trình độ kinh tế, chính trị kém phát triển nhưng đời sống tinh thần lại rất phát triển, chẳng hạn dân tộc Đức ở thể kỷ XIX: kinh tế lạc hậu so với Châu Âu, nhưng văn hóa tinh thần cực kỳ phát triển (âm nhạc, hội họa....).
- Sự tương tác giữa các hình thái ý thức xã hội có thể tạo ra những quy luật đặc thù, chi phối sự phát triển của ý thức xã hội, làm cho nó không hoàn toàn lệ thuộc vào tồn tại xã hội. Cụ thể là ở những giai đoạn nhất định thường nổi lên một hình thái ý thức xã hội chủ đạo, chi phối các hình thái ý thức còn lại (làm cho toàn bộ XH phụ thuộc hoàn toàn vào ý thức chủ đạo: thời trung cổ thì tôn giáo chi phối xã hội, ngày nay khoa học chi phối xã hội).
- Do có tính độc lập tương đối nên ý thức xã hội có thể tác động trở lại lên tồn tại xã hội theo 2 xu hướng:
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh đúng đắn các quy luật khách quan của tồn tại xã hội thì nó có thể thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc về ý thức của những giai cấp tiến bộ và cách mạng.
+ Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tác các quy luật khách quan của tồn tại xã hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động này thuộc về ý thức của những giai cấp cũ, lạc hậu, phản động.
Sự tác động của ý thức xã hội lên tồn tại xã hội phụ thuộc vào mức độ thâm nhập của nó vào trong phong trào của quần chúng nhân dân. Cho nên phải thường xuyên đấu tranh để phổ biến tri thức khoa học và lý luận cách mạng cho quần chúng nhân dân, đồng thời để đấu tranh để loại bỏ những tàn dư của văn hóa, tư tưởng cũ, phản động ra khỏi quần chúng (không ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân).
VẤN ĐỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1. Khái quát quan điểm trước Mác về con người:
- Quan điểm duy tâm về con người thường đề cao yếu tố tâm lý trong con người, nó quy bản chất con người về bản chất tinh thần, tức là linh hồn, coi linh hồn là bất tử, là toàn năng, nó coi thường yếu tố sinh lý tức là thể xác, coi thể xác chỉ là tạm thời có sinh , có diệt.
- Quan điểm duy vật trước Mác (quan điểm duy vậy siêu hình): lại đề cao yếu tố sinh lý coi con người chỉ là một thực thể tự nhiên sinh vật, nên cho rằng toàn bộ ý thức, tinh thần đều phụ thuộc vào cơ thể và hoàn cảnh sống.
Như vậy cả 2 quan điểm trên đều có những hạn chế giống nhau:
+ Đã tách rời và tuyệt đối hóa một trong hai yếu tố ở con người là yếu tố sinh lý và yếu tố tâm lý.
+ Đã xem xét con người một cách trung trung, trìu tượng, con người phi lịch sử, phi giai cấp, phi dân tộc, nên đã không thấy được bản chất XH của con người.
2. Quan niệm Mác Xít về bản chất con người:
a. Con người là thực thể thống nhất giữa mặt tự nhiên sinh vật và mặt XH:
Theo luận điểm này thì con người vừa là sản phẩm tiến hóa của tự nhiên, vừa là kết quả phát triển của lịch sử, cho nên bản chất của con người là thể thống nhất giữa hai mặt đó là mặt tự nhiên (mặt sinh vật – cái sinh vật hay yếu tố sinh vật) và mặt XH (cái XH hay yếu tố XH).
- Mặt tự nhiên – sinh vật (cái sinh vật trong con người) trước hết con người là sản phẩm tiến hóa của giới tự nhiên, từ 1 loài động vật cao cấp dần dần tiến hóa thành con người, cho nên để tồn tại con người cần phải sử dụng tự nhiên. Do đó Mác coi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ” của con người, con người phải mang trong mình đầy đủ các đặc điểm sinh vật như sự sinh, sự tử, quá trình trưởng thành.
- Mặt XH của con người: để tồn tại và phát triển con người cần phải tiến hành lao động. Do đó lao động chính là phương thức thể hiện bản chất XH của con người, con người phải tự khẳng định mình thông qua năng lực lao động của mình.
Hai mặt tự nhiên và XH của con người luôn nằm trong quan hệ thống nhất với nhau, chúng được hình thành và phát triển dần dần trong lịch sử (chứ không phải ngay khi sinh ra con người có hai mặt đó). Quá trình đó chịu sự chi phối bởi 3 hệ thống quy luật: các quy luật XH, các quy luật tâm lý ý thức và các quy luật tự nhiên sinh vật. Dưới sự tác động trên sẽ làm cho hai mặt của bản chất con người quy định chế ước (hình thành tương ứng) lẫn nhau và cùng nhau phát triển. Một mặt, bản chất tự nhiên của con người được biểu hiện ra thông qua các nhu cầu tự nhiên: ăn, uống, mặc, ở, hiểu biết, sinh hoạt văn hóa tinh thần... Để thỏa mãn những nhu cầu này con người cần phải tiến hành lao động, trong lao động sẽ hình thành nên mặt XH của họ. Ngược lại, nhờ lao động mà con người tạo ra được những vật phẩm cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của mình và thỏa mãn nhu cầu sẽ góp phần làm hoàn thiện con người hơn. Thỏa mãn được nhu cầu này thì lại làm hình thành nên những nhu cầu mới cao hơn.
b. Trong tính hiện thực của nó “bản chất con người là tổng hòa của những mối quan hệ XH”: Con người luôn luôn tham gia vào 3 loại quan hệ:
+ Quan hệ giữa mình với tự nhiên;
+ Quan hệ giữa mình với XH;
+ Quan hệ giữa mình với mọi người (cá nhân với cá nhân).
Cả 3 loại quan hệ này ở con người đều mang tính XH. Chỉ trong các quan hệ XH trên thì bản chất của con người mới được bộc lộ một cách đầy đủ nhất. Cho nên Mác đã khẳng định: bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt, trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa các mối qua hệ XH. Luận điểm này được hiểu như sau:
- Bản chất con người là cái chung, là bản chất tộc loài chứ không phải là bản chất cá nhân riêng rẽ;
- Bán chất con người phải được xem xét trong tính hiện thực, đó là sự tồn tại của những cá nhân con người cụ thể, sống động với một nền tảng sinh học nhất định;
- Bản chất đích thực của con người không phải là bản chất sinh vật mà là bản chất XH, là tổng hòa của những mối quan hệ XH. Cho nên trong hai mặt của bản chất con người thì Mác nhấn mạnh hơn bản chất XH.
Toàm lại ta có thể diễn đạt lại quan điểm của mác như sau: bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ XH trên nền tẳng tự nhiên - sinh vật.
c. Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử: Chủ nghĩa duy vật trước Mác bước đầu đã chỉ ra rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của môi trường giáo dục, tức là con người là sản phẩm của lịch sử. Điều đó là đúng nhưng chưa đủ, bởi vì theo Mác hoàn cảnh sống là do con người tạo ra (con người làm thay đổi) và giáo dục cũng do con người làm nên, do đó Mác nói “cái chủ nghĩa duy vậy (duy vật siêu hình) đã chỉ ra rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh và của giáo dục, nhưng nó lại quên mất rằng chính con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo phải được giáo dục. Cho nên cái quan trọng hơn ở đây chính là con người là chủ thể của lịch sử.” Từ đó Mác kêu gọi phải phải làm cho hoàn cảnh càng ngày càng có tính người nhiều hơn (theo nghĩa là môi trường đó là môi trường nhân tạo, tạo môi trường tốt nhất cho con người).
3. Vấn đề xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay: Theo Hồ Chí Minh muốn XD CNXH cần có những con người XHCN, cho nên vấn đề XD con người mới phải vừa là mục tiêu vừa là động lực của cuộc cách mạng. Con người mới phải vừa là những con người vừa hồng vừa chuyên, vừa đức vừa tài.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương XD con người mới phate triển toàn diện về nhân cách trên 5 khía cạnh: (Nghị quyết 5 khóa VIII, Nghị quyết 10 khóa IX)
+ Cường tráng về thể chất;
+ Phát triển cao về trí tuệ;
+ Trong sáng về đạo đức;
+ Phong phú về đời sống tinh thần;
+ Có năng lực lao động, sáng tạo, tự cường dân tộc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hướng dẫn ôn thi cao học môn triết học ( 2011).doc