Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển

Lời mở đầu Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Invesment - FDI) là một hình thức của đầu tư quốc tế. Nó ra đời và phát triển là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế và quá trình phân công lao động quốc tế theo chiều sâu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được xem như chiếc chìa khóa của sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Thông qua đó cho phép các nước sở tại thu hút được các công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến . nhằm khai thác lợi thế so sánh của đất nước mình, thúc đẩy xuất khẩu, tăng năng lực cạnh tranh, điều chỉnh và dịch chuyển cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi thị trường khu vực và thế giới. Chiến lược mở cửa để dần đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ chương thực hiện cách đây hơn 10 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chiến lược này là chủ chương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ nhằm mục tiêu giải quyết nạn khan hiếm về vốn cho đầu tư phát triển xã hội mà còn nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, cung cấp cho nền kinh tế nước nhà những máy móc, quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất nhiều mặt hàng có chất lượng và hàm lượng kỹ thuật cao, góp phần thúc đẩy phát triển nội sinh nền kinh tế đất nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp cộng nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành cùng với việc áp dụng hàng loạt các chính sách khuyến khích đầu tư của Chính phủ cho một nền kinh tế mở cửa, 38 quốc gia và hàng trăm các tập đoàn, Công ty nước ngoài đã đầu tư và đang tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt nam, một thị trường mà các chuyên gia nước ngoài đánh giá là còn nhiều tiềm năng để khai thác. Để xây dựng Việt nam trở thàng một trong những điểm hấp dẫn các nhà đầu tư trong khu vực, cần phải nhận thức rõ thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt nam, từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu, khoa học nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư nước ngoài để từ đó tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy việc thu hút đầu tư nước ngoài phù hợp với thực tiễn. Đó là lý do thôi thúc tôi lựa chọn đề tài: “Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam - Thực trạng và giải pháp phát triển”. Kết cấu khoá luận: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, Khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về Đầu tư nước ngoài ở Việt nam. Chương II: Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài ở Việt nam. Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt nam.

pdf71 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1852 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc ngoài tại Việt Nam, một số hợp đồng liên doanh ở tình trạng bất hợp lý, tiếp nhận công nghệ lạc hậu, vai trò của bên Việt Nam trong liên doanh bị lấn át. Có không ít trường hợp các dự án liên doanh tiếp nhận những công nghệ kém hiệu quả, trang thiết bị đã qua sử dụng mà lại bị tính với giá quá cao, có khi cao hơn giá gốc đến 50%. Việc góp vốn của bên nước ngoài cũng không theo đúng quy định trong hợp đồng liên doanh, cả về phương thức góp vốn, tiến độ góp vốn cũng như việc đánh giá các yếu tố góp vốn. Đây cũng là một bài học quan trọng mà phía Việt Nam phải rút kinh nghiệm để quy định thật rõ ràng khi ký kết hợp đồng cũng như theo dõi chặt chẽ trong quá trình triển khai hợp đồng liên doanh. 2.5. Chuyển giao công nghệ Vấn đề chuyển giao công nghệ ở Việt nam còn nhiều yếu kém. Theo đánh giá của một số chuyên gia công nghệ thì chỉ có khoảng 30-40% số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp nhận được công nghệ thích hợp, đó là công nghệ đạt được trình độ nhất định và mang lại hiệu quả kinh tế tương đối cao; phần còn lại là những công nghệ, hoặc là có trình độ kỹ thuật cao Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 45 nhưng không phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta, hoặc là có trình độ lạc hậu và do đó không đạt hiệu quả kinh tế mong muốn. Có ngành như sản xuất bia tuy hiệu quả kinh tế khá cao nhưng không phải là ngành thiết yếu mà quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài lại quá lớn (khoảng 500 triệu USD) nên đã gây ra mất cân đối giữa cung và cầu, tạo ra sự cạnh tranh gay gắt không cần thiết. Còn ngành thuốc lá, đây là ngành công nghiệp gây tác hại cho sức khỏe con người và ở nhiều nước đang được hạn chế nhưng vừa qua ở Việt Nam cũng có lượng vốn đầu tư đáng kể, điều đó sẽ gây nên hậu quả không tốt sau này. 2.6. Trình độ quản lý Trong quá trình triển khai hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam việc tổ chức quản lý ở một số dự án thiếu chặt chẽ, thiếu bình đẳng nên đã gây thua thiệt cho phía Việt Nam, không những về phía nhà nước mà cả về phía tập thể và đối với người lao động. Không ít trường hợp công nhân bị ngược đãi, làm việc trong những điều kiện độc hại, cường độ lao động quá cao mà không có thiết bị bảo hộ lao động, đãi ngộ không thỏa đáng. Việc quản lý về mặt nhà nước đôi khi thiếu chặt chẽ, công tác thanh tra, kiểm tra thiếu kịp thời và thường xuyên. Đội ngũ cán bộ quản lý bên Việt Nam làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài có một bộ phận còn yếu về trình độ chuyên môn và chưa được rèn luyện về bản lĩnh và tinh thần dân tộc nên đã gây ra những thiệt thòi cho phía Việt Nam. 2.7. Chảy máu chất xám Trong quá trình triển khai hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã phát sinh một số tác động tiêu cực như gây ra việc chảy máu chất xám từ khu vực cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp quốc doanh của Việt Nam sang khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như một số tác động tiêu cực khác trong lĩnh vực văn hóa - xã hội. Do các doanh Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 46 nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trả lương tương đối cao nên một số cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý được nhà nước ta đào tạo trong nhiều năm đã chuyển qua làm việc cho họ mà các doanh nghiệp này không cần phải đầu tư cho khâu đào tạo cũng như không chịu trách nhiệm về các chi phí bảo hiểm xã hội sau này. Những nhược điểm và yếu kém nêu trên là không nhỏ nhưng nó cũng là tình trạng phổ biến đối với nhiều quốc gia nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vấn đề ở đây không phải là từ đó đặt ra câu hỏi lớn về việc có tiếp tục triển khai hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian tới nữa hay không mà là ở chỗ cần phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu để khắc phục những yếu và nhược điểm đó. IV- MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Từ tình hình thực tế gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài hơn 10 năm qua, các nhà quản lý kinh tế của Việt mam đang trăn trở với những vấn đề mới nảy sinh đòi hỏi được giải quyết để thu hút nhiều hơn và có hiệu quả hơn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội và thúc đẩy nền kinh tế Việt nam phát triển. Kết quả nghiên cứu các vấn đề cụ thể trong hoạt động sản xuất của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể cho phép rút ra nhũng kết luận cần thiết và hình thành nên các chính sách phù hợp với thực tiễn và quy luật phát triển. Vậy thực tiễn thời gian qua đã đặt ra những vấn đề gì đối với các nhà quản lý kinh tế của Việt Nam ? Có thể nêu ra một số vấn đề cần quan tâm sau đây : - Nguyên nhân thất bại của các dự án; - Bài học về công tác vận động và thu hút vốn đầu tư; - Kinh nghiệm rút ra trong việc tiếp nhận và thẩm định, cấp giấy phép cho các dự án; - Thành công và thiếu sót trong công tác quản lý các dự án. Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 47 1. Nguyên nhân thất bại của các dự án 1.1. Tiến độ dự án Như phần trên đã trình bày, những dự án bị thu hồi giấy phép hoặc gặp khó khăn, chậm triển khai chủ yếu do các nguyên nhân : Bên Việt Nam yếu về trình độ quản lý, không đủ sức xử lý các vấn đề phát sinh, làm cho Hội đồng quản trị mất đoàn kết, mâu thuẫn kéo dài dẫn đến giải thể xí nghiệp; biến động phức tạp của thị trường và giá cả làm đảo lộn những tính toán ban đầu của dự án, do vậy đẩy các chủ dự án vào thế không thể tiếp tục thực hiện dự án được, phải chấp nhận kết thúc. Môi trường đầu tư ở một vài địa phương không thuận lợi để thực hiện dự án, không thuận lợi cả về mặt hạ tầng cơ sở cũng như về mặt dư luận xã hội do sự thiếu nhất trí trong các cơ quan lãnh đạo địa phương và quần chúng, do chưa rõ chủ trương và bị ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân. 1.2. Đối tác đầu tư Đối với Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động mới mẻ, do đó, còn thiếu kinh nghiệm trong việc lựa chọn đối tác. Thời gian đầu, dường như hầu hết các tổ chức và cá nhân nước ngoài nào vào Việt nam đầu tư đều được chấp nhận. Đến giai đoạn sau, 2-3 năm trở lại đây, các cơ quan quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam đã rút ra được kinh nghiệm trong việc lựa chọn đối tác, loại bỏ dần những công ty nước ngoài vào Việt Nam với mục đích chủ yếu là để làm môi giới đầu tư. 1.3. Cấp giấy phép đầu tư Song song với tình hình trên, việc cấp giấy phép đầu tư ồ ạt, thiếu chọn lựa các đối tác thích hợp để hợp tác đầu tư cũng là một thiếu sót. 1.4. Trình độ quản lý Trình độ quản lý, kiến thức và kinh nghiệm hoạt động đầu tư trực tiếp của Việt Nam còn yếu. Các cán bộ trực tiếp tham gia trong các Hội đồng quản trị và Ban giám đốc các xí nghiệp liên doanh, hoặc nói rộng ra là cả Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 48 những cán bộ ở các cơ quan quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp từ địa phương đến trung ương của Việt Nam, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu công tác. Phải nhận ra rằng, thời gian qua, số cán bộ này chưa được đào tạo một cách cơ bản, do vậy hiểu biết về luật pháp nói chung và luật pháp liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp còn yếu. Nhiều cán bộ không biết ngoại ngữ, nên không thể xử lý kịp thời tình huống xảy ra tại các liên doanh. Cùng với hệ thống quản lý ở các cấp chậm được hình thành, phân công phân cấp chưa rõ ràng, nên các sự việc xảy ra chậm xử lý. Bộ Kế hoạch & Đầu tư khi tổng kết vấn đề này đã đặc biệt nhấn mạnh đến thực tế là trong thời gian qua, các cơ quan chủ quản (các Bộ, Uỷ ban nhân dân địa phương) đã chưa thực sự quan tâm, coi trọng đúng mức việc chọn lựa cán bộ tham gia hợp tác đầu tư; còn có hiện tượng tuỳ tiện, nể nang trong việc bố trí cán bộ và buông lỏng quản lý, kiểm tra hoạt động của họ. Việc thay đổi đột biến giá cả đầu vào hoặc đầu ra đều ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án. Trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đây là điều khó lường trước được, chỉ loại trừ đối với các nhà đầu tư có tầm chiến lược và dày dạn kinh nghiệm, biết kịp thời xoay chuyển tình thế. 2. Quá trình vận động và thu hút vốn FDI. Để thu hút được vốn đầu tư trực tiếp trước hết phải có phương pháp tiếp cận phân loại đối tác để lựa chọn được loại đối tác có tiềm năng, có uy tín. Thời gian qua đã có những cơ hội tốt để thực hiện điều đó, vì đã có nhiều tập đoàn và Công ty có tên tuổi trên thế giới vào Việt Nam tìm hiểu khả năng đầu tư. Đáng tiếc rằng, cơ chế nhiều đầu mối trong giao dịch tiếp xúc với bên ngoài và sự yếu kém của hệ thống quản lý và truyền đạt thông tin, đã làm hạn chế kết quả thăm dò để hiểu rõ được các đối tác, và kịp thời thiết lập các mối quan hệ thường xuyên với họ. Việt Nam cũng chưa xây dựng được một hệ thống “ăng ten” ở bên ngoài để nghiên cứu các đối tác. Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 49 Còn ở trong nước, thiếu sự chuẩn bị một các kỹ càng danh mục các dự án ưu tiên gọi vốn đầu tư nước ngoài. Như phần trên đã trình bày, do các địa phương và các ngành chưa có quy hoạch về các dự án hợp tác đầu tư trực tiếp với nước ngoài, nên danh mục các dự án đưa ra gọi vốn đầu tư trực tiếp với nước ngoài nhiều khi chưa được sự nhất trí cao trong nội bộ Việt nam. Có thể do chưa thấy hết tầm quan trọng của công tác này, có địa phương, có ngành còn đưa ra các dự án chưa được tính toán và chuẩn bị kỹ, số liệu không đầy đủ. Điều này đã gây khó khăn cho quá trình vận động đầu tư, giới thiệu dự án và đàm phán cụ thể, làm giảm sức hấp dẫn của danh mục dự án đã ban hành. Trong 1-2 năm gần đây, công tác chuẩn bị, xây dựng danh mục dự án và gọi vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã có tiến bộ, phần nào khắc phục được các tồn tại trên. Tuy vậy, việc xây dựng danh mục dự án ưu tiên phù hợp với quy hoạch của địa phương và ngành, phù hợp với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế vẫn cần được quan tâm thích đáng hơn trong thời gian tới. 3. Thẩm định và cấp giấy phép. Trong giai đoạn một vài năm đầu gọi vốn đầu tư trực tiếp, cơ quan quản lý Nhà nước của Việt Nam về hợp tác đầu tư khó có thể từ chối các dự án xin cấp giấy phép hoạt động. Các cán bộ chuyên môn của Việt Nam lúc đó chưa thể có ngay được các kinh nghiệm trong công tác xét duyệt này. Thời gian đó phương tiện kỹ thuật và thông tin còn bị hạn chế, do vậy công tác thẩm định dự án còn có thể bỏ sót nhiều vấn đề quan trọng như việc xác định năng lực của các đối tác, khả năng tiêu thụ của thị trường, nguồn nguyên liệu đầu vào, giá trị thiết bị, xây dựng và sản xuất... điều đó giải thích vì sao phần lớn các dự án đổ bể thuộc các năm đầu thực hiện Luật đầu tư nước ngoài. Đến nay, sau hơn 10 năm tiếp nhận, thẩm định và cấp giấy phép cho các dự án, Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã ban hành một mẫu hồ sơ mới đơn giản hơn mẫu hướng dẫn trước đây, giúp các nhà đầu tư nhanh chóng hoàn thành hồ sơ dự Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 50 án để xin cấp giấy phép hoạt động. Vấn đề đáng đề cập đến trong công tác này là thủ tục xét duyệt còn rườm rà, nhất là ở khâu xét duyệt của các địa phương, mà chủ yếu là ở thành phố Hồ Chí Minh. Để nhận được sự chấp thuận của địa phương, các nhà đầu tư trong nước phải qua hai bước. Bước một là trình duyệt dự án tiền khả thi. Bước hai là trình duyệt dự án chính thức đã thoả thuận với đối tác nước ngoài. Thời gian thẩm định các dự án ở địa phương còn kéo dài. Các vấn đề quan tâm của “Hội đồng” thẩm định ở địa phương, gồm đại diện của nhiều ngành, còn rất rộng, gây không ít phiền phức cho các chủ đầu tư, chưa nói đến các hiện tượng tiêu cự có thể có trong công tác thẩm định dự án này. Tất cả các điều đó đều là những bài họ bổ ích cho công tác quản lý Nhà nước về thẩm định dự án và cấp giấy phép trong giai đoạn tới. 4. Công tác quản lý các dự án đã được cấp giấy phép. Quản lý tốt xí nghiệp sau khi được cấp giấy phép đầu tư là nhân tố quyết định bảo đảm thành công của hợp tác đầu tư. Thực tế chứng tỏ việc hình thành dự án, thẩm định cấp giấy phép đầu tư đã khó, nhưng khó khăn hơn nhiều là thực hiện dự án quản lý hoạt động của xí nghiệp. 4.1. Thủ tục cấp phép Đầu tiên phải nói đến các thủ tục phải thực hiện đối với một dự án sau khi được cấp giấy phép. Trước đây, nhiều nhà đầu tư quan niệm rằng, sau khi được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp giấy phép xong là mọi thủ tục đã xong. Xí nghiệp được hình thành bởi giấy phép đã cấp, đã có thể triển khai việc đóng vốn và đi vào hoạt động, nhưng thực tế đã không phải như vậy. Đối với các xí nghiệp liên doanh, ngoài các thủ tục hành chính như đăng ký hoạt động, đăng ký địa điểm với chính quyền địa phương, khắc dấu, mở tài khoản... còn phải xin được giấy phép cấp đất và giấy phép xây dựng. Thực tế không có dự án nào không có việc sử dụng đất và cải tạo cơ sở hiện có hoặc xây dựng mới. Thủ tục cấp đất còn kéo dài có thể do quy định phân cấp quản Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 51 lý đất hiện nay và còn kéo dài hơn nếu còn phải giải quyết việc di dân và đền bù cho việc di dân đó. Thủ tục cấp giấy phép xây dựng cũng còn khá phức tạp. Các chủ dự án phải nộp nhiều hồ sơ thiết kế. Nhiều khi phải sửa đổi, bổ sung thiết kế nhiều lần, phải sửa đổi cả các chi tiết thiết kế nhỏ bên trong công trình. Các công việc trên đã làm kéo dài thời gian triển khai dự án. Có các dự án phải sau 6 tháng hoặc 1 năm được cấp giấy phép đầu tư mới có giấy phép cấp đất, giấy phép xây dựng. 4.2. Quản lý dự án Thời gian qua các cơ quan quản lý Nhà nước của Việt nam còn tập trung chú ý nhiều đến các khâu ban đầu như vận động đầu tư, thẩm định và cấp giấy phép cho các dự án, nhưng việc quản lý các dự án còn bị coi nhẹ. Gần đây, từ thực tế đổ bể của nhiều dự án, công tác quản lý Nhà nước đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được coi trọng hơn. Việc chưa phân định rạch ròi, cụ thể nhiệm vụ quyền hạn giữa các cơ quan Nhà nước nhất là giữa Bộ Kế hoạch & Đầu tư, các Bộ, ngành khác có liên quan và Uỷ ban Nhân dân địa phương đang dần được khắc phục. Tuy nhiên trong công tác quản lý Nhà nước đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn tồn tại những vấn đề sau đây cần được khắc phục: bộ máy quản lý đầu tư ở các Bộ và địa phương chưa định hình, kể cả ở các đơn vị có nhiều dự án; chế độ thông tin báo cáo chưa thành nề nếp; các cơ quan Nhà nước không nắm chắc được tình hình hoạt động của xí nghiệp. Nhiều vấn đề phát sinh trong xí nghiệp chậm được xử lý, làm kéo dài tình trạng sản xuất đình trệ làm xấu môi trường đầu tư. Trong nhiều trường hợp việc xử lý các vụ việc trong liên doanh không theo đúng luật pháp, thiên về sử dụng biện pháp hành chính như đối với xí nghiệp quốc doanh mà không tính đến đặc thù của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chính sách xuất khẩu thuế hay thay đổi... đã tạo tâm lý không ổn định trong các nhà đầu tư. Việc một số cơ quan và địa phương tự ý đề ra những quy định riêng về quản lý xí nghiệp, Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 52 về tiền thuê đất, về giá bán điện... trái với quy định chung của Nhà nước, làm cho các nhà đầu tư hoài nghi chính sách và luật pháp của Việt nam. Ngoài ra còn nhiều vấn đề khác như xác định giá trị và quản lý vốn góp của mỗi bên, quản lý tài chính ở các xí nghiệp... Tất cả những vấn đề trên cần được tổng kết để định ra những chính sách và quy định phù hợp. Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 53 Chương III một số Giải pháp nhằm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt nam I- TRIỂN VỌNG THU HÚT ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM 1. Thuận lợi: Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, nguồn vốn đầu tư nước ngoài gồm cả đầu tư trực tiếp (FDI) và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) trong năm 2001 đều rất khả quan về mức huy động lẫn mức sử dụng. Đến cuối tháng 12/2001, FDI đã thu hút được trên 3 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký và đạt 2,3 tỷ USD vốn đầu tư thực hiện. Trong khi đó ODA, số vốn được hợp thức hoá bằng các hiệp định ký kết với các nhà tài trợ cũng đạt gần 2,2 tỷ USD với mức giải ngân khoảng 1,5 tỷ USD. Nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước cho rằng, năm 2001 Việt Nam đã lấy lại được đà phát triển của nguồn vốn đầu tư nư- ớc ngoài. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2001 có bốn nét nổi bật đáng chú ý. 1.1. Đối tác đầu tư Phần lớn các dự án được cấp giấy phép đều thuộc các nhà đầu tư Hà Lan, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Đài Loan...vừa có vốn lớn lại nắm công nghệ tiên tiến, hiện đại và năng lực quản lý điều hành thực hiện các dự án hiệu quả. Hầu hết các dự án này đều nằm trong các khu công nghiệp và khu chế xuất, đã được xây dựng cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh, do vậy nhanh chóng đi vào sản xuất. 1.2. Phát triển các lĩnh vực trọng điểm Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 54 Trên 90% tổng số vốn này tập trung vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng với 373 dự án, tổng số vốn đăng ký là 2,066 tỷ USD, tăng 30% so với năm 2000, riêng các lĩnh vực sản xuất công nghiệp nặng chiếm trên 70%. 1.3. Đóng góp ngân sách Trừ một số dự án như Dự án khí Nam Côn Sơn, phần lớn các dự án khác đều có 100% vốn đầu tư nước ngoài, quy mô vừa và nhỏ, sản phẩm phục vụ xuất khẩu chiếm phần lớn. Chính nhờ nguồn vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động ngày một tăng nên tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp trong công nghiệp đã tăng từ 25,09% năm 1995 lên 35,4% năm 2000 và năm 2001 đã chiếm 35,6% của toàn ngành công nghiệp Việt Nam. Năm 2001, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 3,6 tỷ USD (chưa kể dầu khí) tăng 9% so với năm trớc, tuy chưa đạt kế hoạch nhưng đã tăng gấp đôi mức chung của cả nước. Mục tiêu đến năm 2005 khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15% tổng sản phẩm trong nước (GDP), 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và 10% tổng thu ngân sách cả nước có thể thực hiện được. 1.4. Đẩy mạnh các chính sách ưu đãi Chính phủ, các Bộ, các ngành, các tỉnh, thành phố, Ban quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất đều thực hiện các biện pháp tháo bỏ rào cản, khuyến khích, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2003 được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá sẽ là năm Việt nam đón nhận nhiều dự án. Nghị quyết của Chính phủ về nâng cao hiệu quả, sử dụng đầu tư nước ngoài đã đề ra hệ thống giải pháp tương đối toàn diện, nhằm tháo gỡ khó khăn đối với hoạt động doanh nghiệp và cải thiện môi trường đầu tư để thu hút thêm nguồn vốn mới. Hơn thế nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, với đà tăng trưởng ngày càng tăng; môi trường chính trị, xã hội tiếp tục ổn định. Dự báo năm nay có nhiều khả năng gia tăng dự án đầu tư mới và mở rộng quy mô dự án của Hàn Quốc, Nhật bản, Đài Loan, Hồng Kông trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. Tiếp đó là khả năng gia tăng đầu tư của Mỹ, EU trong các Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 55 lĩnh vực dầu khí, hoá chất, dược phẩm, công nghệ, thông tin … Tuy nhiên, trong năm 2003 cũng như các năm tiếp theo, Việt nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt hơn trong thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là với nước láng giềng Trung Quốc, các nước ASEAN. Đặc biệt tình hình tỷ lệ đầu tư nước ngoài vào các nước đang phát triển nói chung, ASEAN nói riêng đang có xu hướng giảm mạnh. Đầu tư nước ngoài của Mỹ vào Việt nam được nhận định là có thể sẽ tăng sau Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Đầu tư nước ngoài của EU những năm qua có tỷ trọng gia tăng vào lĩnh vực dầu khí và điện, nhưng khả năng đầu tư vào các dự án trong năm 2003 của EU chưa chính thức. Ngoài ra các Tỉnh, Thành cũng thực hiện mọi biện pháp cải tiến, mở rộng cửa để thu hút các nhà đầu tư vào Tỉnh mình. Điển hình, trong năm 2003, ngân sách Nhà nước cấp cho hoạt động đầu tư xây dựng Khu công nghiệp Dung Quất sẽ tăng khoảng 11% so với năm 2002. Nguồn vốn này sẽ được Ban Quản lý Khu công nghiệp Dung Quất tập trung thực hiện một số công trình trọng điểm như kè chắn cát, các trục đường phía Đông và Tây khu Công nghiệp, Trường đào tạo nghề giai đoạn 2, đường Dung Quất- Chu Lai-Kỳ Hà. Nguồn vốn ODA và vốn tín dụng phát triển sẽ tập trung cho dự án: thiết bị, Trường đào tạo nghề, Bệnh viện Dung Quất giai đoạn 1 và dự án sản xuất, chế biến và đầu tư hạ tầng kỹ thuật Phân khu công nghiệp Sài Gòn - Dung Quất. Các doanh nghiệp cũng dự kiến đầu tư nạo vét luồng cảng bến số 1, triển khai xây dựng 2 bến cảng tổng hợp số 1 và 2, mở rộng hệ thống cấp điện, cấp nước, bưu chính Viễn thông đảm bảo phục vụ cho các nhà đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất. 2. Khó khăn: 2.1. Về phía Việt nam Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, việc thu hút và sử dụng đồng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam trong thời gian qua còn tồn tại nhiều vấn đề sau: Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 56 Tuy đã có nhiều cố gắng trong cải thiện môi trường đầu tư nhưng môi trường đầu tư của nước ta chưa thực sự tạo nên một động lực mạnh mẽ đối với nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là những vướng mắc trong cơ chế quản lý đầu tư, trong cơ chế kiểm tra giám sát tài chính và tính thiếu nhất quán trong hệ thống điều hành trong khu vực đầu tư nước ngoài. Vẫn còn tồn tại những chênh lệch rất lớn cũng như những khác biệt quá nhiều trong chính sách thu hút đầu tư những khu vực khác nhau, tạo nên sự thiếu nhất quán trong thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài. Giá cả về sử dụng cơ sở hạ tầng của Việt nam còn khá đắt so với các nước trong khu vực, điều này làm giảm mạnh khả năng cạnh tranh của Việt nam trong thu hút đầu tư nước ngoài. Nguồn lực về lao động và cán bộ quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ, kỹ năng … của các nhà đầu tư nước ngoài. Sự cạnh tranh và điều tiết thị trường nội địa làm cho các chủ đầu tư nước ngoài mất cơ hội đầu tư, nhất là các lĩnh vực đầu tư đạt lợi nhuận cao như khách sạn, văn phòng, căn hộ … Các thủ tục hành chính còn phiền hà (đặc biệt là thủ tục cấp phép xây dựng, thẩm duyệt thiết kế, xây dựng, chứng chỉ quy hoạch, cấp đất …) Nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào Việt nam hoạt động không có hiệu quả. Hầu hết các dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam chưa thể hiện việc các nhà đầu tư mang công nghệ mới, hiện đại của thế giới vào Việt Nam. Lợi dụng sự ưu đãi, khuyến khích đầu tư của nước ta, nhiều nhà đầu tư đưa vào Việt Nam các công nghệ, thiết bị không đồng bộ. Nhiều dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh đối với các doanh nghiệp Việt nam theo cách giảm tỉ lệ hàng xuất khẩu để tranh giành thị trường nội địa Việt Nam. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bán ra thị trường các loại hàng hoá rất đắt so với nước sở tại và so với các nước lân cận. Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 57 2.2. Về phía nước ngoài Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã bộc lộ không ít những khía cạnh tiêu cực ngoài mong muốn đối với nước tiếp nhận đầu tư sau: Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có thể bất chấp những đòi hỏi tôn trọng truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc, khai thác tài nguyên quá mức, không quan tâm tới việc xử lý ô nhiễm môi trường, bóc lột người lao động bản xứ bằng nhiều hình thức gây mâu thuẫn và làm nảy sinh nhiều vấn đề mới trong xã hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có thể lợi dụng khai thác những mặt yếu kém của Chính phủ và các doanh nghiệp nước sở tại để khai vống giá trị máy móc thiết bị công nghệ vốn góp, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, giảm lợi ích của nước nhận đầu tư. Chẳng hạn năm 1995, Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác và Đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã thuê Công ty SGS (Societe General de Surveilance) giám định lại giá trị máy móc thiết bị của 14 doanh nghiệp liên doanh và phát hiện 6 doanh nghiệp trong số trên đã khai vống giá trị thiết bị với tổng số 13.173 triệu USD (Báo Việt nam đầu tư nước ngoài, số 119 ngày 18/7/1995). Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có thể làm tăng sự phụ thuộc về vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ của nước nhận đầu tư vào phía nước ngoài. Trong điều kiện nền kinh tế mở, nếu bản thân các doanh nghiệp trong nước có sức cạnh tranh yếu thì với sự xuất hiện của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài sẽ dẫn đến sự lũng đoạn và giảm sút hiệu quả sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, bởi vì các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thường chiếm ưu thế về kỹ thuật, về vốn và kinh nghiệm tổ chức quản lý so với doanh nghiệp trong nước. Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 58 II- NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THU HÚT CÓ HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM. 1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI 1.1. Việt Nam cần phải tiếp tục xây dựng, điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đấu tư trực tiếp nước ngoài, tạo diều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI phát triển theo đúng địng hướng phát triển kinh tế-xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xây dựng, hoàn thiện này cần theo hướng: thiết lập mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh, tiến tới xoá bỏ dần sự phân biệt về chính sách đầu tư có liên quan đến quyền , nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trước mắt, rà soát lại tất cả các loại giá cả hàng hoá, dịch vụ, lệ phí do nhà nước qui định… để có sự điều chỉnh hợp lý, thu hẹp và tiến tới áp dụng mặt bằng giá thống nhất đối với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. 1.2. Cần phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới ; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư mới như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn; sửa đổi bổ sung Nghị định số 103/199/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 1999 của chính phủ về giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước, theo hướng cho phép nhà đầu tư FDI mua trên 30% cổ phần doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước ; Việt Nam cũng cần học tập nước ngoài như Trung Quốc là nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế mở. + Triển khai thực hiện thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công tỷ cổ phần, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này được niêm yết tại thị trường chứng khoán. Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 59 + Nghiên cứu sửa đổi Nghị định 62/NĐ-CP các quy định liên quan để đẩy nhanh việc hình thành và triển khai các dự án BOT theo hướng trong một số trường hợp cần thiết, Thủ tướng Chính phủ chỉ định hoặc chọn nhà đầu tư nước ngoài làm dự án BOT, quy định cụ thể về thời hạn đàm phán dự án BOT. + Nghiên cứu thí điểm việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập công ty quản lý vốn, công ty mẹ – công ty con hoạt động theo mô hình đa mục tiêu, đa hình thức + Nghiên cứu đề án áp dụng hình thức đầu tư mua lại và sát nhập (M&A) để mở thêm kênh mới thu hút đầu tư nước ngoài theo một số điều kiện nhất định. + Nghiên cứu ban hành các quy định về quy chế hoạt động của các Quỹ đầu tư. Nhằm tạo điều kiện cho các nhà đầu tư FDI nói riêng và đầu tư nước ngoài nói chung có được một „sân chơi‟ rộng lớn hơn, cần phải mở rộng lĩnh vực thu hút FDI phù hợp với cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. + Tăng cường thu hút đầu tư để Việt nam sớm trở thành một trong các trung tâm sản xuất khu vực về điện tử; cơ khí chế tạo; tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển mạnh các ngành công nghiệp hỗ trợ. + Đẩy nhanh tiến độ hình thành các dự án đầud tư nước ngoài có quy mô lớn. + Rà soát các quy định về tạm dừng hoặc hạn chế cấp giấy phép đầu tư nước ngoài để xem xét, nới lỏng điều kiện đầu tư phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường theo cam kết hội nhập khu vực và quốc tế. + Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài để góp phần cải thiện cuộc sống và sinh hoạt, ăn ở của người dân, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài (trường học, bệnh viện, nhà ở, khu vui chơi giải trí, thể thao, đô thị, trò chơi có thưởng) + Rà soát để mở rộng những lĩnh vực được hưởng ưu đãi khuyến khích hoặc đặc biệt khuyến khích đầu tư. Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 60 + Ban hành kịp thời các chính sách để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực đầu tư vào khu công nghệ cao, kinh doanh bất động sản, dịch vụ phân phối, giáo dục, đào tạo. + Ban hành quy chế khu công nghệ cao và chính sách ưu đãu thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật cao. + Nghiên cứu, sửa đổi Nghị định 60/CP của Chính phủ ngày 5 tháng 7 năm 1994 về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị và Nghị định 61/CP ngày 5 tháng 7 năm 1994 về mua bán và kinh doanh nhà ở phù hợp với quy định của Bộ Luật dân sự và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai. + Ban hành ngay các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách, quy định về hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, dạy nghề, nghiên cứu khoa học theo Nghị định 06/2000/NĐ-CP ngày 6/3/2000 của Chính phủ để vừa tăng cường thu hút được những dự án đầu tư có chất lượng vừa quản lý được hoạt động của các dự án đầu tư trong lĩnh vực này. + Ban hành các quy định cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư cung cấp dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước theo tinh thần Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 3/07/2000 của Chính phủ. Thu hẹp danh mục hàng hoá không thuộc đối tượng doanh nghiệp đầu tư nước ngoài mua để xuất khẩu. Từng bước mở cửa thị trường bất động sản cho ngưòi Việt Nam định cư ở nước ngoài và các nhà đầu tư FDI tham gia đầu tư tại Việt Nam; xây dựng cơ chế để doanh nghiệp FDI được xây dựng và kinh doanh nhà ở, phát triển khu đô thị mới; đồng thời để nhanh chóng bắt kịp với trình độ khoa học kỹ thuật , tiếp cận sâu rộng hơn với khu vực và thế giới, nhà nước ta cần khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ khoa học công nghệ, dịch vụ thông tin, chuyển giao công nghệ hiện đại, kể cả công nghệ nguồn, phát triển nguồn nhân lực; từng bước mở rộng khả năng hợp tác đầu tư trông lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch- những lĩnh vực còn nhiều tiềm năng. Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 61 1.3. Đẩy nhanh việc thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trước mắt, thống nhất áp dụng phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí cảng biển, phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Rà soát có hệ thống các loại phí, lệ phí đang áp dụng liên quan đến quá trình hoạt động của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, bãi bỏ các loại phí không cần thiết. Giảm các chi phí đầu vào (điện, viễn thông, dịch vụ cảng ...) bằng hoặc thấp hơn các nước trong khu vực để giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Kiến nghị sửa đổi những bất hợp lý về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân liên quan đến đầu tư nước ngoài. 1.4. Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ phù hợp với yêu cầu kinh doanh của nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài có nhu cầu chuyển tiền ra nước ngoài cũng như đưa vốn vào Việt nam kinh doanh. Vì vậy việc kết hối ngoại tệ sẽ gây sự hạn chế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó việc tiếp tục giảm dần, tiến tới xoá bỏ kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện là việc cần thiết. Đồng thời sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ, chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. 1.5. Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình phát triển KT- XH của đất nước và cam kết quốc tế theo hướng đơn giản hóa các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư FDI. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư FDI sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phâm cho phép các dự án sản xuất nguyên liệu phụ trợ hàng XK được hưởng ưu đãi tương tự như các dự án đầu tư sản xuất hàng XK. 1.6. Đẩy mạnh các tiến trình XNK và bảo hộ đầu tư Việc bảo hộ phải có thời hạn hợp lý có hiệu quả, và chỉ đối với một số sản phẩm quan trọng. Việc bảo hộ sản xuất trong nước phải được đặt trong bối cảnh Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 62 Việt Nam tham gia ASEAN, AFTA và chuẩn bị gia nhập WTO, nghĩa là sẽ phải chấp nhận cạnh tranh ác liệt do xu thế tự do hoá đầu tư và thương mại mang đến. Do đó bảo hộ sản xuất không chỉ là riêng cho doanh nghiệp Việt Nam mà cả doanh nghiệp FDI trên đất Việt Nam vì nó là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế Việt Nam, là pháp nhân Việt Nam. Bảo hộ sản xuất phải có điều kiện và phải có thời gian hợp lý để doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thiết bị nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ hơn giá nhập khẩu; kiên quyết không bảo hộ những cung cách làm ăn không có hiệu quả, lạc hậu, cản bước tiến của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 1.7. Giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án. Thí điểm cho phép các tư nhân trong nước đã được cấp quyền sử dụng đất lâu dài được cho các nhà đầu tư FDI thuê lại đất trong thời hạn cấp quyền sử dụng đất. Nghiên cứu cách giải quyết yêu cầu của doanh nghiệp nước ngoài đầu tư thực hiện dự án lớn ở Việt Nam cần thế chấp giá trị quyền sử dụng đất đã được giao hoặc cho thuê dài hạn để vay vốn của các tổ chức tín dụng hoạt động ở nước ngoài trong trường hợp các tổ chức tín dụng ở Việt Nam không có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn. 1.8. Triển khai xây dựng đề án hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài theo hướng tạo lập một mặt bằng thống nhất về pháp lý và chính sách chủ yếu đối với đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. 1.9. Nghiên cứu có hệ thống tình hình, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước trọng điểm, các tập đoàn lớn; chính sách, biện pháp cải thiện môi trường thu hút, sử dụng đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực để xác lập luận cứ cho việc xây dựng định hướng chiến lược và chính sách đầu tư nước ngoài của Việt nam. 2. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 63 2.1. Nâng cao trách nhiệm của các Bộ, các ngành, uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh trong việc quản lý các doanh nghiệp FDI theo luật định, bảo đảm hiệu quả hoạt động của các trung tâm xử lý „nóng‟; định kỳ tiếp xúc với các doanh nghiệp, đối thoại với các nhà đầu tư FDI để tìm hiểu những vướng mắc của họ. 2.1.1. Đẩy mạnh việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp Cần mạnh dạn hơn nữa trong việc phân cấp, uỷ quyền hơn nữa cho các địa phương trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI trên đại bàn để đơn giản hơn nữa thủ tục, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. Việc phân cấp này phải trên cơ sở đảm bảo bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về qui hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế; trong đó chú trọng phân cấp quản lý Nhà nước đối với hoạt động sau giấy phép của các dự án FDI; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, ngành Trung ương. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ chương phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả việc phải chấm dứt hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai qui định. Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án FDI đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp FDI. Đối với doanh nghiệp đã đi vào sản xuất, kinh doanh, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi thẩm quyền của mình, cần động viên khen thưởng kịp thời để khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động tốt tiếp tục phát triển, đồng thời cần có những biện pháp thích hợp để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, nhất là vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế. 2.2.2. Tháo gỡ các vướng mắc của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài Đối với các dự án đang triển khai thực hiện, các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần tích cực doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, nhất là trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng để nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ bản, đưa doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh. Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 64 Đối với các dự án chưa triển khai, song xét thấy có khả năng thực hiện, cần thúc đẩy viêc triển khai trong một thời gian và giải quyết các vướng mắc, kể cả việc điều chỉnh mục tiêu và quy mô hoạt động của dự án. Đối với các dự án chưa triển khai và không có triển vọng thực hiện, cần kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư, dành địa điểm cho nhà đầu tư khác. 2.2. Kiểm soát chặt chẽ việc thành lập mới các khu công nghiệp (KCN) và đánh giá tình hình triển khai các KCN đã có quyết định thành lập; bổ sung các mô hình về KCN nhỏ phục vụ cho việc phát triển ngành nghề ở nông thôn và chỉnh trang đô thị; điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển hạ tầng trong và ngoài hàng rào; tách việc cho thuê đất nguyên thổ và kinh doanh hạ tầng. 3. Cải tiến các thủ tục hành chính Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư FDI. Nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối trung ương và ở địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư FDI. Để tạo bước căn bản về thủ tục hành chính, cần thực hiện các giải pháp sau: - Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư FDI; phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; duy trì thường xuyên việc tiếp xúc của cơ quan quản lý Nhà nước với các nhà đầu tư FDI. - Cải tiến các thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư FDI theo hướng tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục cấp phép đầu tư , mở rộng phạm vi các dự án thuộc diện đăng ký cấp phép đầu tư; rà soát có hệ thống tất cả các loại giấy phép,các qui định liên quan đến hoạt động FDI, trên cơ sở đó bãi bỏ những loại giấy phép, qui định không cần thiết đối với hoạt động FDI. - Các Bộ , các ngành và địa phương phải qui định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính, đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục không cần thiết; kiên Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 65 quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm cuả cán bộ công quyền. 4. Đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư Khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ở giai doạn đầu thì các chủ đầu tư nước ngoài còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư như „bà mối‟ giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện để họ nhanh chóng đi đến làm ăn với nhau. Có thể nói xúc tiến đầu tư tác động trực tiếp tới FDI, là công cụ để chuyển những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống, khuyến khích tác động đến các nhà đầu tư tiềm tàng ở nước ngoài. đồng thời cần phải xúc tiến đầu tư vì có quá nhiều cơ hội đầu tư trên thế giới, sự lựa chọn của nhà đầu tư là phải tiên lượng thông tin kịp thời và chính xác trên cơ sở so sánh mức độ sinh lợi và rủi ro. Cạnh tranh thu hút FDI cũng là cạnh tranh trong lĩnh vực xúc tiến, vận động đầu tư. Chúng ta cần phải có những biện pháp xúc tiến sau: 4.1. Đổi mới phương thức vận động, xúc tiến đầu tư - Đẩy mạnh vận động đầu tư một cách chủ động theo các chương trình, dự án trọng điểm ; xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể, hướng vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực về tài chính và công nghệ nguồn như: Châu Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ, Nga…tiếp tục vận động nhà đầu tư Nhật Bản, Đài Loan, Singapore có tiềm lực, thế mạnh ở những lĩnh vực ta có nhu cầu; có kế hoạch vận động trực tiếp các tập đoàn có tiềm lực về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ… - Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại Giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương Mại trong việc nghiên cứu thị trường đầu tư thế giới và khu vực, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính…, phối hợp trao đổi thông tin: tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại từ bên ngoài thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại nước ngoài của Việt Nam ở các nước và địa Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 66 bàn trọng điểm để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau với các tổ chức xúc tiến đầu tư nước ngoài quốc tế; trước hết là trong khuôn khổ của ASEAN, APEC, hợp tác ASEAN-ÂU, hợp tác với các cơ quan xúc tiến đầu tư của Nhật, Mỹ, các nước EU và các tổ chức quốc tế khác… Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập hiệp hội hoặc câu lạc bộ các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam; Tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan xúc tiến thương mại của các nước ở Việt Nam để giới thiệu luật pháp, chính sách , quảng bá các chương trình, dự án đầu tư; Tổ chức định kỳ các cuộc gặp cộng đồng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp FDI đang đầu tư tại Việt Nam. Công bố danh mục dự án gọi vốn FDI ; soạn thảo in tài liệu,sách phổ biến luật pháp, chính sách về FDI bằng các thứ tiếng thông dụng như Anh, Pháp, Nhật, Trung Quốc… Đồng thời, các bộ các ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh thành phố phải chủ động và có trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo đàm phán, ký kết hợp đồng các dự án FDI. 4.2. Chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án FDI mới và các hoạt động hỗ trợ các nhà đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án FDI đang hoạt động. Giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc để các nhà đầu tư FDI hoạt động thuận lợi. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các doanh nghiệp, nhà FDI có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, có đóng góp thiết thực vào xây dựng đất nước. Đồng thời phê phán, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam. - Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạt động hợp tác xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác AIA, ASEAN, APEC, ASEM, các cuộc hội thảo về đầu tư ở trong và ngoài nước; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng Internet, tiếp xúc trực tiếp… Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 67 - Đẩy mạnh việc tuyên truyền giới thiệu về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để tạo dựng hình ảnh mới về Việt Nam; tạo sự đánh giá thống nhất về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong dư luận xã hội. - Các cơ quan đại diện ngoại giao - thương mại Việt Nam có trách nhiệm làm tốt việc vận động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam, bố trí cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm. Tăng cường cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư ở các Bộ, ngành, địa phương. - Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương. - Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp; nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. - Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin về đầu tư trực tiếp nước ngoài làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách, quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng tuyên truyền đối ngoại trên cơ sở sử dụng thông tin hiện đại. Xây dựng và đưa vào trang Web về đầu tư trực tiếp nước nước ngoài để phục vụ việc cung cấp thông tin cập nhật về chủ chương, chính sách pháp luật về đầu tư, giới thiệu các dự án kêu gọi đầu tư, biểu dương những dự án thành công. 5. Xây dựng một đội ngũ cán bộ có năng lực, công nhân kỹ thuật có trình độ cao trong khu vực FDI Vấn đề tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công nhân lành nghề luôn là nhiệm vụ hàng đầu của công tác quản lý Nhà nước. Trước hết, trong liên doanh các cán bộ bên Việt Nam là người đại diện cho quyền lợi phía Việt Nam nên họ phải là những người có đủ năng lực chuyên môn, trình độ ngoại ngữ . Có như vậy, họ mới đảm bảo được lợi ích cho doanh nghiệp Việt Nam, cho người lao động Việt Nam khi cần, tránh tình trạng bị „lép vế‟ trước bên nước ngoài. Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 68 Tiếp đến, đối với những công nhân làm việc trong doanh nghiệp có vốn FDI, bao gồm cả liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài, nghĩa là bao gồm cả hình thức có lãnh đạo doanh nghiệp FDI là người Việt Nam hay không, thì ngoài trình độ tay nghề cũng phải có một hiểu biết nhất định về luật pháp, chẳng hạn như luật lao động, thì mới biết bảo vệ những lợi ích hợp lý của mình. Muốn vậy, cần phải: - Tổ chức bồi dưỡng, năng cao trình độ về luật pháp, chính sách, chuyên môn, ngoại ngữ đối với đội ngũ cán bộ làm hợp tác với nước ngoài. - Thí điểm hình thức thi tuyển hoặc có cơ chế bổ nhiệm hợp lý các chức vụ quan trọng trong liên doanh. Rà soát, sàng lọc để nâng cao chất lượng cán bộ, chấm dứt tình trạng hễ có đất góp vốn thì mặc nhiên được cử người của mình tham gia vào Hội Đồng Quản Trị và Ban Giám Đốc. - Phối hợp với Bộ lao động, Thương binh và xã hội và các doanh nghiệp nước ngoài tổ chức tốt việc nâng cao tay nghề cho người lao động. * * * Tóm lại, để thu hút có hiệu quả FDI, cần thiết phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau nhưng lại gắn bó rất chặt chẽ với nhau như trên. Một mặt, Việt Nam cần tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, mặt khác cần tạo dựng lòng tin và sự hiểu biết về đầu tư tại Việt Nam cho các nhà đầu tư nước ngoài. Phải biết kết hợp lợi ích của cả hai bên, tức là trong khi theo đuổi mục tiêu tổng thể kinh tế - xã hội mà Việt Nam đã đề ra thì chính phủ Việt Nam cũng phải cần quan tâm đến lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài; trong trường hợp có sự mâu thuẫn về mục đích gây ảnh hưởng tới bên này hoặc bên kia, thì hai bên cần có sự thảo thuận để có thể tối đa hoá các điều kiện và lợi ích của nhau, bởi về nguyên tắc FDI chỉ phát huy tốt nhất khi thoả mãn tốt nhất mục đích, quyền lợi hai bên. Nhưng có lẽ thuyết phục hơn cả đối với các nhà đầu tư FDI vẫn là việc Việt Nam cần phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các vụ việc đang được các nhà Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 69 đầu tư quan tâm trên cơ sở quan điểm nhận thức mới nhằm khôi phục lòng tin của họ đối với hoạt động FDI ở nước ta và duy trì mở rộng hoạt động của các „đường dây nóng” không để “ nguội “đi một cách nhanh chóng. Chính những biểu hiện cụ thể này kết hợp với đường lối chính sách mới sẽ tỏ rõ thiện chí và quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc tăng cường thu hút FDI. Nếu làm nhất định ta sẽ thấy hiệu quả của những quết tâm và thiện chí đó. Kết luận Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 70 đầu có nhiều nước, nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư ngày càng cao trở nên bức thiết trong điều kiện của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, của cuộc cách mạng khoa học. Công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển đầu tư của nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế và một trong những chỉ số cơ bản đánh giá khả năng phát triển. Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp về các điều kiện kinh tế, kỹ thuật... Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là “ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI”. Để đạt được mục tiêu nói trên phải thực hiện tổng hợp các biện pháp trong đó việc đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng hàng đầu, và đây cũng là vấn đề mới mẻ đối với nước ta, nó vừa được triển khai trong bối cảnh cạnh tranh công khai quyết liệt trên thị trường đầu tư giữa các nước trên thế giới và khu vực. Thực tế cho thấy rằng đầu tư nước ngoài mà chủ yếu đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là điều kiện cần thiết để bổ sung nguồn vốn phát triển kinh tế quốc dân. Bất cứ nơi nào, bất kỳ nơi nào, bất kỳ ngành nào cũng cần vốn đầu tư để phát triển. Vì vậy cần phải có các giải pháp nhằm thu hút nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và vốn FDI nói riêng sao cho có hiệu quả. Vần đề đặt ra nữa là tiếp nhận vốn đã khó song sử dụng vốn để có được hiệu quả lại càng khó hơn và chỉ khi nào sử dụng có hiệu quả thì việc thu hút đầu tư mới có ý nghĩa thiết thực. Tài liệu tham khảo Kho¸ luËn tèt nghiÖp NguyÔn ThÞ Hång Hoa - A3-CN8 71 1) Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam năm 2000. Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2000. 2) Nghị định 24/2000/NĐ- CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam. 3) Luật đầu tư Nước ngoài của các nước như CHLB Nga, Thai Lan, Indonexia, Hàn Quốc. 4) Báo Việt nam - Đầu tư nước ngoài 5) Báo cáo “Tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 2002 và những giải pháp chính năm 2003” – Bộ Kế hoạch & Đầu tư 6) Nghị định 27/2003/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 24/2000 về quy định chi tiết thi hành Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt nam 7) Quy định 519/TTg ngày 6/8/1996 của Thủ tướng Chính phủ về việc phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng 8) Báo Kinh tế và Đầu tư 9) Báo Đầu tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfHoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển.pdf
Tài liệu liên quan