Hiện trạng sử dụng sắn và phụ phẩm từ sắn trong chăn nuôi gia súc nhai lại tại Việt Nam

Cây sắn là cây trồng đem lại năng suất, sản lượng cao hiện nay ở Việt Nam. Sắn không chỉ là một loại cây lương thực, cây thực phẩm mà loại cây công nghiệp để tạo ra các sản phẩm như: cồn, đường, bột ngọt, tinh bột.phục vụ ngành chế biến. Ngoài các sản phẩm chính ra, chế biến sắn sẽ tạo ra một lượng phụ phẩm lớn giúp ngành chăn nuôi. Tuy giá trị dinh dưỡng của chúng không cao nhưng cũng đem lại hiệu quả tích cực cho chăn nuôi. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy rằng vấn đề nghiên cứu mức bổ sung, cách thức bổ sung và đưa ra các phương pháp chế biến thích hợp nhằm nâng cao khả năng tận dụng và cải thiện giá trị dinh dưỡng của nguồn phụ phẩm sử dụng trong chăn nuôi vẫn cần tiếp tục được quan tâm nghiên cứu để phát huy tối đa khả năng tiêu hóa của gia súc nhai lại và nguồn phụ phẩm công nông nghiệp ở nước ta hiện nay.

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 262 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiện trạng sử dụng sắn và phụ phẩm từ sắn trong chăn nuôi gia súc nhai lại tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 59 - 63 59 HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG SẮN VÀ PHỤ PHẨM TỪ SẮN TRONG CHĂN NUÔI GIA SÚC NHAI LẠI TẠI VIỆT NAM Nguyễn Thị Hồng Hạnh và Nguyễn Hưng Quang* Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Hiện nay, cây sắn là một cây trồng đóng vai trò quan trọng ở Việt Nam bên cạnh hệ thống các cây lương thực như lúa, ngô và khoai lang. Sắn củ khá giầu năng lượng, nên nó là nguyên liệu sử dụng phổ biến trong chăn nuôi lợn, gia cầm và đại gia súc. Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã thực hiện về việc sử dụng sắn và phụ phẩm từ cây sắn bằng các phương pháp chế biến khác nhau để sử dụng làm thức ăn cho vật nuôi. Để tận dụng tốt nguồn phụ phẩm công, nông nghiệp cho chăn nuôi gia súc nhai lại ở nước ta việc nghiên cứu phương pháp chế biến, bảo quản, mức bổ sung, cách thức bổ sung phù hợp và hiệu quả cần tiếp tục được quan tâm đầu tư. Bã sắn là phụ phẩm của quá trình sản xuất tinh bột sắn, chiếm khoảng 45% khối lượng sắn nguyên củ. Theo các kết quả đã nghiên cứu, có thể sử dụng phương pháp ủ chua bã sắn để dự trữ làm thức ăn cho gia súc nhai lại trong nông hộ. Tuy nhiên, bã sắn có hàm lượng protein thô rất thấp nên khi sử dụng cần bổ sung nguồn thức ăn giàu protein để cân đối dinh dưỡng và mức bổ sung không nên vượt quá 40% so với tổng chất khô trong khẩu phần. Phụ phẩm ngọn, lá sắn được coi là nguồn cung cấp protein sẵn có, rẻ tiền rất tốt cho gia súc nhai lại. Phơi, sấy khô rồi nghiền bột hoặc đem ủ chua là biện pháp bảo quản phù hợp. Theo các kết quả đã nghiên cứu, sử dụng bột lá sắn cho trâu bò ăn ở mức 1 - 1,5kg/con/ngày sẽ cho hiệu quả vỗ béo tốt. Từ khóa: cây sắn, chế biến, bã sắn, dinh dưỡng, gia súc. ∗ ĐẶT VẤN ĐỀ Sắn (Manihot esculenta Crantz) hiện được trồng trên 100 nước có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc ba châu lục: Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh. Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO) xếp sắn là cây lương thực quan trọng ở các nước đang phát triển sau lúa gạo, ngô và lúa mì. Ở Việt Nam, sắn là cây lương thực, thức ăn gia súc quan trọng sau lúa và ngô, Theo số liệu thống kê 2010, tổng diện tích sắn cả nước là 496.200 ha, sản lượng đạt hơn 8,5 triệu tấn. Sắn dễ trồng, phù hợp với nhiều loại đất, vốn đầu tư thấp, phù hợp với khả năng kinh tế của nhiều hộ gia đình nông dân nghèo, thiếu lao động. Các sản phẩm từ cây sắn bao gồm củ, thân, lá đều được có thể sử dụng được, củ sắn dùng để chế biến tinh bột sắn, sắn lát phơi khô, bột sắn nghiền hoặc dùng để ăn tươi [6]. Từ sắn củ tươi hoặc từ các sản phẩm sắn sơ chế tạo thành hàng loạt các sản phẩm công nghiệp như bột ngọt, rượu cồn, mì ăn liền, ∗ Tel:0985588164 gluco, xiro, bánh kẹo, mạch nha, kỹ nghệ chất dính (hồ vải, dán gỗ), bún, miến, phụ gia thực phẩm, phụ gia dược phẩm. Thân sắn dùng để làm giống, nguyên liệu cho công nghiệp xenlulo (cellulose), làm nấm, làm củi đun. Lá sắn non dùng làm rau xanh giàu đạm, dùng để nuôi tằm, nuôi cá, bột lá sắn hoặc lá sắn ủ chua dùng để nuôi lợn, gà, trâu, bò, dê,. GIÁ TRỊ CỦA CÂY SẮN Củ sắn và lá sắn là sản phẩm chính từ cây sắn, là nguồn dinh dưỡng có giá trị, tỷ lệ vật chất khô 27,7%; Protein thô 0,9%; Lipit thô 0,4%; dẫn xuất không đạm 24,7%; khoáng tổng số 0,7%; caxi 0,05%; photpho 0,04% và năng lượng trao đổi (ME) 968 Kcal (Viện Chăn nuôi, 2001) [16]. Bột củ sắn là nguồn thức ăn giàu năng lượng nhưng nghèo protein, tỷ lệ các axit amin không cân đối, nghèo methionine và tryptophan, các chất khoáng, vitamin cũng ít. Một loại phụ phẩm từ củ sắn sau khi chế biến là bã sắn, đây là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất tinh bột của các nhà máy chế biến tinh bột sắn, chiếm khoảng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 59 - 63 60 45% so với khối lượng sắn nguyên củ. Theo Bùi Quang Tuấn (2005) [10], trong bã sắn chứa khoảng 8% tinh bột, 15 - 20% xơ thô. Theo Nguyễn Hữu Văn và cs (2008) [15], khi phân tích hàm lượng các chất trong bã sắn tươi tính theo hàm lượng vật chất khô như sau: giá trị protein thô 3,6%, lipit thô 0,3%; năng lượng thô 4198 Kcal/kg. Hàm lượng HCN là 240mg/kg và pH là 4,21. Việc dự trữ và bảo quản đồng thời làm giảm hàm lượng HCN trong bã sắn để sử dụng trong chăn nuôi cần có các biện pháp phù hợp, hiệu quả. Lá sắn được coi là nguồn protein lý tưởng, được sử dụng làm thức ăn giàu đạm cho vật nuôi. Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn Thưởng (1993) [11], Từ Quang Hiển (1982) [4] hàm lượng protein thô trong vật chất khô của lá sắn tương đối cao, dao động từ 22,6 – 29,9%. Hàm lượng protein biến động tùy theo giống sắn, tuổi thu hoạch, độ phì nhiêu của đất trồng và khí hậu vùng canh tác. Theo Hội chăn nuôi (2003) [7] Thành phần hóa học của bột lá sắn như sau: Vật chất khô 93%; protein thô 16% (16,7 - 39,9%); lipit 5,5% (3,8 - 10,5%); xơ thô 20% (4,8 - 29%); khoáng tổng số 8,5% (5,7 - 12,5%); canxi 1,45%; photpho 0,45%; kẽm 149 mg/kg; mangan 52 mg/kg; sắt 259 mg/kg; đồng 12 mg/kg. Trong lá sắn giàu vitamin C và A, có hàm lượng riboflavin đáng kể, giàu lysine nhưng thiếu methionin. Việc thu hoạch, chế biến, bảo quản và sử dụng lá sắn làm thức ăn cho gia súc sẽ tận dụng được nguồn protein khá lớn, góp phần tăng hiệu quả kinh tế trong cho người nông dân. Trong các bộ phận của cây sắn có chứa độc tố axit xianhydric (HCN) hình thành do thủy phân xyanogen glucoside (C6H17O6N), chất này gây độc cho cơ thể con người và động vật nói chung. Tùy theo từng giống sắn, thời gian thu hoạch mà hàm lượng HCN chứa trong các bộ phận thân, lá và củ sắn sẽ khác nhau. Hàm lượng HCN trong củ sắn nhiều hơn trong lá sắn và tập trung ở vỏ, lõi củ. Dựa vào hàm lượng HCN người ta chia ra hai giống sắn: giống sắn ngọt có chứa khoảng 20 - 30mg/kg củ tươi; giống sắn đắng chứa 60 - 150 mg/kg củ tươi (Mai Thạch Hoành, 2004) [5]. Theo tác giả Phạm Sỹ Tiệp, 1999 [9] lá sắn càng già thì hàm lượng HCN càng thấp, ở những lá non hàm lượng HCN trong cuống lá cao hơn trong phiến lá, còn trong lá già thì ngược lại. Hàm lượng HCN ở những phiến lá búp là 330 - 790 ppm (khối lượng tươi), ở những lá bánh tẻ là 340 - 1040 ppm và ở những lá già là 210 - 730 ppm. Nồng độ HCN trong củ và lá sắn có thể được giảm đi đáng kể bằng các phương pháp như bóc vỏ, nấu chín, thái lát ngâm nước, muối dưa lá, phơi khô và ủ chua. Khi sử dụng các sản phẩm từ sắn làm thức ăn cho vật nuôi cần áp dụng các biện pháp chế biến phù hợp để làm giảm hàm lượng độc tố và bảo quản nguồn thức ăn này được tốt. CHẾ BIẾN, BẢO QUẢN VÀ SỬ DỤNG PHỤ PHẨM TỪ SẮN TRONG CHĂN NUÔI GIA SÚC NHAI LẠI Theo số liệu của thống kê của nước ta, năm 2009 số lượng đàn bò là 6,1 triệu con, đàn trâu gần 2,9 triệu con. Định hướng phát triển đến năm 2020 đàn bò sữa đạt khoảng 500 ngàn con, đang bò thịt đạt khoảng 12,5 triệu con, đàn trâu ổn định với số lượng khoảng 2,9 triệu con [8]. Để đạt được mục tiêu trên một vấn đề cần được quan tâm giải quyết đó là việc đảm bảo nguồn thức ăn thô xanh cho đàn trâu bò. Theo thống kê thì diện tích bãi chăn thả ở nước ta rất hạn chế, năng suất cỏ tự nhiên khá thấp (6 - 8 tấn cỏ tươi/ ha/ năm), việc mở rộng diện tích trồng cỏ gặp nhiều khó khăn, cùng với đặc điểm thời tiết có mùa khô và mùa đông kéo dài dẫn tới thiếu thức ăn xanh cho trâu bò. Là một nước sản xuất nông nghiệp, chúng ta có nguồn phụ phẩm nông nghiệp khá dồi dào như rơm lúa, thân cây ngô, dây lạc, dây lang, ngọn lá sắn, ngọn lá mía... Theo số liệu thống kê của Cục Chăn nuôi [3] lượng phụ phẩm nông nghiệp ước tính hàng năm có khoảng 40 triệu tấn, trong đó rơm khoảng 36,6 triệu tấn, dây khoai lang 0,19 triệu tấn, dây lá lạc 0,45 triệu tấn, ngọn và lá ngô 0,62 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 59 - 63 61 triệu tấn, lá sắn 0,19 triệu tấn, ngọn lá mía 3,0 triệu tấnnhưng tỷ lệ sử dụng chỉ chiếm khoảng 18% (7,5 triệu tấn) còn lại trên 32,5 triệu tấn chưa được sử dụng cho chăn nuôi, chưa tận dụng tốt nguồn phụ phẩm này thông qua chế biến, dự trữ để cung cấp cho gia súc. Việc nghiên cứu các biện pháp chế biến, dự trữ rất cần được thực hiện và phổ biến cho người chăn nuôi. Tận dụng nguồn phụ phẩm từ cây sắn là bã sắn và thân lá sắn để chăn nuôi gia súc nhai lại cũng đã được nhiều nhà khoa học ở nước ta nghiên cứu và đạt được một số kết quả có ý nghĩa nhất định, là tiền đề để tiếp tục nghiên cứu và phát huy được lợi thể của phụ phẩm trong chăn nuôi. * Chế biến và sử dụng bã sắn: Ủ chua là phương pháp đã được nhiều tác giả nghiên cứu để chế biến và bảo quản bã sắn làm thức ăn cho gia súc nhai lại [12]. Theo các tác giả Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly, 2001 [2] khi chế biến sắn bằng phương pháp ủ chua đã làm giảm rõ rệt hàm lượng độc tố. Nếu lá sắn tươi hàm lượng HCN là 862,5 mg/kg VCK thì ủ chua chỉ còn 32,5 mg/kg VCK; bột khô chỉ còn có 90,2 mg/kg VCK. Theo quy định của Cộng đồng Châu Âu (EC) thì hỗn hợp cho gia súc chỉ được phép chứa thấp hơn 60 mg HCN. Như vậy, rõ ràng phương pháp ủ chua đã làm giảm mạnh mẽ lượng HCN. Theo Nguyễn Hữu Văn và cs (2008)[15], khi nghiên cứu ủ chua bã sắn để làm thức ăn cho gia súc nhai lại thì ủ với công thức 0,5% muối + 3% rỉ mật, hoặc 0,5% muối + 3% cám gạo có thể bảo quản bã sắn và làm giảm đáng kể hàm lượng HCN sau 21 ngày ủ nên có thể sử dụng một lượng lớn bã sắn ủ trong khẩu phần mà không gây độc. Tuy nhiên, theo các tác giả do bã sắn tươi có hàm lượng protein thô rất thấp nhưng có giá trị năng lượng tương đối cao, vì vậy khi sử dụng làm thức ăn cho gia súc nhai lại cần thiết phải bổ sung nguồn thức ăn giàu protein để cân đối năng lượng và protein cho nhu cầu dinh dưỡng của vi sinh vật dạ cỏ và cho sản xuất. Theo các tác giả Mai Thị Thơm và Bùi Quang Tuấn (2006) [10], khi sử dụng khẩu phần có 10kg bã sắn ủ chua và 0,75 kg cám đỗ xanh để vỗ béo bò thịt đã cho tăng trọng tương đối cao 656,0 - 682,2 g/con/ngày so với lô đối chứng là 728,9g/con/ngày với khẩu phần thí nghiệm có thức ăn tinh. Theo các tác giả Nguyễn Hải Quân, Nguyễn Xuân Bả, 2008 [7] khi nghiên cứu về mức bổ sung bã sắn ủ chua với khẩu phần giàu xơ, nghèo dinh dưỡng là rơm lúa thì mức bổ sung không nên vượt quá 40% so với tổng chất khô khẩu phần, và việc bổ sung các loại thức ăn giàu protein thực trong khẩu phần là rất cần thiết để đảm bảo khả năng tiêu hóa thức ăn và môi trường trong dạ cỏ. * Chế biến và sử dụng lá sắn: Theo các tác giả Phạm Sỹ Tiệp, 1999 [15], Bùi Văn Chính và Lê Viết Ly, 2001 [2], phương pháp băm nhỏ, phơi khô hoặc sấy khô rồi nghiền thành bột là một biện pháp chế biến để có thể bảo quản, dự trữ và làm giảm hàm lượng độc tố trong lá sắn rất tốt, hơn nữa có thế thực hiện với một khối lượng lá sắn khá lớn. Ủ chua lá sắn để dự trữ và bảo quản cũng cho kết quả tốt, theo tác giả Bùi Văn Chính, 1995 [1] khi thí nghiệm ủ chua lá sắn thì hàm lượng HCN chỉ còn 32,5 ppm trong vật chất khô. Theo kết quả nghiên cứu của các tác giả Trịnh Văn Trung và cs, 2007 [13] khi nghiên cứu bổ sung mức 0,5, 1,0 và 1,5 kg/con/ngày bột lá sắn trong khẩu phần ăn của trâu tơ là cỏ xanh và rơm ủ urê nuôi trong vụ đông xuân đã cho kết quả là mức tăng trọng của trâu tăng dần theo khối lượng bột sắn bổ sung trong khẩu phần, tương ứng là 594 g/con/ngày, 589 g/con/ngày, 444 g/con/ngày và thấp nhất là lô đối chứng 389 g/con/ngày. Và để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất các tác giả cũng khuyến cáo nên bổ sung bột lá sắn ở mức 1kg/con/ngày tương ứng với 17% vật chất khô trong khẩu phần là phù hợp. Theo tác giả Vũ Văn Tý, 2002 [14] khi sử dụng lá sắn ủ chua để vỗ béo trâu tơ với mức bổ sung là 1,4; 2,8; 4,2 kg/con/ngày trong khẩu phần ăn là rơm khô và cỏ hỗn hợp thì có mức tăng trọng tương ứng sau 90 ngày là 34,42 kg/con; 42,58 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Nguyễn Thị Hồng Hạnh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 59 - 63 62 kg/con và 45,75 kg/con còn ở lô đối chứng là 27,33 kg/con. Kết quả vỗ béo trên đàn trâu già với mức bổ sung là 3 và 5,5 kg/con/ngày cho khối lượng tăng là 36,5 kg/con và 39,0 kg/con, ở lô đối chứng là 29,0 kg/con. Như vậy, việc sử dụng phụ phẩm từ sắn trong chăn nuôi gia súc nhai lại sẽ tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có, rẻ tiền ở địa phương, góp phần giải quyết vấn đề cạnh tranh nguồn thức ăn giàu protein để cung cấp cho gia súc nhai lại, nâng cao hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi nhất là các hộ nông dân. Các tác giả đã đưa ra khuyến cáo khi sử dụng bổ sung bã sắn cho khẩu phần giàu xơ, nghèo dinh dưỡng là rơm lúa thì không nên bổ sung quá 40% trong khẩu phần, còn đối với bột lá sắn khi sử dụng để vỗ béo thì bổ sung ở mức 1,0 – 1,5 kg/con/ngày vào khẩu phần thì sẽ mang lại hiệu quả vỗ béo tốt. KẾT LUẬN Cây sắn là cây trồng đem lại năng suất, sản lượng cao hiện nay ở Việt Nam. Sắn không chỉ là một loại cây lương thực, cây thực phẩm mà loại cây công nghiệp để tạo ra các sản phẩm như: cồn, đường, bột ngọt, tinh bột....phục vụ ngành chế biến. Ngoài các sản phẩm chính ra, chế biến sắn sẽ tạo ra một lượng phụ phẩm lớn giúp ngành chăn nuôi. Tuy giá trị dinh dưỡng của chúng không cao nhưng cũng đem lại hiệu quả tích cực cho chăn nuôi. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy rằng vấn đề nghiên cứu mức bổ sung, cách thức bổ sung và đưa ra các phương pháp chế biến thích hợp nhằm nâng cao khả năng tận dụng và cải thiện giá trị dinh dưỡng của nguồn phụ phẩm sử dụng trong chăn nuôi vẫn cần tiếp tục được quan tâm nghiên cứu để phát huy tối đa khả năng tiêu hóa của gia súc nhai lại và nguồn phụ phẩm công nông nghiệp ở nước ta hiện nay. ‘’ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bùi Văn Chính (1995), Nghiên cứu, chế biến và sử dụng phụ phẩm nông nghiệp và nguồn thức ăn sẵn có ở nông thôn. Tuyển tập NCKH (69 - 95), Nxb Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Hà Nội. [2]. Bùi Văn Chính, Lê Viết Ly (2001), Kết quả nghiên cứu chế biến nâng cao giá trị dinh dưỡng của một số phụ phẩm nông nghiệp quan trọng ở Việt Nam cho trâu, bò, Hội thảo về dinh dưỡng gia súc nhai lại, Hội Chăn nuôi Việt Nam. [3]. Cục Chăn nuôi Phát triển gia súc lớn, Việt Nam cơ hội và thách thức/77 – Hội thảo phát triển bền vững ngành chăn nuôi Việt Nam, 2009 [4]. Từ Quang Hiển, Nghiên cứu sử dụng lá sắn vào chăn nuôi lợn. KHKT Viện Chăn nuôi – Hà Nội 4/1983. [5]. Mai Thạch Hoành (2004), Kỹ thuật thâm canh sắn, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. [6]. Hội Chăn nuôi Việt Nam (2003), Thức ăn chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. [7]. Nguyễn Hải Quân, Nguyễn Xuân Bả (2008), “Ảnh hưởng của mức bổ sung bã sắn ủ chua đến lượng ăn vào, tỷ lệ tiêu hóa và một số chỉ số môi trường dạ cỏ của cừu được nuôi bằng rơm lúa” Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 46, 2008. [8]. Quyết định số 10/2008/QĐ-TTg về việc phê duyệt chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ. [9]. Phạm Sỹ Tiệp (1999), Nghiên cứu giá trị dinh dưỡng của một số giống sắn ở trung du và miền núi phía Bắc, ảnh hưởng của phương pháp chế biến đến thành phần hóa học của củ, lá và khả năng sử dụng bột sắn để vỗ béo lợn F1 (ĐB x MC), Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, Viện Chăn nuôi. [10]. Mai Thị Thơm, Bùi Quang Tuấn (2006), “Sử dụng bã sắn ủ chua với cám đỗ xanh để vỗ béo bò thịt”, Tạp chí Khoa học nông nghiệp, số 2, 2006. [11]. Nguyễn Văn Thưởng (1993), Thức ăn cho gia súc, gia cầm – Thành phần hóa học, giá trị dinh dưỡng. Nxb Nông nghiệp Hà Nội. [12]. Bùi Quang Tuấn (2005), “Nghiên cứu ủ chua bã sắn làm thức ăn dự trữ cho trâu bò”, Tạp chí Chăn nuôi, số 9, 2005. [13]. Trịnh Văn Trung, Mai Văn Sánh, Nguyễn Công Định (2007), “Bổ sung bột lá sắn vào khẩu phần cỏ xanh và rơm ủ urê nuôi trâu tơ trong vụ đông xuân”, Tạp chí Khoa học công nghệ, số 5, 2007. [14]. Vũ Văn Tý (2002), Ảnh hưởng của bổ sung lá sắn ủ chua đến tỷ lệ tiêu hóa thức ăn, khả năng sinh trưởng và vỗ béo trâu tại trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi, Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp, trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên. [15]. Nguyễn Hữu Văn, Nguyễn Xuân Bả, Bùi Văn Lợi(2008), “Đánh giá giá trị dinh dưỡng của bã sắn công nghiệp ủ chua với các phụ gia để làm thức ăn cho gia súc nhai lại”. Tạp chí Khoa học, ĐH Huế, số 46, 2008. [16]. Viện Chăn nuôi (2001), Thành phần và giá trị dinh dưỡng của thức ăn gia súc gia cầm Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên Vũ Thị Lan và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 65 - 69 63 SUMMARY CURRENT USE OF CASSAVA AND CASSAVA BY-PRODUCTS FOR RUMINANT IN VIETNAM Nguyen Thi Hong Hanh and Nguyen Hung Quang∗ College of Agriculture and Forestry - TNU In Vietnam cassava is one of the most important food crops, besides rice, maize and sweet potato. Cassava root is a high energy feed material. It is considered as good nutrition supply for pig, poultry and ruminant. Some researches have been focussing on processing and using of cassava and cassava by-products as animal feed. To make a good use source of by-products of industrial and agricultural production for ruminants in our country, a number of methods such as processing, storage, additional levels, additional appropriate manner and efficiency need continue to be important of investments have been investigated. Cassava bagasse is a by-product of cassava starch production process, which accounts for about 45% of the volume of raw cassava tubers. According to some research results, it could be ensiled of cassava bagasse and stored for ruminants feeding. However, cassava bagasse is very low crude protein content which ought to be supplemented with high-protein source to balance the level of nutrition and the supplementation should not exceed 40% of total dry matter in the diet. By-products: tops and cassava leaves are high availability of protein source, which is cheap and good for ruminants. They could be dried, dry crushed then grounded or ensiled for preservation and use. According to some research results, using cassava leaf meal for cattle at 1 to 1.5 kg/head /day would be good for fattening effect. Key words: Cassava, Processing, Cassava residue, Nutrition, Livestock. ∗ Tel: 0985588164 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhien_trang_su_dung_san_va_phu_pham_tu_san_trong_chan_nuoi_gi.pdf
Tài liệu liên quan