Có 3 mô hình nuôi cá biển đang áp dụng phổ
biến ở Cát Bà là mô hình nuôi cá giò, mô hình nuôi
cá song và mô hình nuôi ghép cá biển với động vật
thân mềm. Sau 11 – 15 tháng nuôi, mô hình nuôi
ghép cho hiệu quả cao nhất, tiếp theo là mô hình
nuôi cá song và cá giò.
Nghề nuôi cá lồng biển ở Cát Bà vẫn gặp
khó khăn liên quan đến sự biến động thời tiết, con
giống, kỹ thuật nuôi và vốn đầu tư. Bên cạnh đó, cá
thường mắc các bệnh do vi khuẩn, vi rút, nấm và ký
sinh trùng.
Cần tiến hành một số giải pháp liên quan đến
kỹ thuật, quy hoạch và chính sách nhằm phát triển
nghề nuôi cá bằng lồng trên biển tại Cát Bà theo
hướng bền vững.
6 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 218 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng và giải pháp phát triển nghề nuôi cá lồng biển tại vịnh Cát Bà - Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
120 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
HIỆN TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHỀ NUÔI
CÁ LỒNG BIỂ N TẠI VỊNH CÁT BÀ - HẢI PHÒNG
TECHNICAL STATUS AND DEVELOPMENTAL SOLUTIONS FOR FINFISH SEACAGE
CULTURE IN CAT BA BAY – HAI PHONG CITY
Nguyễn Ngọc Hưng1, Lại Văn Hùng2, Nguyễn Đình Huy3
Ngày nhận bài: 22/4/2013; Ngày phả n biện thông qua: 16/5/2013; Ngày duyệt đăng: 10/12/2013
TÓ M TẮ T
Điều tra hiện trạng kỹ thuật của nghề nuôi cá lồng biển được thực hiện trong năm 2011 tại vịnh Cát Bà, Thành phố
Hải Phòng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành điều tra, thu mẫu và phỏng vấn 190/575 hộ tại vịnh Cát Bà với ba mô
hình nuôi chính là mô hình nuôi cá giò, mô hình nuôi cá song và mô hình nuôi ghép cá biển với động vật thân mềm. Kết quả
cho thấy, mật độ cá thả tùy thuộc vào loài và kích cỡ cá giống, dao động từ 50 – 500 g/con thả với mật độ 15 – 25 con/m3.
Cá được cho ăn thức ăn chính là cá tạp với hệ số FCR từ 5,0 – 5,5. Trong quá trình nuôi, người nuôi gặp những khó khăn
về con giống (100%), kỹ thuật nuôi (87,8%) và vốn đầu tư (94,4%) và thời tiết (83,3%). Bên cạnh đó, cá thường mắc các
bệnh do vi khuẩn, virut, nấm và ký sinh trùng. Sau 11 – 15 tháng nuôi/vụ, cá đạt kích cỡ từ 0,8 – 6,5 kg/con tùy thuộc
vào loài và ký thuật nuôi. Mô hình nuôi ghép đạt hiệu quả kinh tế cao nhất với lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận đạt được
126,7 triệu đồng/bè/vụ và 56%. Nghiên cứu cũng đề xuất một số giải pháp liên quan đến kỹ thuật, quy hoạch và chính sách
nhằm phát triển nghề nuôi cá bằng lồng trên biển tại địa phương theo hướng bền vững.
Từ khóa: cá biển, Cát Bà, giải pháp, hiện trạng, kỹ thuật nuôi, lồng bè
ABSTRACT
The survey on the status of sea cage fi nfi sh culture was conducted in 2011 in Cat Ba bay, Hai Phong city. In this
survey, we investigated, collected information and interviewed 190 in the total of 575 farmers in Cat Ba bay with three
cultured models namely cobia culture, groupers culture and intergated culture of fi nfi sh and mollusk. Result showed that
stocking density depended on seed size ranging from 50 – 500 g/fi sh stocked at density of 15 – 25 fi sh/m3. Fish were
completely fed by trash fi sh with the feed conversion ratio ranging from 5.0 – 5.5. During the cultured periods, farmers
had diffi culty in buying seed (100%), cultured techniques (87.8%) and capital investment (94.4%) and affected weather
(83.3%). In addition, fi sh were infected by various kinds of diseases including bateria, viruses, fungii and parasites. After
11 – 15 months, fi sh gained 0.8 – 6.5 kh/fi sh depending on species and cultured techniques. The intergated model obtained
the highest economic effi ciency with profi sts and profi t rate of 126.7million VND/cage/crop and 65%, respectively. The
survey also put forward a large number of solutions related to techniques, plans and policies in order to develop the marine
fi nfi sh culture industry in Cat Ba bay conformable to the sustainable directions.
Keywords: Cat Ba, culture techniques, marine fi nfi sh, sea cage, solution, status
1 Nguyễn Ngọc Hưng: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2009 - Trường Đại học Nha Trang
2 PGS.TS. Lại Văn Hùng, 3 ThS. Nguyễn Đình Huy: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vùng biển Cát Bà, với 366 hòn đảo và 29.000
ha diện tích mặt nước, có tiềm năng rất lớn để phát
triển nghề nuôi các đối tượng hải đặc sản. Đây cũng
là vùng biển có nhiều dãy núi và đảo che chắn đã
tạo ra các eo, vũng, vịnh kín gió rất phù hợp cho
nuôi cá bằng lồng trên biển [8]. Trong những năm
qua, được sự quan tâm của chính quyền và các cơ
quan chức năng, nghề nuôi cá lồng bè ở vịnh Cát
Bà đã không ngừng được đầu tư và tạo điều kiện
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 121
thuận lợi để phát triển tương xứng với tiềm năng [7].
Từ năm 2001 – 2009, nghề nuôi cá lồng bè tại vịnh
Cát Bà đã cung cấp cho nhu cầu thị trường 3.200 -
3.500 tấn cá/năm. Đồng thời, sự phát triển của nghề
này đã giải quyết việc làm cho 2.000 - 2.500 lao
động, giúp gia tăng thu nhập và cải thiện đời sống
của nhiều hộ ngư dân địa phương [7, 10]. Cũng
trong khoảng thời gian này, số lượng lồng bè đã
có sự gia tăng đáng kể từ 900 lồng nuôi năm 2001
lên tới 11.650 lồng nuôi năm 2009 [7]. Đồng thời,
sản lượng cũng có sự gia tăng mạnh mẽ từ 243 tấn
năm 2001 lên đến 3.670 tấn năm 2009. Năng suất
trung bình của nghề nuôi cá lồng tại vịnh Cát Bà đạt
315 tấn/ô lồng/năm [9, 10].
Nghề nuôi cá bằng lồng trên biển tại Cát Bà phát
triển mạnh mẽ với các đối tượng nuôi chính, có giá
trị kinh tế cao như cá song (Epinephelus spp), cá giò
(Rachycentron canadum), cá hồng mỹ (Sciaenops
ocellatus), cá chẽm (Lates calcarifer), cá chim vây
vàng (Trachinotus blochii), cá tráp (Pagrus major),
cá hồng bạc (Lutjanus argentimaculatus) [11, 12].
Tuy nhiên, do chạy đua theo lợi nhuận, phát triển
thiếu quy hoạch nên nghề nuôi cá bằng lồng trên
biển ở Cát Bà hiện nay cũng gặp nhiều khó khăn
liên quan đến nguồn vốn, khả năng cung cấp con
giống chất lượng cao, các mô hình và kỹ thuật nuôi
bền vững, các giải pháp quản lý môi trường và
phòng trừ dịch bệnh. Sự cạnh tranh về lợi ích kinh
tế giữa các ngành nghề khác như du lịch, vận tải
biển, khai thác hải sản,... cũng đang tạo ra những
thách thức không nhỏ cho việc phát triển nghề nuôi
cá biển tại Cát Bà [2, 5, 13]. Nghiên cứu được thực
hiện nhằm đánh giá hiện trạng nghề nuôi cá bằng
lồng trên biển tại Cát Bà và đề xuất một số giải pháp
phát triển theo hướng bền vững.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁ P NGHIÊN CỨ U
Nghiên cứu được thực hiện trong năm 2011 và
2012 thông qua việc điều tra các hộ nuôi cá bằng
lồng trên biển tại vịnh Cát Bà – huyện Cát Hải –
thành phố Hải Phòng. Số liệu thứ cấp về tình hình
nuôi cá bằng lồng trên biển được thu từ Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Báo cáo kết quả
nuôi trồng thủy sản (2005 - 2010) từ Chi cục Nuôi
trồng thủy sản, Phòng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng.
Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phương
pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và phương
pháp điều tra qua phiếu (QS) [14]. Số hộ nuôi cá
lồng biển trên vịnh Cát Bà (575 hộ) được căn cứ
trên cơ sở báo cáo nhanh của Chi cục Nuôi trồng
thủy sản thành phố Hải Phòng và Phòng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cát Hải. Số mẫu
điều tra cho mỗi vùng nuôi trong nghiên cứu này được
tính toán theo công thức của Yamane (1967) [14].
Theo đó, tổng số mẫu điều tra là 190/575 mẫu phân
bổ ngẫu nhiên về các hộ nuôi trên toàn bộ vịnh Cát
Bà lần lượt là: 72/256 hộ nuôi cá giò, 69/223 hộ nuôi
cá song và 49/96 hộ nuôi ghép cá biển với động vật
thân mềm.
Các mẫu sau khi tính toán được phân bổ một
cách ngẫu nhiên về các vùng nuôi tương ứng
bằng cách sử hàm phân bố ngẫu nhiên Rand trong
Microsoft Excel 2003. Những thông tin chính được
thu thập gồm: đặc điểm hệ thống lồng/bè nuôi, đối
tượng nuôi, chọn giống và thả giống, các biện pháp
quản lý thức ăn, môi trường, phòng trị bệnh, năng
suất, sản lượng và sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế.
Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp nhằm phát
triển nghề nuôi cá lồng biển của địa phương theo
hướng bền vững.
III. KẾ T QUẢ NGHIÊN CỨ U VÀ THẢ O LUẬ N
1. Hiện trạng nghề nuôi cá lồng bè tại Cát Bà
1.1. Hệ thống lồng bè
Kết quả điều tra cho thấy, nghề nuôi cá lồng
bè trên biển hiện đang sử dụng hệ thống lồng nổi
với kích thước 3 x 3 x 3 m (88,9%), còn lại là dạng
lồng có kích cỡ 6 x 3 x 3 m (11,1%). Lưới lồng làm
bằng sợi cước polyethylen (PE) kích cỡ mắt lưới
2a = 1,5 – 5,0 cm. Miệng lồng được buộc chặt vào
khung gỗ. Các góc đáy lồng được buộc đá hoặc bê
tông đảm bảo cho lưới chìm đều. Đáy lồng đặt cách
đáy 1m so với mức nước thấp nhất khi thủy triều xuống.
Hình 1. Bè nuôi cá biển ở Cát Bà – Hải Phòng
Vật liệu làm khung bè để buộc lồng là xà gỗ có
kích cỡ 420 x 15 x 6 cm. Các xà gỗ được nối với nhau
bằng các bu lông có đường kính từ 1,2 - 1,5 cm.
Khung gỗ được giữ nổi trên mặt nước nhờ hệ
thống phao nhựa và phao xốp. Mỗi khung lồng cần
khoảng 6 – 8 phao. Mỗi bè nuôi có từ 10 - 16 ô lồng
được ghép lại với nhau. Trên khung bè, các hộ nuôi
thường dựng một nhà nhỏ khoảng 10 – 12 m2 cho
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
122 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
công nhân ở và là nơi cất trữ trang thiết bị nuôi.
Toàn bộ bè được neo cố định một chỗ bằng cách
thả neo trên cả 4 góc của bè (50 kg/neo, dây PE
φ = 2,5 - 3 cm, chiều dài dây gấp 5 - 7 lần chiều dài bè).
1.2. Nguồn giống và thả giống
Tuy là một trong những địa phương đứng đầu
về nghề nuôi cá lồng bè trên biển nhưng nguồn
giống được cung cấp từ Trung tâm Quốc gia Giống
hải sản Miền Bắc (Cát Bà) chỉ đáp ứng 35%, trong
khi nguồn ngoại tỉnh (bao gồm cả Trung Quốc)
chiếm tới 60%, nguồn giống do người dân thu vớt
từ tự nhiên chiếm một phần không đáng kể (5%).
Các đối tượng được nuôi phổ biến ở vịnh Cát Bà là
cá song chiếm 40%, cá giò chiếm 35%, cá hồng mỹ
chiếm 10%, cá chẽm chiếm 10%, các loài các khác
chiếm 5%.
Mật độ thả nuôi tùy thuộc vào từng loài cá và
kích cỡ cá giống. Đối với các loài cá song, cá hồng
mỹ, cá vược 71,1% người dân thường thả cá có
kích cỡ 50 – 100 g/con, mật độ 20 – 25 con/m3. Đối
với cá giò 87,6% người dân thường thả với mật độ
100 – 500 g/con, mật độ 15 – 20 con/m3.
Bảng 1. Mật độ và kích cỡ cá thả
Cá song, cá hồng mỹ,
cá chẽm Cá giò
Kích cỡ cá
(g/con)
Mật độ nuôi
(con/m3)
Kích cỡ cá
(g/con)
Mật độ nuôi
(con /m3)
< 50 40-60 100-500 15-20
50-100 35-40 500-1.000 10-15
100-300 25-35 1.000-2.000 7-10
300-500 20-25 2.000-3.500 5-7
500-1.000 15-20 3.500-5.000 3-4
> 1.000 10-15 > 5.000 2-3
Điều đáng chú ý là đa số người nuôi không
quan tâm đến chất lượng con giống, có tới 88,9%
hộ nuôi không kiểm tra bệnh cá giống trước khi thả.
Trong số 11,1% số hộ có kiểm tra chất lượng giống,
các phương pháp kiểm tra chỉ bằng cảm quan, dựa
trên kinh nghiệm bản thân, Do đó, chất lượng cá
giống không được đánh giá đầy đủ, nhất là trong
các trường hợp cảm nhiễm các tác nhân vi rút, vi
khuẩn, nấm và ký sinh trùng.
1.3. Thức ăn và kỹ thuật cho ăn
Hiện nay, 100% số hộ nuôi sử dụng thức ăn
chính là cá tạp như cá trích, cá cơm, ruốc... do
giá thành của cá tạp tương đối rẻ, sẵn có và dễ
chế biến. Người nuôi không sử dụng thức ăn công
nghiệp do giá thành cao và tốc độ sinh trưởng chậm
hơn so với cá tạp. Giá cá tạp mua tại lồng trung
bình 14.000 đ/kg, giá cá tạp thay đổi thất thường
theo mùa vụ, thấp nhất là 8.500 đ/kg và cao nhất là
18.000 đ/kg. Trước khi cho ăn, thức ăn được rửa
sạch và cắt, băm nhỏ cho phù hợp với kích cỡ của
cá, cá cỡ 10 – 20 cm ăn mồi cỡ 2 cm, cỡ cá trên
20 cm ăn mồi cỡ 5 cm. Khẩu phần thức ăn của cá
phụ thuộc vào loài cá và kích cỡ cá thả, cỡ cá dưới
50 g/con cho ăn 12% khối lượng thân/ngày, cá trên
500 g/con cho ăn 3% khối lượng thân/ngày. Khi cá
nhỏ cho ăn 4 lần/ngày vào 7h, 10h30, 14h, 17h, và
giảm dần số lần cho ăn còn 2 – 3 lần khi cá lớn hơn.
Bảng 2. Thời gian và chế độ cho ăn
Kích cỡ cá
(g/con)
Khẩu phần
thức ăn
(% BW)
Số lần cho ăn
(lần/ngày) Thời gian cho ăn
< 50 12 4 7h, 10h30, 14h, 17h
50-300 7 3 7h, 11h, 17h
300-500 5 2 9h, 17h
>500 3 1 9h hoặc 17h
Việc sử dụng thức ăn là cá tạp có nhiều hạn chế
như hệ số thức ăn (FCR) cao từ 5,8 – 6,5 trong khi
có đến 88,9% số hộ nuôi không kiểm tra mức độ sử
dụng thức ăn của cá sau khi cho cá ăn. Đồng thời,
cá tạp còn là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường
nước nuôi và gia tăng nguy cơ lây nhiễm mầm bệnh
đặc biệt trong trường hợp bảo quản và vệ sinh cá
trước khi cho ăn không đảm bảo [4, 5].
1.4. Quản lý và chăm sóc
Trong quá trình nuôi, lượng thức ăn thừa, các
sinh vật bám và sóng gió có thể gây hư hại lồng
nuôi và ngăn cản sự lưu thông của dòng nước. Do
đó việc thường xuyên theo dõi và vệ sinh lồng nuôi
rất quan trọng, 85,6% số hộ định kì vệ sinh lồng lưới
1 tháng/1lần, và thay lưới mới 2 – 3 tháng/lần. Tuy
nhiên, 100% số hộ nuôi thiếu các dụng cụ kiểm tra
yếu tố môi trường như độ mặn, pH, oxy hòa tan
do đó đã không kịp thời xử lý các sự cố do biến
động môi trường gây nên. Cá nuôi thường có sự
phân đàn sau 2 – 3 tháng nuôi, do đó, 100% số hộ
nuôi tiến hành phân cỡ cá để tránh hiện tượng cá
ăn nhau. Bên cạnh đó, các hộ nuôi cũng quan tâm
đến việc kiểm tra hoạt động của cá (92,2%) hàng
ngày nhằm kịp thời phát hiện và xử lý các sự cố
bất thường.
1.5. Bệnh và biện pháp phòng trị
Theo kết quả điều tra, 100% số hộ nuôi đều
bắt gặp một số bệnh phổ biến trên các loài cá biển
nuôi. Trong đó, bệnh do tác nhân ký sinh trùng, chủ
yếu là nguyên sinh động vật và sán lá đơn chủ gây
nên chiếm tỷ lệ khá cao (45 – 51%). Các bệnh do
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 123
vi khuẩn thường gặp bệnh lở loét, bệnh xuất huyết
đường ruột, bệnh mù mắt trên cá song và cá giò
(32 – 37%) [4, 13]. Các bệnh nấm và vi rút chiếm
tỷ lệ thấp hơn (9 – 27%). Tùy theo mức độ nhiễm
bệnh, loại bệnh cụ thể mà thiệt hại có thể dao động
từ 35 - 80%. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến
việc phát triển nghề nuôi cá bằng lồng trên biển tại
địa phương theo hướng bền vững.
Môi trường ô nhiễm, thức ăn cá tạp chưa đảm
bảo chất lượng, con giống chưa qua kiểm dịch, kỹ
thuật chăm sóc quản lý còn nhiều hạn chế là các
nguyên nhân cơ bản làm xuất hiện và gia tăng nguy
cơ nhiễm bệnh trong quá trình nuôi [4, 13]. Kết quả
điều tra cho thấy, các hộ nuôi thường sử dụng các
biện pháp khác nhau để ngăn ngừa dịch bệnh.
Trong đó, 100% các hộ treo túi vôi vào lồng, 33,3%
số hộ sử dụng thuốc phòng trị bệnh kết hợp với việc
treo túi vôi vào lồng nuôi. Các loại hóa chất và thuốc
phòng trị bệnh được sử dụng phổ biến là formalin,
doxycilin, oxytetraxylin, steptomyxine. Đối với bệnh
lở loét và ký sinh trùng, các hộ nuôi thường tắm cá
bằng nước ngọt kết hới formalin 200 ppm trong thời
gian 5 - 10 phút. Cá bị mắc bệnh nấm và vi khuẩn
khác thường được điều trị bằng hỗn hợp doxycilin
0,3 (g) + oxytetraxylin 0,1 (g) + steptomyxine 0,1 (g) /kg
cá nuôi. Thuốc thường được trộn vào thức ăn
hoặc viên thành viên đút vào trong nội tạng cá tạp
sau đó cho cá ăn. Thời gian cho mỗi lần điều trị
dao động từ 3 - 5 ngày liên tục. Các biện phát phòng
trị bệnh trong nhiều trường hợp cũng mang lại hiệu
quả đáng kể, giảm đến 60% thiệt hại so với trường
hợp không chữa trị, đồng thời, còn hạn chế việc lây
lan dịch bệnh trong hệ thống nuôi.
Bảng 3. Tỷ lệ nhiễm bệnh trên cá nuôi
Tác nhân gây bệnh
Tỷ lệ nhiễm bệnh (%)
Cá song Cá giò Cá hồng mỹ Cá chẽm
Vi khuẩn 34,3 37,8 32,5 37,4
Virut 27,5 23,5 21,6 17,6
Nấm 11 9,1 9,7 12,5
Ký sinh trùng 45,7 43,2 46,2 51,3
1.6. Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế
Kết quả điều tra cho thấy tùy thuộc vào mỗi
mô hình nuôi, mật độ nuôi, loài cá nuôi, nhu cầu
thị trường mà thời gian nuôi và cỡ cá thu hoạch có
khác nhau (bảng 4). Tuy nhiên 100% số hộ đều thu
tỉa cá khi đạt kích thước thương phẩm. Thời gian
thu hoạch thường kéo dài quanh năm tùy theo nhu
cầu thị trường. Sau 11 – 15 tháng, kích cỡ thu hoạch
của các loài cá song, cá hồng mỹ và cá chẽm dao
động từ 0,8 - 1,2 kg/con trong khi cá giò thường thu
hoạch khi đạt khối lượng 3,5 - 6,5 kg/con, các loài
cá còn lại đạt khối lượng 0,9 - 1,5 kg/con.
Bảng 4. Một số thông số kỹ thuật trong các mô hình
Mô hình Mật độ (con/m3)
Cỡ cá thả
(g/con) Thức ăn FCR
Thời gian nuôi
(tháng)
Cỡ cá thu hoạch
(kg/con)
Cá giò 60 ± 8 234 ± 18 Cá tạp 5,5 ± 1,5 14 ± 3 4,5 ± 1,0
Cá song 23 ± 6 121 ± 9 Cá tạp 5,1 ± 1,7 11 ± 2 1,0 ± 0,3
Nuôi ghép 16 ± 4 150 ± 22 Cá tạp 5,0 ± 1,2 13 ± 2 4,5 ± 1,8
Kế t quả phân tí ch hiệu quả kinh tế củ a 3 mô
hình nuôi cá giò, nuôi cá song và nuôi ghép cá biển
với động vật thân mềm cho thấy, mô hình nuôi ghép
mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, tiếp theo đến là mô
hình nuôi cá song và mô hình nuôi cá giò. Tổng giá trị
các sản phẩm của mô hình nuôi cá lồng ghép trung
bình đạt 352,5 triệu đồng/bè/vụ với lợi nhuận 126,7
triệu đồng. Tỷ suất lợi nhuận đạt được ở mô hình
nuôi ghép cũng cao nhất với 56%, tiếp theo là mô
hình nuôi cá song và cá giò với 46,7 và 35,2%.
Bảng 5. Kết quả phân tích so sánh các mô hình nuôi cá lồng tại vịnh Cát Bà
Phân tích
kinh tế Đơn vị tính
Mô hình nuôi
Mô hình nuôi cá giò Mô hình nuôi cá song Mô hình nuôi ghép
Tổng chi phí sản xuất tr.đ/vụ 231,3 ± 16,6a 233,2 ± 18,2a 225,8 ± 24,8a
Tổng thu tr.đ/vụ 312,7 ± 8,3a 342,06 ± 8,9b 352,52 ± 4,3b
Lợi nhuận tr.đ/vụ 81,4 ± 8,9a 108,90 ± 7,1b 126,71 ± 9,3c
Tỷ suất lợi nhuận % 35,2 ± 3,0a 46,7 ± 4,5b 56,0 ± 6,3c
Ghi chú: các chữ cái khác nhau trong mỗi cột thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05).
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
124 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
2. Đánh giá những tác động của nghề nuôi cá
lồng bè tại vịnh Cát Bà
Sự phát triển nghề nuôi cá lồng biển ở vùng
vịnh Cát Bà đã góp phần giải quyết công ăn việc
làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của
nhiều cộng đồng dân cư địa phương. Đồng thời, sự
phát triển của nghề này cũng gián tiếp thúc đẩy các
ngành kinh tế và dịch vụ đi kèm khác cùng phát triển
như khai thác thủy sản, chế biến thủy sản, sản xuất
giống, thức ăn và các trang thiết bị phục vụ nuôi cá
bằng lồng trên biển. Đồng thời, nghề cũng góp phần
cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí địa
phương [10].
Tuy nhiên, sự phát triển của nghề nuôi cá bằng
lồng trên biển tại vịnh Cát Bà còn mang tính tự phát,
thiếu quy hoạch, ảnh hưởng đến cảnh quan và môi
trường biển, xung đột lợi ích với nhiều ngành nghề
kinh tế khác. Một trong những tác động môi trường
có thể thấy rõ là việc sử dụng thức ăn cá tạp nuôi
cá (90 – 95 tấn/ngày), rác thải sinh hoạt là nguyên
nhân gây ô nhiễm môi trường vịnh Cát Bà [5].
Ngoài ra, việc đặt các lồng bè tràn lan, không theo
quy hoạch làm mất cảnh quan môi trường, ảnh
hưởng đến ngành du lịch, gây khó khăn cho các
phương tiện đường thủy khi lưu thông qua vịnh [12].
Về mặt kỹ thuật nuôi, nguồn giống cung cấp cho
nghề nuôi vẫn chưa đảm bảo cả số lượng và chất
lượng (100%). Kỹ thuật nuôi còn đơn giản, các
biện pháp quản lý môi trường và phòng trị dịch
bệnh còn nhiều bất cập (87,8%). Công tác dự báo
và khắc phục các sự cố môi trường còn nhiều hạn
chế (83,3%).
3. Các giải pháp phát triển bền vững
3.1. Về cơ chế và chính sách
Để phát triển nghề nuôi cá bằng lồng trên biển
tại Cát Bà, cần có các chính sách phù hợp liên quan
đến nguồn vốn, sử dụng diện tích mặt nước và hỗ
trợ thiệt hại cho người nuôi. Trên thực tế, hầu hết
người nuôi (94,4%) cá biển ở địa phương đều gặp
khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn để mở rộng
sản xuất, đầu tư cải tiến kỹ thuật nuôi, đào tạo và
tập huấn. Chính vì vậy, nhà nước và chính quyền
địa phương cần phối hợp với ngân hàng tạo điều
kiện cho người dân vay vốn với lãi suất thấp, trong
thời gian dài để tiến hành sản xuất. Bên cạnh đó,
cần tiến hành quy hoạch vùng nuôi, có chính sách
khuyến khích người nuôi thuê và sử dụng diện tích
mặt nước lâu dài [7, 8].
3.2. Về dịch vụ hỗ trợ
Căn cứ trên chiến lược phát triển nuôi trồng
thủy sản quốc gia và địa phương [1, 7], cần có kế
hoạch xây dựng và phát triển các trung tâm nghiên
cứu, sản xuất giống cá biển, hệ thống quan trắc,
cảnh báo và xử lý các sự cố môi trường biển [5].
Khuyến khích các nhà nghiên cứu, công ty thức
ăn thủy sản sản xuất thức ăn công nghiệp thay thế
nguồn thức ăn cá tạp hiện nay. Tăng cường tuyên
truyền tập huấn về kỹ thuật sử dụng thuốc, hóa chất
phòng trừ dịch bệnh cho các hộ nuôi. Đồng thời,
tiến hành kiểm tra, giám sát các cơ sở kinh doanh
thuốc hóa chất về việc tuân thủ các quy định của
nhà nước và tiêu chuẩn ngành.
3.3. Về kỹ thuật, khoa học công nghệ và khuyến ngư
Cần tiến hành điều tra, quy hoạch vùng nuôi
ở những vị trí ít chịu ảnh hưởng của sóng gió, bão
lũ, đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng nước
(độ sâu, dòng chảy, chất đáy, độ mặn, pH,...), ít chịu
ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế khác như khai
thác thủy sản, giao thông thủy, du lịch, nước thải từ
các hoạt động công nghiệp và sinh hoạt của người
dân [3]. Xây dựng các tiêu chuẩn về thiết kế lồng
nuôi (3 x 3 x 3 m), bè nuôi (10 – 30% diện tích mặt
nước), khoảng cách lồng bè (50 – 100 m).
Tập trung nghiên cứu, ứng dụng và triển khai
những công nghệ nuôi hải sản tiên tiến nhằm gia
tăng tính bền vững của mô hình nuôi và áp dụng
cho các hộ nuôi (GAP, CoC,...). Nghiên cứu hoàn
thiện quy trình sinh sản nhân tạo các đối tượng cá
biển hiện được nuôi phổ biến như cá song, cá chẽm,
cá giò, cá hồng mỹ, cá chim vây vàng,... nhằm chủ
động cung cấp nguồn giống có chất lượng đáp ứng
nhu cầu nuôi ngay tại địa phương [6]. Tăng cường
công tác tập huấn, chuyển giao các kỹ thuật, các
biện pháp quản lý môi trường và phòng trị bệnh cho
người nuôi.
3.4. Về bảo vệ môi trường
Xây dựng hệ thống quan trắc và cảnh báo môi
trường tại các vùng nuôi trồng hải sản tập trung
để kiểm soát, cảnh báo và có biện pháp xử lý môi
trường kịp thời. Triển khai giám sát việc thực hiện
quy hoạch và xây dựng các vùng nuôi an toàn. Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong việc kiểm
soát dịch bệnh trên cá nuôi. Hướng dẫn người nuôi
sử dụng thuốc và hóa chất hợp lý, hạn chế các
tác động tiêu cực đến môi trường nuôi [13]. Tăng
cường giáp sát việc thực thi các quy định về bảo vệ
môi trường sinh thái vùng nuôi.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 125
IV. KẾ T LUẬ N
Có 3 mô hình nuôi cá biển đang áp dụng phổ
biến ở Cát Bà là mô hình nuôi cá giò, mô hình nuôi
cá song và mô hình nuôi ghép cá biển với động vật
thân mềm. Sau 11 – 15 tháng nuôi, mô hình nuôi
ghép cho hiệu quả cao nhất, tiếp theo là mô hình
nuôi cá song và cá giò.
Nghề nuôi cá lồng biển ở Cát Bà vẫn gặp
khó khăn liên quan đến sự biến động thời tiết, con
giống, kỹ thuật nuôi và vốn đầu tư. Bên cạnh đó, cá
thường mắc các bệnh do vi khuẩn, vi rút, nấm và ký
sinh trùng.
Cần tiến hành một số giải pháp liên quan đến
kỹ thuật, quy hoạch và chính sách nhằm phát triển
nghề nuôi cá bằng lồng trên biển tại Cát Bà theo
hướng bền vững.
TÀ I LIỆ U THAM KHẢ O
Tiếng Việt
1. Bộ Thủy sản, 2006. Các xu hướng chính phát triển nuôi cá biển, Hà Nội.
2. Ngô Quang Dũng, 2009. Ô nhiễm môi trường ở vùng biển Cát Bà. Bản tin điện tử, Viện Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng.
3. Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2006. Giáo trình kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá biển. Khoa Thủy sản, Trường
Đại học Cần Thơ.
4. Đỗ Thị Hòa, Bùi Quang Tề, Nguyễn Hữu Dũng, Nguyễn Thị Muội, 2006. Bệnh học Thủy sản. NXB Nông nghiệp.
5. Trần Lưu Khanh và Trần Quang Thư, 2011. Chất lượng môi trường một số khu vực nuôi cá bằng lồng bè ven biển Quảng
Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Bà Rịa – Vũng Tàu (phần 1). Tuyển tập Nghiên Cứu Nghề cá biển (tập IV). Viện Nghiên cứu
Hải sản.
6. Đào Mạnh Sơn, 1998. Đặc điểm sinh học, nuôi và sản xuất cá song ở miền Bắc Việt Nam. Tuyển tập các công trình nghề cá
tập 1. NXB Nông nghiệp Hà Nội. Trang 96-125.
7. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng, 2010. Thực trạng phát triển nuôi thủy sản Hải Phòng giai đoạn
2006 - 2010 và phương hướng phát triển đến 2015 - 2020, Hải Phòng.
8. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hải Phòng, 2010. Quyết định 1572/QĐ-UBND ngày 27/9/2010 của UBND thành
phố Hải Phòng về quy hoạch chi tiết phát triển nuôi trồng hải sản trên vùng biển Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến
năm 2020.
9. UBND huyện Cát Hải, 2009. Báo cáo đánh giá thực trạng phát triển nuôi cá lồng bè trên vịnh Cát Bà, Hải Phòng.
10. UBND huyện Cát Hải, 2009. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Quyết định 1572/QĐ-UBND ngày 27/9/2010 của UBND
thành phố Hải Phòng về quy hoạch chi tiết phát triển nuôi trồng hải sản trên vùng biển Hải Phòng đến năm 2015, định hướng
đến năm 2020.
11. UBND huyện Cát Hải, 2010. Báo cáo đánh giá thực trạng phát triển nuôi cá lồng bè trên vịnh Cát Bà, Hải Phòng.
12. UBND huyện Cát Hải, 2011. Báo cáo đánh giá thực trạng phát triển nuôi cá lồng bè trên vịnh Cát Bà, Hải Phòng.
13. Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, 2007. Nghiên cứu tác nhân gây bệnh phổ biến đối với cá mú, cá giò nuôi và đề xuất
các giải pháp phòng trị bệnh. Bản tin số 33.
Tiếng Anh
14. Groves, R., F. Fowler, M. Couper, J. Lepkowski, E. Singer and R. Tourangeau, 2004. Survey Methodology. Wiley Series in
Survey Methodology.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hien_trang_va_giai_phap_phat_trien_nghe_nuoi_ca_long_bien_ta.pdf