Hệ giá trị gia đình Việt Nam từ xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội hiện nay đang
biến đổi mạnh mẽ dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc
tế. Các hợp phần của hệ giá trị gia đình có mức độ và cường độ biến đổi rất khác nhau: trong khi các
giá trị thuộc lĩnh vực kinh tế - vật chất thay đổi khá triệt để, thì các giá trị trong quan hệ giữa người
với người và đời sống tinh thần, tâm linh, tín ngưỡng lại biến đổi dần dần, tiệm tiến; các giá trị có cội
nguồn từ văn hóa bản địa có sức sống trường tồn hơn các giá trị vay mượn từ bên ngoài.
9 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 291 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hệ giá trị gia đình Việt Nam: Truyền thống và đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
33
Hệ giá trị gia đình Việt Nam:
truyền thống và đổi mới
Lê Ngọc Văn1
1 Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Email: lengocvan5@yahoo.com
Nhận ngày 17 tháng 7 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 30 tháng 7 năm 2017.
Tóm tắt: Hệ giá trị gia đình Việt Nam từ xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội hiện nay đang
biến đổi mạnh mẽ dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc
tế. Các hợp phần của hệ giá trị gia đình có mức độ và cường độ biến đổi rất khác nhau: trong khi các
giá trị thuộc lĩnh vực kinh tế - vật chất thay đổi khá triệt để, thì các giá trị trong quan hệ giữa người
với người và đời sống tinh thần, tâm linh, tín ngưỡng lại biến đổi dần dần, tiệm tiến; các giá trị có cội
nguồn từ văn hóa bản địa có sức sống trường tồn hơn các giá trị vay mượn từ bên ngoài.
Từ khóa: Gia đình, hệ giá trị, đổi mới, biến đổi hệ giá trị gia đình.
Phân loại ngành: Xã hội học
Abstract: The Vietnamese family values have been changing dramatically from those of a
traditional agricultural society to those of today under the impacts of industrialisation,
modernisation and international economic integration. The components of this value system have
had various extents and magnitude of change: while the values in the field of economics and
material have changed rather radically, the changes in the man-to-man relationship, and their
spiritual and religious life, have been gradual; and the values rooted in the indigenous culture have
more lasting vitality than those imported from overseas.
Keywords: Family, value system, renovation, changes in family value system.
Subject classification: Sociology
1. Giới thiệu
Sau 30 năm đổi mới, xã hội Việt Nam đã và
đang trải qua những biến đổi cực kỳ sâu sắc
trên nhiều phương diện, mà xét về bản chất,
thì đó là sự chuyển đổi từ nền văn minh
nông nghiệp cổ truyền sang nền văn minh
công nghiệp và hiện đại, đồng thời chuyển
từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước. Đây là
một cuộc chuyển đổi kép. Cuộc chuyển đổi
kép này vẫn đang còn tiếp diễn, thậm chí
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
34
đang ở buổi ban đầu, khi các khuôn mẫu
văn hóa của xã hội công nghiệp chưa hình
thành một cách đầy đủ, và các khuôn mẫu
của xã hội nông nghiệp cũng chưa mất đi.
Tình trạng quá độ giữa hai thời đại đã làm
nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nhức nhối:
tham nhũng, lãng phí, bất công, lợi ích
nhóm, ô nhiễm môi trường Trong gia
đình, những vấn đề nhức nhối là: ly thân, ly
hôn tăng; trẻ em bị thả lỏng; người già ít
được quan tâm; anh em ruột thịt tranh chấp
tài sản, tôn ti trật tự trong gia tộc thay đổi...
Trước thực trạng đó, đã xuất hiện nhiều ý
kiến khác nhau. Có người cho rằng xã hội
ta đang bị rối loạn về giá trị; thuần phong
mỹ tục đang đứng trước thách thức và
không ít gia đình đã có những biểu hiện
xuống cấp về đạo đức [2, tr.51]. Một số
người khác thì cho rằng, gia đình Việt Nam
xuống cấp một cách khá nghiêm trọng trong
bối cảnh kinh tế đổi mới, mở cửa [3,
tr.119). Những người khác nữa thì tỏ ra tiếc
nuối và hoài nhớ về những gì êm đẹp trong
gia đình của một thời đã qua...
Vậy, trong thực tế, gia đình Việt Nam
đang sống với những giá trị nào? Hệ giá trị
ấy đang vận hành và biến đổi ra sao? Điều
gì chi phối sự vận hành của nó? Và, chúng
ta cần làm gì để hệ giá trị gia đình Việt
Nam đáp ứng được những đòi hỏi của xã
hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa? Dựa trên kết quả điều tra xã hội học
của đề tài cấp Bộ “Hệ giá trị gia đình Việt
Nam dưới góc nhìn xã hội học - Nghiên cứu
trường hợp tỉnh Thái Bình” do Viện Nghiên
gia đình và Giới thực hiện2, bài viết này
góp phần trả lời các câu hỏi trên.
2. Các giá trị thuộc lĩnh vực kinh tế - vật chất
Các giá trị thuộc lĩnh vực kinh tế - vật chất
là tất cả những gì do con người sáng tạo,
tiếp thu, lựa chọn trong mối tương quan với
môi trường tự nhiên, nhằm đáp ứng các nhu
cầu sinh tồn hàng ngày của họ. Biểu hiện
tập trung của loại hình giá trị này là ăn,
mặc, ở, đi lại. Tuy nhiên, trong việc thỏa
mãn các nhu cầu bất biến này, ở mỗi thời
đại hay mỗi thời kỳ lịch sử, người ta lại có
sự lựa chọn rất khác nhau.
Ở Việt Nam trước đây, do khan hiếm các
sản phẩm tiêu dùng, ước mong của đại bộ
phận người dân là được ăn no mặc ấm.
Phương châm được đề cao trong cách ăn
mặc là “ăn lấy chắc, mặc lấy bền”. Trong
các thời kỳ đó, đủ ăn đủ mặc là điều được
cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội theo
đuổi. Con người cảm thấy hạnh phúc khi
giải quyết được vấn đề ăn mặc. Tục ngữ
Việt Nam có câu: “Cơm ba bát, áo ba
manh/Đói chẳng xanh, rét chẳng cóng”. Để
đối phó với tình cảnh thiếu thốn sản phẩm
tiêu dùng, người ta khuyên nhủ nhau phải
dự trữ lương thực, biết lo xa “(Được mùa
chớ phụ ngô khoai/Đến khi thất bát lấy ai
bạn cùng)”; khéo léo trong chi tiêu “(Khéo
ăn thì no, khéo co thì ấm)” và tìm cách kéo
dài tuổi thọ của vật dụng “(Của bền tại
người)”...
Do nông nghiệp gắn chặt với đất đai,
vườn tược, ruộng đồng, sản phẩm từ cây
trồng, vật nuôi lại chỉ có thể thu hoạch theo
mùa, hoặc theo năm, thậm chí là nhiều năm,
cho nên chỗ ở của nông dân phải cố định
lâu dài để tiến hành sản xuất. “An cư lạc
nghiệp” là ước mong của các hộ gia đình.
Hướng nhà cũng không kém phần quan
trọng. Nó thể hiện trong câu tục ngữ: “Lấy
vợ hiền hòa/Làm nhà hướng nam”. Tập
quán đó được giải thích bằng các lý do vật
chất: gió bắc mùa đông thường mạnh và rét,
trong khi gió nồm mùa hè mát mẻ lại đến từ
phương Nam và Đông - nam [5, tr.287]. Vì
Lê Ngọc Văn
35
đa số các hộ gia đình chỉ sống trong những
ngôi nhà tranh vách đất, chật hẹp, thiếu ánh
sáng, cho nên ước mơ suốt đời của người
nông dân xưa là có được “nhà ngói sân
gạch” (biểu tượng của sự giàu sang, phú
quý). Trong cái không gian riêng nhỏ bé ấy,
các phương tiện sinh hoạt phục vụ cho đời
sống con người cũng rất đơn sơ: nấu ăn
bằng bếp đun rơm rạ; tắm giặt bằng nước
ao hồ hay nước giếng thơi, bất luận là mùa
nóng hay mùa lạnh. Việc đi lại chủ yếu
bằng đôi chân trần (mà nói theo kiểu hình
tượng của các nhà thơ là “bàn chân đi gót
mòn sỏi đá”). Còn việc truyền tin vẫn là
trực tiếp mặt đối mặt, hoặc cao hơn là chiếc
loa cuốn bằng thùng sắt tây Cuộc sống ấy
đã kéo dài suốt trường kỳ lịch sử, kể cả ở
thời bao cấp.
Nhưng từ đổi mới đến nay, đời sống kinh
tế - vật chất của người dân (biểu hiện tập
trung là ở các phương tiện sinh hoạt của gia
đình), đã có sự thay đổi rất căn bản, nếu
không muốn nói là hoàn toàn thay đổi. Ở
đây, chúng tôi chỉ dẫn thêm một ví dụ nhỏ,
đó là sự biến mất của cái bếp nấu ăn truyền
thống. Số liệu điều tra cũng như những ghi
chép và quan sát của nhóm nghiên cứu đều
xác nhận, không phải chỉ ở thành phố mà cả
ở khu vực nông thôn, hầu như tất cả các hộ
gia đình đều không còn sử dụng các chất đốt
cổ xưa như rơm, rạ, trấu, lá, mùn cưa, than,
củi, dầu hỏa cho việc đun nấu, chuẩn bị bữa
ăn gia đình. Thay thế cho cách đun nấu cổ
truyền đó là bếp gas, bếp điện, bếp từ.
Về nhà ở, không còn thấy bóng dáng của
những ngôi nhà một gian hai chái hay nhà
tranh tre nứa lá vốn phổ biến ở nông thôn
trước đây3. Chúng được thay thế bằng
những ngôi nhà mái bằng, nhà cao tầng
chạy dọc hai bên những con đường làng
rộng rãi được trải nhựa hoặc bê tông, ô tô
có thể đi lại. Ở các địa phương được điều
tra, đại bộ phận các hộ gia đình đều có nhà
ở, chỗ ở riêng, trong đó số hộ sở hữu loại
nhà kiên cố chiếm tỷ lệ rất cao (77,8%), còn
lại 19,9% nhà bán kiên cố, chỉ có 2,6%
chưa có nhà ở riêng. Ước mơ “nhà ngói sân
gạch” của người dân trước đây đã thành
hiện thực.
Việc ăn uống và trang phục cũng thay
đổi đáng kể. Từ chỗ quanh năm vật lộn để
lo chống chọi với cái đói và cái rét, đến nay
85,8% các hộ gia đình được khảo sát cho
biết “ăn uống đầy đủ”, trong đó 6,6% ở cấp
độ “ăn ngon”, chỉ có 7,1% “ăn uống còn
kham khổ”. Về trang phục: 46,6% hộ gia
đình ăn mặc “đẹp, lịch sự”; 4,3% hộ gia
đình “ăn mặc hợp thời trang; 47,5% “đủ
lành, đủ ấm”; chỉ có 1,6% “còn thiếu thốn”.
Về việc đi lại, từ chỗ chỉ với “bàn chân
đi gót mòn sỏi đá”, đến nay (ở thời điểm
của cuộc khảo sát) có 39,1% số người được
hỏi ưu tiên lựa chọn giá trị “sở hữu phương
tiện đi lại” (xe đạp, xe máy, ô tô). Trong bối
cảnh phát triển của kinh tế thị trường, nhu
cầu đi lại của người dân đã vượt ra khỏi
khuôn khổ chật hẹp của địa phương. V́ vậy,
ngoài phương tiện giao thông công cộng,
phương tiện riêng phục vụ cho việc đi lại
của cá nhân và gia đình đã trở thành một
nhu cầu tất yếu. Nếu như trong xã hội
truyền thống, người dân hầu như không đi
ra khỏi phạm vi làng xã của mình, càng
không có thời gian và tiền bạc để đi tham
quan du lịch, thì ngày nay mọi chuyện đã
khác. Cụ thể là trong vòng 5 năm trước thời
điểm điều tra, 73,8% số người được hỏi cho
biết họ đã đi thăm người thân, bạn bè ở
ngoài huyện, ngoài tỉnh; 50,3% đi tham
quan trong nước; 2,5% đi du lịch nước
ngoài. Đây là một bước phát triển hoàn toàn
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
36
mới so với truyền thống, kể cả so với thời
kỳ bao cấp.
3. Các giá trị trong quan hệ giữa người
với người
Nếu các giá trị thuộc lĩnh vực kinh tế - vật
chất là những gì có liên quan tới mối quan
hệ giữa con người với môi trường tự nhiên,
tới việc đáp ứng các nhu cầu sinh tồn của
họ, thì các giá trị trong quan hệ giữa người
với người, và ở đây là giữa các thành viên
gia đình, được quan niệm là tất cả những gì
thuộc về mặt tình cảm và đạo lý, các khuôn
mẫu tác phong hàng ngày giữa họ với nhau.
Nói cụ thể, đấy là việc ứng xử giữa vợ và
chồng, cha mẹ và con cái, anh chị em, ứng
xử với họ hàng, láng giềng, bạn bè
Trong đời sống gia đình Việt Nam hiện
nay, hệ giá trị này bao gồm cả những giá trị
đã có từ khởi thủy (như: vợ chồng chung
thủy, anh em hòa thuận, hàng xóm láng
giềng tối lửa tắt đèn có nhau;), cả những giá
trị được vay mượn, ảnh hưởng của Phật
giáo, Nho giáo (như: cha từ con hiếu, đông
con nhiều cháu, ông bà, cha mẹ sống cùng
cháu con), cũng như những giá trị mới
(như: bình đẳng giới, bình đẳng thế hệ,
quyền tự do cá nhân). Câu hỏi đặt ra là
trong sự tồn tại đan xen giữa các giá trị cũ
và mới, giá trị nội sinh và giá trị ngoại sinh,
thì gia đình Việt Nam đang ưu tiên cho
những giá trị nào.
Kết quả điều tra cho thấy, chỉ báo “ông
bà, cha mẹ sống chung với con cháu” xếp ở
vị trí sau cùng với chỉ 24,1% số người lựa
chọn. Đây là một sự thay đổi rất lớn so với
hệ giá trị gia đình Việt Nam trong lịch sử.
Bởi vì trước đây, việc ông bà, cha mẹ, cháu
con được sống quây quần bên nhau dưới
cùng một mái nhà (tam tứ đại đồng đường)
là một mơ ước đối với mọi gia đình, dù họ
thuộc tầng lớp hoặc nhóm xã hội nào. Thế
nhưng, hiện nay ước mơ này không còn
mang tính phổ biến nữa.
Chỉ báo tiếp theo là “vợ chồng chung
thủy”(đạt 96%). Điều đặc biệt ở đây là, nếu
như chỉ báo “ông bà, cha mẹ sống chung
với con cháu” có sự thay đổi mang tính đột
biến thì chỉ báo “vợ chồng chung thủy” lại
gần như được bảo lưu hoàn toàn so với
truyền thống. Tính liên tục của chỉ báo này
hoàn toàn không phải là điều ngẫu nhiên.
Trong xã hội hiện đại, gia đình không còn
là đơn vị kinh tế khép kín, các thành viên
trưởng thành có thu nhập độc lập, trẻ em
vẫn có thể được nuôi dưỡng bởi người bố
hoặc người mẹ khi hôn nhân tan vỡ. Điều
đó có nghĩa chỉ báo về sự chung thủy vợ
chồng về cơ bản không còn xuất phát từ
việc bảo đảm sự sinh tồn của gia đình mà
chuyển sang sự thỏa mãn nhu cầu tâm lý -
tình cảm của các cá nhân. Nói một cách
khái quát là, trước đây chung thủy là vì sự
sống còn của gia đình, còn ngày nay chung
thủy là vì sự sống còn của tình yêu. Hôn
nhân hiện đại là dựa trên tình yêu, thì chỉ có
tình yêu mới có thể duy trì được cuộc hôn
nhân đó. Điều này giải thích vì sao cả trong
truyền thống và hiện đại, chung thủy vợ
chồng luôn là giá trị được đề cao trong đời
sống gia đình.
Gia đình Việt Nam hiện nay có thể coi là
một hình thái quá độ từ truyền thống sang
hiện đại. Đặc điểm này làm cho sự lựa chọn
giá trị cũng mang tính “quá độ”. Tại địa bàn
nghiên cứu, lý do mà người dân đưa ra về
việc đề cao giá trị vợ chồng chung thủy vừa
thể hiện khát vọng duy trì tình yêu vợ
chồng, vừa là để bảo đảm sự sống còn của
gia đình, tương lai của con cái.
Lê Ngọc Văn
37
Ngoài ra, cũng cần ghi nhận xu hướng
tiếp nhận giá trị mới, tiêu biểu nhất là sự
bình đẳng giới, bình đẳng giữa các thế hệ
trong đời sống gia đình. Tỷ lệ ưu tiên lựa
chọn giá trị này ở mức trung bình (51,6%),
phản ánh tính chất quá độ trong sự chuyển
đổi của gia đình từ truyền thống sang hiện
đại. Bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện
đại, hơn nữa, là một giá trị thuộc về chất
lượng cuộc sống. Trong thời kỳ hiện đại,
nhất là ở các xã hội đang chuyển đổi, người
ta không thể không có sự lựa chọn giữa giá
trị sinh tồn và giá trị tự biểu hiện, giá trị
nâng cao chất lượng cuộc sống. Thông
thường, ở các xã hội đang phát triển (trong
đó có Việt Nam), các giá trị sinh tồn vẫn
được ưu tiên hơn các giá trị tự biểu hiện và
nâng cao chất lượng cuộc sống. Tại địa bàn
nghiên cứu, trên 50% số người được hỏi ưu
tiên lựa chọn giá trị bình đẳng trong các
mối quan hệ gia đình, theo chúng tôi, là một
sự ưu tiên lựa chọn khá cao đối với những
giá trị thuộc về chất lượng cuộc sống.
4. Các giá trị trong đời sống tinh thần, tâm
linh, tín ngưỡng
Cùng với các giá trị về kinh tế - vật chất
và các giá trị trong quan hệ giữa các thành
viên, trong đời sống gia đình, người ta cũng
không thể không nhắc tới các giá trị thuộc
về tinh thần, tâm linh, tín ngưỡng. Phân hệ
giá trị này được quan niệm là tất cả những
gì có ý nghĩa thuộc phương diện chủ quan
mang lại niềm tin, sự yên ổn về tâm hồn, sự
hứng khởi trong cuộc sống của con người.
Trong gia đình Việt Nam, phân hệ giá trị
này vốn mang tính bản địa, được hình thành
trên cơ tầng văn hóa Đông Nam Á4. Đó là
đạo lý uống nước nhớ nguồn, thể hiện ở
việc thờ cúng tổ tiên. Người ta tin rằng tổ
tiên dù đã về thế giới bên kia, vẫn luôn hiện
hữu và che chở cho cuộc sống của con cháu
ở thế gian này và con cháu có thể liên hệ
với tổ tiên qua việc thờ cúng. Là cư dân
nông nghiệp lúa nước, người ta còn tin vào
sức mạnh của siêu nhiên, cho nên trong “tứ
thời tiết lập”, mỗi khi thời tiết chuyển đổi,
các gia đình đều khói hương thờ phụng
cúng bái để cầu mong mưa thuận gió hòa,
an khang, thịnh vượng. Ngoài tri thức bản
địa, người Việt còn tiếp thu giá trị từ các
nền văn minh khác do quá trình giao lưu
văn hóa lâu dài trong lịch sử. Đó là tư
tưởng Phật giáo (từ Ấn Độ), Nho giáo (từ
Trung Quốc), Thiên chúa giáo (từ phương
Tây) và nhiều giá trị văn hóa khác, kể cả
các giá trị do toàn cầu hóa mang lại. Do đó,
có thể dễ dàng nhận thấy thế giới nội tâm
của các thành viên trong gia đình Việt là
một bức tranh đa chiều, đa màu sắc. Kết
quả điều tra cho thấy mức độ ưu tiên lựa
chọn các giá trị trong đời sống nội tâm của
gia đình Việt Nam hiện đại. Tỷ lệ ưu tiên
lựa chọn cao nhất thuộc về giá trị “hiếu
kính với tổ tiên” (95,2%). Trong các gia
đình tại địa bàn nghiên cứu, hầu như nhà
nào cũng có bàn thờ tổ tiên thờ cúng cha
mẹ và những người thân đã mất. Mỗi họ và
các chi họ lại có từ đường hay nhà thờ riêng
để thờ tổ tiên chung của dòng họ. Đây là
công việc chứa đựng rất nhiều ý nghĩa: nhớ
ơn sinh thành, tìm về cội nguồn (con người
có tổ có tông), mong tổ tiên ở thế giới bên
kia phù hộ độ trì, trợ giúp cho con cháu trên
dương thế... Như thế, đạo lý uống nước nhớ
nguồn vẫn giữ nguyên giá trị và tiếp nối
trong đời sống gia đình hiện đại.
Trong khi đó, quan niệm “có con trai nối
dõi tông đường” đến nay chỉ còn 25% số
người được hỏi ưu tiên lựa chọn. Sự thay
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
38
đổi này có thể bắt nguồn từ nhận thức mới
về bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con
trai và con gái, giữa nam và nữ. Khi đã đề
cao sự bình đẳng thì tâm lý nhất thiết phải
có con trai cũng dần thay đổi. Mặt khác,
phải kể đến tác động của chính sách dân số.
Cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch (với các
khẩu hiệu: “Mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh từ 1-
2 con; Dừng lại, 2 con để nuôi dạy cho
tốt...”) đã làm thay đổi đáng kể nhận thức
của người dân và của các cặp vợ chồng về
sự phân biệt con trai, con gái.
Một giá trị truyền thống nữa là “tôn
trọng lễ giáo”, giá trị này cũng có xu hướng
ít được ưu tiên lựa chọn (39,5%). Lễ giáo ở
đây được hiểu là những quy tắc khắt khe và
cứng nhắc của Nho giáo. Trong gia đình,
mỗi thành viên phải tuân thủ chặt chẽ các
nguyên tắc đạo đức, con cháu phải luôn lễ
phép, ngoan ngoãn, vâng lời cha mẹ, ông bà
và những người lớn tuổi; con gái phải tu
luyện tứ đức: (Công - Dung - Ngôn -
Hạnh); con trai có chí tiến thủ (tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ). Các thành viên
gia đình phải hành động theo đúng vị trí,
vai trò của mình (vợ ra vợ, chồng ra chồng,
cha ra cha, con ra con). Đây là mẫu hình gia
ðình được đề cao theo quan điểm Nho giáo,
nhưng không hoàn toàn phổ biến, vì trước
đây đại bộ phận người dân đều không biết
chữ, họ sống tự nhiên theo những gì do
chính cuộc sống đặt ra và theo những gì mà
họ thường quan niệm5. Ngày nay, 100% số
người được hỏi đều biết chữ, trong đó đại
bộ phận đã tốt nghiệp trung học cơ sở và
trung học phổ thông, do đó, ngoài lễ giáo
phong kiến còn rơi rớt lại, họ còn tiếp thu
nhiều giá trị mới nữa. Tỷ lệ thấp của chỉ
báo về “lễ giáo” đã nói lên sự biến đổi trong
lối sống của gia đình hiện nay.
Sự phân hóa trong việc lựa chọn giá trị
như trên cho thấy, dường như có một xu
hướng là các giá trị có cội nguồn từ văn hóa
bản địa có tính trường tồn cao hơn rất nhiều
so với các giá trị vay mượn từ bên ngoài
như Nho giáo, Đạo giáo. Các giá trị cổ
truyền mang tính bản địa xuất phát từ nhu
cầu có thực về sự sinh tồn, về mối quan hệ
nhân quả trong đời sống con người, chúng
như mạch ngầm không ngừng kết nối các
thành viên gia đình qua thời gian. Đây là
tiền đề quan trọng để gia đình Việt Nam
trong tiến trình hiện đại hóa có thể cởi mở
tiếp thu các giá trị mới nhưng vẫn không
mất đi bản sắc của mình.
Trong việc tiếp thu các giá trị mới, đáng
chú ý là chỉ báo “có điều kiện nghỉ ngơi,
thư giãn” với gần một nửa số người được
hỏi ưu tiên lựa chọn. Đây là một trong
những giá trị được coi trọng trong xã hội
hiện đại. Cũng giống như bình đẳng, có
điều kiện nghỉ ngơi thư giãn là chỉ báo về
chất lượng cuộc sống, nhất là chất lượng
cuộc sống tinh thần. Tại địa bàn khảo sát,
ngoài việc xem ti vi, nghe đài, xem video,
vào mạng internet, đọc sách báo, người
dân còn sử dụng thời gian rỗi để tham gia
vào các hình thức nghỉ ngơi giải trí khác
như đi tham quan, du lịch trong và ngoài
nước, thăm người thân và bạn bè ở ngoài
huyện, ngoài tỉnh
5. Kết luận
Từ những mô tả, phân tích về sự vận hành
và biến đổi hệ giá trị gia đình Việt Nam sau
30 năm đổi mới (trường hợp tỉnh Thái
Bình), đến đây, có thể rút ra một số nhận
xét sau:
- Gia đình Việt Nam hiện đang sống với
cả một thế giới của các giá trị. Xét về mặt
loại hình, thế giới ấy không chỉ liên quan
đến đời sống kinh tế - vật chất, đến quan hệ
Lê Ngọc Văn
39
giữa con người với con người, mà cả trong
đời sống tâm tinh thần, tâm linh, tín
ngưỡng. Xét về thuộc tính, thế giới ấy cũng
thật đa dạng và phong phú, trong đó có các
giá trị bản địa, các giá trị được vay mượn từ
nhiều nền văn hóa khác nhau. Còn xét về
mặt lịch sử, thế giới ấy không chỉ có các giá
trị cổ truyền, trong đó còn có các giá trị
hiện đại, thậm chí có cả các giá trị hậu hiện
đại do xu thế toàn cầu hóa (TCH) và hội
nhập quốc tế (HNQT) vừa mới mang lại.
- Sự biến đổi của các lĩnh vực trong hệ
giá trị gia đình hiện nay là không đồng đều.
Trong khi các giá trị về kinh tế - vật chất có
sự biến đổi khá triệt để, thì các giá trị trong
quan hệ giữa người với người và các giá trị
về tinh thần, tâm linh, tín ngưỡng lại biến
đổi dần dần, tiệm tiến. Nhìn chung, các giá
trị có nguồn gốc bản địa có sức sống trường
tồn hơn so với các giá trị được vay mượn từ
bên ngoài. Cũng như vậy, các giá trị sinh
tồn, bảo đảm sự sống còn của gia đình được
ưu tiên lựa chọn nhiều hơn so với các giá trị
tự thể hiện, các giá trị nâng cao chất lượng
cuộc sống.
- Sự vận hành và biến đổi hệ giá trị gia
đình cho thấy văn hóa gia đình Việt Nam từ
trong lịch sử cho đến hiện nay là văn hóa
hội nhập - hội nhập của văn hóa bản địa
thuộc cơ tầng Đông Nam Á với văn hóa
Phật giáo, văn hóa Nho giáo, văn hóa
phương Tây và ngày nay là văn hóa toàn
cầu. Điều đáng nói là qua những lần hội
nhập như vậy, cha ông chúng ta đã không
ngừng tiếp thu các yếu tố, các giá trị mới để
làm giàu cho chính mình, làm cho bản sắc
gia đình Việt Nam không phải “nhất thành
bất biến”, mà luôn đổi mới và phát triển.
- Trở lại câu hỏi đã nêu ở đầu bài viết: có
phải xã hội ta đang bị rối loạn về giá trị? Có
phải luân lý, đạo đức gia đình Việt Nam
đang xuống cấp? Câu trả lời được rút ra từ
cuộc nghiên cứu của chúng tôi là: không.
Chúng tôi cho rằng chính sự vận động đa
chiều về giá trị, kể cả giá trị xã hội và giá trị
gia đình như đã nêu, đã làm cho nhiều
người cảm thấy bối rối. Đấy là chưa kể,
trong điều kiện của một xã hội đang chuyển
đổi thì tránh sao khỏi những mâu thuẫn,
xung đột giữa cái cũ và cái mới.
Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh một
điều là, tất cả những lần chuyển đổi và hội
nhập văn hóa trước đây đều được bắt đầu từ
trên xuống, do đó trước khi đến người dân,
các giá trị ngoại sinh đã được thông qua
nhiều bộ lọc. Còn ngày nay, trong bối cảnh
của xu thế TCH, khi thế giới đã trở thành
“thế giới phẳng”, sự tiếp thu văn hóa trực
tiếp từ dưới lên chứ không phải từ trên
xuống như các lần hội nhập trước đây. Việc
tiếp thu văn hóa từ dưới lên, một mặt làm
cho lối sống Việt, trong đó có hệ giá trị gia
đình, trở nên năng động, song mặt khác,
cũng không tránh khỏi việc lựa chọn giá trị
một cách thiếu chọn lọc và thiếu kiểm soát.
Vì thế, vấn đề đặt ra hiện nay là: các cơ
quan chức năng cần xây dựng và đưa ra
được một bộ tiêu chuẩn với tư cách là mẫu
số chung cho việc xây dựng hệ giá trị và
chuẩn mực gia đình trong bối cảnh TCH và
HNQT, trong đó phản ánh được xu thế và
nguyện vọng của đại đa số các nhóm xã hội
khác nhau. Chỉ có như vậy, việc tiếp xúc và
tiếp thu văn hóa, trong đó có hệ giá trị gia
đình, mới có thể góp phần vào việc xây
dựng gia đình bền vững, qua đó góp phần
xây dựng một nền văn hóa Việt Nam “tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Chú thích
2 Cuộc nghiên cứu được tiến hành ở cả hai địa bàn
nông thôn và đô thị là xã An Cầu (huyện Quỳnh
Phụ) và phường Đề Thám (thành phố Thái Bình) với
Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 - 2017
40
cả hai phương pháp định tính và định lượng. Tổng
số người được phỏng vấn là 825 người chia đều cho
nông thôn và đô thị, giới tính, độ tuổi, trình độ học
vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tếTrong đó, số
người được điều tra bằng bảng hỏi là 580 người; số
người được điều tra bằng phương pháp phỏng vấn
sâu và thảo luận nhóm tập trung là 245 người.
Thông tin định lượng tập trung vào sự lựa chọn giá
trị của người dân chia theo ba lĩnh vực: đời sống
kinh tế - vật chất và thể chất; quan hệ xã hội của gia
đình; đời sống tinh thần, tâm linh, tín ngưỡng.
Thông tin định tính nhằm xác định rõ hơn nhận thức,
suy nghĩ và nguyên nhân lựa chọn các giá trị gia
đình hiện nay của người dân, cũng như những biến
đổi trong lựa chọn ấy. Thông tin định lượng được
xử lý bằng chương trình SPSS 16.0. Việc triển khai
đề tài dựa trên hai quan điểm lý thuyết: lý thuyết
hiện đại hóa và lý thuyết tiểu văn hóa.
3 Theo mô tả của Pierre Gourou, loại nhà ở phổ biến
của nhà nghèo ở châu thổ Bắc kỳ là một bộ khung
đơn giản bằng gỗ xoan đỡ lấy mái rạ của ngôi nhà
chính. Ngôi nhà chính chỉ có một gian với hai chái;
chái bên trái làm thành một phòng kín, nơi ở của phụ
nữ và chứa lương thực. Nhà mở ra ngoài bằng một
cửa giữa, ngôi nhà này không có những cánh cửa và
khung cửa đắt tiền bằng gỗ, người ta bịt kín hai gian
bên bằng vách đất trộn rơm; còn cửa giữa thì không
có cánh mà khi cần thì đóng lại bằng một tấm phên
đan bằng tre [5, tr.280].
4 Có lẽ người đầu tiên chứng minh được rằng có một
cơ tầng văn hóa bản địa Đông Nam Á là học giả
Pháp G. Coedès. Quan điểm của ông có cơ sở từ các
thành tựu của khảo cổ học, ngôn ngữ học, dân tộc
học, sử học, văn học nghệ thuật, v.v.. Những đặc
điểm chung của khu vực Đông Nam Á mà G.
Coedès đã dẫn ra gồm: i) về phương diện vật chất:
làm ruộng cấy lúa, nuôi trâu bò, dùng đồ kim khí thô
sơ, giỏi bơi thuyền; ii) về phương diện xã hội: địa vị
quan trọng của người phụ nữ, huyết tộc mẫu hệ, tổ
chức xã hội theo nhu cầu tưới nước cho đồng ruộng;
iii) về phương diện thần thoại: đối lập vũ trụ luận
giữa núi và biển, giữa loại phi cầm với loài thủy tộc,
giữa người thượng du với người hạ ban; iv) về
phương diện tôn giáo: thuyết vạn vật hữu linh (mọi
vật đều có linh hồn), thờ phụng tổ tiên và thờ thần
đất, đặt đền thờ ở những chỗ cao, chôn người chết
trong các chum, vại hay các trắc thạch; v) về phương
diện ngôn ngữ: dùng những tiếng đơn âm [1, tr.115].
5 Theo Trần Quốc Vượng: chưa từng bao giờ có
tình trạng độc tôn Nho giáo trong đời sống văn
hóa - tư tưởng Việt Nam lịch đại, cho dù là từ thế
kỷ XV đến thế kỷ XIX. Theo ông, tâm thức người
dân Việt là sự cởi mở, đa nguyên, đa dạng có
cái “duy lý” của Nho; có cái “tâm linh” của Phật,
có cái “siêu việt” của Lão Trang và có cả cái mê
tín “thần ma” của căn tính tiểu nông Còn trong
đời sống gia đình, thì Nho trọng cha trong khi
người Việt trọng mẹ; Nho trọng chồng trong khi
người Việt trọng vợ [7, tr.510-511].
Tài liệu tham khảo
[1] Mai Ngọc Chừ (2009), Văn hóa & ngôn ngữ
phương Đông, Nxb Phương Đông, Tp. Hồ
Chí Minh.
[2] Lê Như Hoa (2001), Văn hóa gia đình với việc
hình thành và phát triển nhân cách trẻ em, Viện
Văn hóa & Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
[3] Đặng Cảnh Khanh (1999), Các nhân tố phi
kinh tế xã hội học về sự phát triển, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
[4] Vũ Ngọc Phan (1998), Tục ngữ ca dao dân ca
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[5] Pierre Gourou (2003), Người nông dân châu
thổ Bắc kỳ, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
[6] Ronald Inglehart (2008), Hiện đại hóa và hậu
hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
[7] Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam -
Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
Lê Ngọc Văn
41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32941_110580_1_pb_0322_2007613.pdf