Hoạt động tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng thương mại

-Tín dụng trung dài hạn là đòn bẩy kinh tế quan trọng trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế thông dụng. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này.

pdf17 trang | Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 2440 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hoạt động tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hoạt động tín dụng trung dài hạn tại ngân hàng thương mại Tác giả  Lê Đình Tam Khái niệm Khái niệm và phân loại tín dụng Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Vì vậy tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này. Tín dụng(credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo( tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng dược hiểu theo nhiều nghĩa khac nhau; ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau: -Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay. -Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền cay cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi. -Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. -Trong một số ngữ cảnh cụ thể thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với thuật ngữ cho vay Mục đích của chương này là xem xét tín dụng như là một chức năng cơ bản của ngân hàng, vì vậy trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản( tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay( ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay( cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên đi vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau: Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng bao gồm hai hình thức là cho vay( bằng tiền) và cho thuê( bất động sản và động sản). Trong những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trin tín dụng. Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương( lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa- tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên vì lãi xuất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp cụ thể lãi xuất danh nghĩa có thể thấp hơn tỷ lệ lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước… thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Dựa vào các tiêu thức khác nhau chúng ta có thể phân chia tín dụng thành các loại sau - Căn cứ theo mục đích sử dụng: Theo tiêu chuẩn này cho vay được phân biệt dựa vào mục đích sử dụng vốn vay để làm gì. Ví dụ : Cho vay mua sắm bất động sản, cho vay phục vụ cho lĩnh vực công nghiệp và thương mại, cho vay nông nghiệp… -Căn cứ theo thời hạn cho vay: Cho vay theo thời hạn là việc tín dụng cấp dựa vào thời hạn của khoản vay. Đó là cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn. - Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: Theo hình thức này tín dụng được phân chia dựa vào tiêu thức khả năng bảo đảm hoàn trả cả gốc và lãi đối với khoản vay. Đó là cho vay có bảo đảm, cho vay không có bảo đảm hoặc cho vay có sự bảo lãnh của bên thứ ba. - Căn cứ theo phương pháp hoàn trả: Theo hình thức này cho vay của NHTM căn cứ vào cách thức chi trả vốn gốc và lãi cho ngân hàng. Ví dụ: Cho vay có thời hạn, cho vay không có thời hạn… -Căn cứ theo xuất xứ tín dụng: Là việc tín dụng được cấp dựa vào sự tiếp xúc trực tiếp hay không trực tiếp giữa người cho vay và người trả nợ. Gồm có cho vay trực tiếp và cho vay gián tiếp. Khái niệm tín dụng trung dài hạn Tín dụng trung dài hạn là một bộ phận của tín dụng ngân hàng, nó là hình thức tín dụng phân theo thời hạn. Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp, chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: Máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều… Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập. Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên đến 40 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vậ tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Đặc điểm của tín dụng trung dài hạn. Độ rủi ro cao. Do khối lượng vốn đầu tư lớn, thời gian đầu tư dài, thu hồi vốn chậm nên độ rủi ro của một khoản tín dụng trung dài hạn là cao. Kết quả của một dự án đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Sự phân tích và xác định của ngân hàng về các rủi ro này là có hạn. Các ngân hàng cũng không thể khắc phục hết được các rủi ro này. Khi khoản cho vay dài hạn thời gian đầu tư dài, có rất nhiều sự thay đổi trong môi trường kinh tế: Như những thay đổi về chính sach, thị trường, thiên tai, chiến tranh…Khiến cho dự án bị thua lỗ hoặc không có khả năng thu hồi vốn Lợi nhuận từ các khoản cho vay trung dài hạn là lớn. Khi độ rủi ro của các dự án càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng mà nhà đầu tư mong đợi càng nhiều. Không nằm ngoài quy luật này các khoản tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thường mang lại cho ngân hàng các khoản thu nhập lớn. Biểu hiện cụ thể đó là lãi xuất các khoản cho vay tín dụng trung dài hạn rất cao. Có đặc điểm này là do để bù đắp cho những chi phí trong việc huy động những nguồn vốn phục vụ cho hoạt động cho vay trung dài hạn, chi phí bù đắp rủi ro. Vốn đầu tư lớn, thời gian dài, thu hồi vốn chậm. Nếu như tín dụng ngắn hạn tài trợ chủ yếu cho các tài sản lưu động của doanh nghiệp và được hoàn trả trong thời hạn ngắn( dưới 1năm) thì tín dụng trung dài hạn phần lớn tài trợ cho bất động sản, công cụ lao động, hay đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Do đó việc tài trợ này còn đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, thời gian đầu tư dài. Những khoản tín dụng trung dài hạn này thì nguồn trả nợ gốc và lãi chủ yếu dựa vào khấu hao và lợi nhuận của dự án đầu tư. Trong khi đó ngân hàng phải bỏ vốn trong suốt thời gian xây dựng dự án và chỉ tín hành thu hồi vốn đầu tư khi dự án đi vào hoạt động và đạt kết quản, dẫn đến thời hạn thu hồi vốn chậm. Phân loại tín dụng trung dài hạn. Căn cứ vào đồng tiền cho vay. Tín dụng trung dài hạn bằng bản tệ: Là việc cho vay bằng đồng nội tệ Tín dụng trung dài hạn bằng ngoại tệ nhằm cấp tín dụng cho ngườ vay có nhu cầu thanh toán các công trình xây dựng cơ bản, các khoản chi phí có liên quan đến nước ngoài bằng đồng ngoại tệ. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn trung dài hạn. Tín dụng trung dài hạn phục vụ cho tiêu dùng là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, các phương tiện sinh hoạt, phương tiện đi lại… Tín dụng trung dài hạn phục vụ cho sản xuất kinh doanh: Là loại tín dụng cấp cho các tổ chức kinh tế để tín hành sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá. Căn cứ vào tính chất có đảm bảo. Tín dụng trung dài hạn có đảm bảo là loại tín dụng khi cho vay bên cho vay đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo. Tín dụng trung dài hạn không có đảm bảo: Là loại tín dụng ma khi cho vay bên cho vay không đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo. Việc cho vay được tín hành trên cơ sở lòng tin uy tín của bản thân khách hàng. Căn cứ vào cách thức hoàn trả. Tín dụng trung dài hạn có kỳ hạn trả nợ đều nhau theo tháng, quý, năm là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Tín dụng trung dài hạn có kỳ hạn trả nợ một lần là loại tín dụng mà bên vay phải hoàn trả cả gốc và lãi một lần vào thời điểm kết thúc khoản vay. Tín dụng trung dài hạn có kỳ hạn trả nợ có tính thời vụ là loại tín dụng mà người vay có thể hoàn trả vốn gốc và lãi bất cứ khi nào khi có khả năng, có thu nhập Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của đối tượng xin vay. Tín dụng trung dài hạn đầu tư trong nước: Là loại tín dụng ngân hàng cấp cho người vay nhằm thực hiện các dự án đầu tư trong nước. Tín dụng trung dài hạn tài trợ xuất nhập khẩu: Tín dụng loại này co thể chia ra thành. Tín dụng người cung cấp: Là loại tín dụng trung dài hạn của ngân hàng tài trợ cho các nhà cung cấp máy móc, thiết bị, công cụ để xuất khẩu. Tín dụng người mua: Là ngân hàng cấp tín dụng cho người mua các máy móc thiết bị của nước ngoài. Trên đây là một số cách thức phân loại tín dụng trung dài hạn mà tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mỗi ngân hàng có thể phân chia theo những tiêu thức khác nhau phục vụ cho hoạt động của mình. Vai trò của tín dụng trung dài hạn Tín dụng trung dài hạn là quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng.Chức năng của ngân hàng là đem lại lợi ích cho cả người tiết kiệm và người đầu tư. Các bên tham gia vào quan hệ tín dụng trên cơ sở tự nguyện và cùng có lợi. Ngoài ra tham gia vào quan hệ này còn đem lại lợi ích cho chinh ngân hàng.Không chỉ có vậy ngân hàng và doanh nghiệp là hai chủ thể quan trọng hàng đầu trong nền kinh tế quốc dân, do đó việc nâng cao hiệu quả hoạt động của hai chủ thể này góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế.Ngày nay với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các ngân hàng thương mại, ta có thể thấy tín dụng trung dài hạn có vai trò quan trọng như thế nào đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.Hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng như là công cụ để khai thác và động viên có hiệu quả nhất lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư phục vụ cho quá trình tái sản xuất xã hội, phù hợp với quá trình vận động cảu vốn. Đối với doanh nghiệp - Tín dụng trung dài hạn tạo điều kiện cho việc ứng dụng tín bộ khoa học kỹ thuật: ngày nay khi mà khoa học kỹ thuật đã đạt đượ những thành tựu rực rỡ, đặc biệt là những thành tựu trong những nghành khoa học ứng dụng đã tạo ra thời cơ cũng như ngững thách thức đối với sự tồn tại và phát triển của một tổ chức trên thị truờng. Tuy việc ứng dụng này là rất cần thiết, song mọi doanh nghiệp đều gặp phải khó khăn đó là chi phí bỏ ra ban đầu lớn, bản thân vốn tự có của doanh nghiệp lại có hạn. Trong hoàn cảnh đó, tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn đã có những tác động hỗ trợ tích cực trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó doanh nghiệp không ngừng nâng cao được vị thế trên thị trường, hiệu quả của doanh nghiệp - qua đó nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM. - Tín dụng trung dài hạn là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng sản xuất đi kềm theo đó là mở rộng thị trường hoạt đọng của mình. Mở rộng hoạt đọng sản xuất kinh doanh không phải là hoạt đọng mà donah nghiệp có thể tín hành nhanh chóng một sớm một chiều mà còn tuỳ thuộc vào rất nhiều yêu tố trong đó quan trọng là cần có nguồn vốn dài hạn. Để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn đó, doanh nghiệp có thể huy động vốn dưới nhiều hình thức như: - Tự tích luỹ vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Nguồn vốn này nó có ưu tiên là nó giúp doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt được sự phụ thuộc vào bên ngoài nhưng nó có hạn chế là doanh nghiệp không thể tích luỹ một lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn. Hơn nữa doanh nghiệp chỉ có thể tích luỹ khi doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả, có lợi nhuận, có thể tiếp tục đầu tư.Phát hành cổ phiếu, trái phiếu: Doanh nghiệp có thể huy động được vốn trung dài hạn để tín hành sản xuất kinh doanh thông qua việc phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Nếu doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, các cổ đông cũ phải phân chia quyền kiểm soát mới nếu các cổ đông cũ không mua hết lượng cổ phiếu mới phát hành. Nếu phát hành trái phiếu thì không phải doanh nghiệp nào cũng có thể bán trái phiếu trên thị trường được vì còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề khác như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Các nhà đầu tư chỉ mua trái phiếu dài hạn của doanh nghiệp khi họ thực sự tin tưởng vào doanh nghiệp mà yếu tố này không phải doanh nghiệp muốn là có. Hơn nữa khi phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp phải chịu chi phí giao dịch cao, chi phí phát hành, lệ phí bảo hiểm, lệ phí đăng kí. Với lợi thế đặc thù, tín dụng trung dài hạn của ngân hàng được các doanh nghiệp ưa thích để bổ xung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đặc biệt đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhu cầu vốn xây dựng cơ bản là rất lớn trong khi các nhà kinh doanh chưa tích luỹ được nhiều, chưa có nhiều thời gian để tích luỹ vốn, tâm lí của công chúng chưa muốn đầu tư trực tiếp vào các doanh nghiệp thì tín dụng trung dài hạn là một nguồn vốn quan trọng đối với doanh nghiệp nhằm cải tín kỹ thuật mở rộng sản xuất. - Góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả: Trong thời hạn của khoản vay, ngân hàng thực hiện chức năng giám sát hoạt động sử dụng vốn với tư cách là chủ sở hữu vốn cho vay đối với các doanh nghiệp. Ngân hàng căn cứ vào các nguyên tắc tín dụng, hướng các doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích có hiệu quả, đôn đốc khách hàng vay vốn trả gốc và lãi đúng thời hạn thoả thuận đã ký trong hợp đồng tín dụng. Khác với vốn tự có là không phải trả chi phí vốn, vốn vay ngân hàng phải chịu những điều kiện ràng buộc về lãi suất, thời hạn và mục đích sử dụng tiền vay nên các doanh nghiệp vay vốn phải có sự tính toán chi phí sản xuất hợp lý, tốc độ vòng quay vốn nhanh. Để đảm bảo trả nợ ngân hàng đúng hạn và có lợi nhuận giữ lại. Mặt khác, trong quá trình kiểm tra giám sát sử dụng vốn vay, ngân hàng sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện những nhược điểm, sai sót từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra đối với doanh nghiệp cũng như rủi ro liên quan đối với ngân hàng thương mại. Có thể nói rằng, tín dụng ngân hàng đã ràng buộc trách nhiệm giữa người sở hữu và người sử dụng vốn, từ đó nâng cao năng lực quản lý vốn và quá trình sản xuất kinh doanh. Đó chính là việc giúp cho nguồn vốn đầu tư đem lại hiệu quả cao. -Tín dụng trung dài hạn là trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong việc thoả mãn và chớp cơ hội kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp khi có các dự án đầu tư nhưng không có nguồn vốn để đáp ứng do lượng vốn cần đầu tư nhiều và thời gian dài. Nên không thể thực hiện được các dự án này. Cũng có những dự án nhiều doanh nghiệp biết và có cơ hội thực hiện nhưng không có nguồn vốn để đáp ứng, do đó các dự án này cũng không thực hiện được. Tín dụng trung dài hạn giúp doanh nghiệp thoả mãn lượng vốn đầu tư cho các dự án và chớp các cơ hội kinh doanh. Ngoài ra khi các doanh nghiệp đi vay vốn trung dài hạn tại NHTM, họ có thể điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, nghĩa là họ có thể trả nợ sớm hơn thời gian quy định trong hợp đồng tín dụng khi họ không cần đến vốn trung dài han nữa. Ngược lại khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ tại một thời điểm nhất định nào đó thì có thể xin ngân hàng điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ. Việc trả nợ vốn vay trung dài hạn cũng được xây dựng theo một sự phân chia ổn định và hợp lý, do đó doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các nguồn trả nợ một cách dễ dàng hơn. Đối với ngân hàng Hoạt động của NHTM truyền thống là nghiệp vụ nhân tiền và gửi và cho vay. để thực hiện cho vay, NHTM phả tập trung vốn nhàn rỗi trong xã hội và trên cơ sở nguồn vốn đố bổ sung nhu cầu tamh thời thiếu hụt về vốn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế hặc của các cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trong quá trình phát triển m du cho có sự thay đổi nào có thể ảnh hưởng đến hoạt động của NHTM nhưng hoạt động tín dụng vẫn luôn là hoạt động cơ bản. Tín dụng trung dài hạn là một hình thức tín dụng ngân hàng, nó có vai trò quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng. - Tín dụng Ngân hàng tạo ra lợi nhuận cho NHTM. Không có hoạt động tín dụng thì không thể có NHTM. Các NHTM là những trung gian tài chính lớn nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc khơi nguồn vốn từ những nơi chưa có điều kiện sinh lời đem cho vay ở những nơi có cơ hội sinh lời. Như vậy, hoạt đọng chủ yếu của NHTM một mặt thu hút các nguồn vấn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội, mặt khác phân phối nó dưới hình thức cho vay để thu lợi nhuận. NHTM hoạt động theo 3 nghiệp vụ chính: nghiệp vụ nợ( huy động tạo nguồn vốn), nghiệp vụ có( cho vay đối với nền kinh tế) và nghiệo vụ trung gian. Ba nghiệp vụ trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mặc dù cả 3 nghiệp vụ đền quan trọng trong hoạt động vủa một ngân hàng thương mại, nhưng nghiệp vụ cho vay vẫn đóng vai trò quan trọng nhất vì đó là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Việc cho vay thường mang lại lợi tức cao nhưng mức độ rủi ro trong nghiệp vụ cho vay thường cao hơn các loại dịch vụ hoặc ngành sản xuất dịch vụ khác. Bởi vậy, các Ngân hàng nếu muốn tồn tại và phát triển buộc phải tìm nhiều biện pháp thực hiện việc đầu tư vốn nhằm bảo đảm thu được hiệu quả cao, đồng thời giảm rủi ra đến mức thấp nhất. Việc đầu tư vốn là một nghiệp vụ chủ yếu nhưng cũng rất phức tạp đối với các NHTM. Khi tiến hành cho vay, các Ngân hàng đều phải tính toán cẩn trọng và phải tôn trọng những nguyên tắc tín dụng nhất định. Tuy nhiên, đối tượng vay vốn rất đa dạng và Ngân hàng trên thực tế không thể lường trước được hết mọi rủi ro. - Tín dụng trung dài hạn vừa mang lại lợi nhuận đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Tín dụng trung dài hạn là hoạt động mang tính chiến lược của các NHTM. Với những khởn tín dụng trung dài hạn coá quy mô lớn, lãi suất cao mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, đồng thời thu hút khách hàng đến với ngân hàng minh nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường - Khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng của mình trong tương lai, tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của mình trong nền kinh tế. Khi ngân hàng không đa dạng hoá hoạt động cho vay, đa dạng hoá khách hàng, thời hạn vay tiền thì ngân hàng không thể đứng vững được trong nền kinh té thị trường với sự cạnh trong gay gắt của các ngân hàng khác. - Mặt khác tín dụng trung dài hạn còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi NHTM, đồng thời là cách để ngân hàng gọi vốn có hiệu quả, thu được lợi nhuận qua đó phát triển hoạt động của mình, tăng cường khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác. - Thông qua tín dụng trung dài hạn, ngân hàng thực hiện chức năng xã hội của mình. Thực hiện nghiệp vụ tín dụng, ngân hàng đã thể hiện vai trò người tài troẹ lớn đối với toàn bộ nền kinh tế, góp phần mở rộng vốn đầu tư, gia tăng sản phẩm xã hội và cải thiện đời sống nhânh dân. Đối với nền kinh tế -Tín dụng ngân hàng tác động có hiệu quả đến nhịp độ phát triển kinh tế, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ là công cụ kinh tế phục vụ cho tất cả các mặt hoạt động kinh tế xã hội. Trong lĩnh vực và kinh doanh hàng hoá dịch vụ, mọi chu kỳ đều bắt đầu bằng tiền và kết thúc cũng bằng tiền, tạo điều kiện để tái mở rộng sản xuất. Trong chu kỳ này, tăng nhanh vòng quay vốn tiền tệ là một trong các yếu tố quan trọng quyết định thành công trong sản xuất kinh doanh. Để rút ngắn thời gian nhằm tăng nhanh vòng quay vốn mỗi chủ thể kinh doanh phải chủ động thực hiện nhiêuu biện pháp như đổi mới công nghệ đa dạng hoá các mặt hàng, mở rộng thị trường, hoàn thiện nghệ thuật quản trị kinh doanh những việc làm này cũng đòi hỏi một lượng vốn lớn, tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu về vốn đó theo nguyên tắc vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian như trong thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp nguyên tắc trên bị vi phạm thì tổ chức kinh tế phải chịu phạt về kinh tế như phải chịu lãi xuất quá hạn cao hơn lãi suất thông thường hoặc bị tước quyền vay vốn hay bị tước đoạt tài sản thế chấp để tránh những hậu quả kinh tế đó, các tổ chức kinh tế phải tìm cách tăng nhanh vòng quay của vốn thu hồi vốn để trả nợ và lãi vay ngân hàng đúng hạn. Chính vì vậy, các tổ chức kinh tế phải không ngừng đổi mới để cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường. Có thể nói tín dụng ngân hàng đã gián tiếp thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường, thúc đẩy kinh tế phát triển. -Tín dụng trung dài hạn có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhạn, tăng tỷ trọng các ngánh sản xuất vật chất, là nền tảng cho phát triển kinh tế đất nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt cuãng như lâu dài. Đầu tư cho vay trung dài hạn trực tiếp hay gián tiếp góp phần phát triển khoa học công nghệ, tạo công ăn việc làm, ổn định lạm phát, nâng cao đời sống của dân cư, phát triển lực lượng lao động giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định -Tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng trung dài hạn nói riêng làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi trong lưu thông, đáp ưng nhu cầu vốn cho tái cản xuất mở rộng. Trong nền kinh tế thường xuyên xuất hiện các nguồn vốn bằng tiền tạm thời nhà rỗi của cá thạnh phần kinh tế, đồng thời cần đuợc giải quyết. Lúc này tín dụng ngân hàng là công cụ để giải quyết mâu thuẫn đó về cung cầu vốn tiền tệ. Thông qua chức năng phân phối lại vốn theo nguyên tắc có hoàn trả của tín dụng, các nguồn vốn được đưa vào luân chuyển thông qua hệ thống NHTM, tạo cơ sở thúc đẩy luân chuyển vật tư hàng hoá và sử dụng vốn có hiệu quả lớn hơn. Nhu cầu về vốn tăng lên theo mức độ phát triển, sản xuất kinh doanh đòi hỏi tín dụng ngân hàng đáp ứng nhu câu tăng đó. Tín dụng ngân hàng đóng vai trò tích luỹ tập trung vốn, nhờ có công cụ tín dụng các doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, nền kinh tế có thể tái sản xuất mở rộng nhanh chóng hơn, Đặc biệt đối với tín dụng trung dài hạn, nó giúp các doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung hoạt động một cách liền mạch, không ngắt quảng và là một kênh truyền dần vốn có hiệu quả. Thông qua cho vay trung dài hạn mà xâu dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, góp phần đẩy nhanh qúa trình tái sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển kinh tế. -Tín dụng trung dài hạn là đòn bẩy kinh tế quan trọng trong quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư vốn ra nước ngoài và kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá là hai lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế thông dụng. Vốn là nhân tố quyết định đầu tiên cho việc thực hiện quá trình này. Lúc này NHTM sẽ là trợ thủ đắc lực về vốn cho các nhà đầu tư và kinh doanh xuất nhập khẩu. ở các nước đang phát triển như nước ta, để thực hiện được các chính sách phát triển kinh tế cần thiết phải thu hút và tiếp nhận các khoản viện trợ ban đầu, vay nợ của các nước phát triển thông qua các hình thức tín dụng quốc tế. Từ đó tạo môi trường thuận lợi cho việc đầu tư vốn làm động lực cho sự tăng trưởng kinh tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoat_dong_tin_dung_trung_dai_han_tai_ngan_hang_thuong_mai_0974.pdf