Giới Thiệu khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay

Giới Thiệu khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay Đơn vị tiền tệ chung Châu Âu (ECU – European Unit ) ECU là đơn vị tiền tệ của khối cộng đồng kinh tế Châu Âu ( EEC ) nó thay thế cho “đơn vị tính toán Châu Âu” được tạo ra năm 1962. ECU: không những đóng vai trò là tiền tệ ghi sổ chung của khối EEC mà còn đóng vai trò là phương tiện dự trữ coi như ngoại hối của các nước EEC.

doc41 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3131 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giới Thiệu khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n xu 50¢ và $1, cùng thời gian đĩ cả hai đã được giảm kích thước). Năm 1982, đồng xu 1¢ đã thay đổi thành hình thập nhị giác cịn đồng 5¢ được chuyển sang dùng hợp kim đồng-niken. Vào năm 1987, đồng xu $1 đúc từ niken mạ vàng đã được giới thiệu. Tiền xu $2 lưỡng kim ra đời năm 1996. Năm 1997, kẽm mạ đồng đã thay thế cho đồng thiếc trong tiền xu 1 ¢. Thời gian sau đĩ, vào năm 2000, các loại tiền xu 1¢, 5¢, 10¢, 25¢ và 50¢ bằng thép mạ đã được giới thiệu, với đồng xu 1¢ được mạ đồng và những đồng xu khác thì bọc bằng hợp kim đồng-niken. Những đồng tiền xu được Xưởng dúc Canada hồng gia sản xuất ở Winnipeg, Manitoba, và hiện nay được phát hành với mệnh giá 1¢ (penny), 5¢ (nickel), 10¢ (dime), 25¢ (twenty-five cent piece) ("quarter" khơng phải là một tên gọi chính thức tại Canada), 50¢ (50¢ piece) (mặc dù 50 ¢ piece ít khi được sử dụng), $1 (loonie), và $2 (toonie). Bộ tiêu chuẩn thiết kế là các biểu tượng của Canada (thường là động vật hoang dã) nằm trên mặt trái, và hình Elizabeth II nổi trên mặt phải. Tuy nhiên, một số đồng penny, nickel, dime hiện vẫn cịn lưu thơng cĩ mang hình nổi của George VI. Những đồng xu kỷ niệm với các mặt trái khác nhau cũng được phát hành khơng định kỳ. Tiền xu 50¢ hiếm khi được tìm thấy trong lưu thơng; chúng thường được sưu tập và khơng được sử dụng thường xuyên trong các giao dịch thường nhật. Đã cĩ những cuộc thảo luận lặp đi lặp lại về việc rút penny ra khỏi lưu thơng với lý do là Xưởng đúc Canada hồng gia phải mất tới 4 cent để sản xuất và phân phối đồng tiền xu 1 cent này.[6] Đồng penny Canada tiêu tốn ít nhất 130 triệu C$ mỗi năm để duy trì nĩ trong lưu thơng, theo ước tính của một tổ chức tài chính kêu gọi rút bỏ đồng penny. Vào năm 2007 một cuộc khảo sát cho thấy, chỉ cĩ 37% dân số Canada sử dụng penny, nhưng chính phủ vẫn tiếp tục sản xuất khoảng 816 triệu penny mỗi năm, tương đương 25 penny cho một người Canada. 5.4. Giấy bạc Hình: Loạt giấy bạc ngân hàng Canada mới nhất Tiền giấy cĩ tên gọi là đơ la được phát hành lần đầu ở Canada là British Army Bills, phát hành vào giữa những năm 1813 và 1815 với mệnh giá trong khoảng từ $1 tới $400. Chúng là sự phát hành khẩn cấp do cuộc chiến năm 1812. Giấy bạc đầu tiên được Ngân hàng Montreal phát hành năm 1817. Một lượng lớn các ngân hàng đủ tư cách được thành lập trong các thập niên 1830, 1850, 1860 và 1870, mặc dù nhiều ngân hàng chỉ phát hành tiền giấy trong một thời gian ngắn. Các ngân hàng khác, như ngân hàng Montreal, phát hành giấy bạc trong một vài thập niên. Cho đến năm 1858, rất nhiều giấy bạc đã được phát hành với mệnh giá là cả hai loại shilling/pound và đơ la (5 shilling = $1). Một lượng lớn các mệnh giá khác nhau đã được ban hành, bao gồm cả $1, $2, $3, $4, $5, $10, $20, $25, $40, $50, $100, $500 và $1000. Sau năm 1858, chỉ các mệnh giá đơ la là được sử dụng. Xem thêm Giấy bạc ngân hàng đủ tư cách tại Canada để biết thêm thơng tin. Sau khi thành lập vào năm 1841, trên địa bàn tỉnh Canada đã bắt đầu phát hành tiền giấy. Giấy bạc được ngân hàng Montreal sản xuất cho chính phủ vào giữa những năm 1842 và 1862, với các mệnh giá $4, $5, $10, $20, $50 và $100. Năm 1866, tỉnh Canada bắt đầu phát hành tiền giấy riêng của mình, với các mệnh giá $1, $2, $5, $10, $20, $50, $100 và $500. Năm 1870, sau khi thành lập Liên bang, nhà nước tự trị Canada đã giới thiệu giấy bạc 25¢ cùng với phát hành mới $1, $2, $500 và $1000. Giấy bạc $50 và $100 theo sau trong năm 1872, nhưng phần lớn giấy bạc chính quyền sản xuất sau này chỉ là giấy bạc $1 và $2, cĩ $4 được thêm vào trong năm 1882. Các mệnh giá $500, $1000, $5000 và $50,000 được phát hành sau năm 1896 chỉ để giao dịch ngân hàng mà thơi. Luật ngân hàng năm 1871 giới hạn các mệnh giá nhỏ nhất mà các ngân hàng đủ tư cách cĩ thể phátn hành đến $4, tăng lên đến $5 trong năm 1880. Để tạo điều kiện mua hàng dưới $5 mà khơng cần sử dụng các giấy bạc của nhà nước tự trị, ngân hàng Molsons đã phát hành giấy bạc $6 và $7 trong năm 1871. Chính phủ ban hành giấy bạc $5 từ năm 1912. Tờ giấy bạc 25¢ cuối cùng, gọi là giấy bạc mất giá do kích cỡ nhỏ của chúng, cĩ niên kỷ vào năm 1923. Trong năm 1935, chỉ cịn mười ngân hàng đủ tư cách (chartered bank) vẫn cịn phát hành giấy bạc, ngân hàng Canada được thành lập và bắt đầu phát hành các giấy bạc với các mệnh giá $1, $2, $5, $10, $20, $50, $100, $500 và $1000. Năm 1944, các ngân hàng đủ tư cách đã bị cấm khơng cho phát hành tiền tệ riêng của mình, với Ngân hàng Hồng gia Canada và Ngân hàng Montreal thuộc số những ngân hàng cuối cùng được phát hành giấy bạc. Mặc dù tiền xu $1 được giới thiệu vào năm 1935, nhưng chưa tới khi giới thiệu nĩ thì giấy bạc ngân hàng $1 đã được rút khỏi lưu thơng. Giấy bạc $2 cũng đã được thay thế bằng tiền xu năm 1996. Hiện tại tất cả các giấy bạc ngân hàng đều được Cơng ty giấy bạc Canada và BA International Inc in cho Ngân hàng Canada. Trong năm 2000, Ngân hàng Canada ngừng việc phát hành giấy bạc $1000 và bắt đầu rút chúng ra khỏi lưu thơng, "như là một phần của cuộc chiến chống rửa tiền và các tổ chức tội phạm. 5.5. Tiền tệ chính thức Giấy bạc đơ la Canada được Ngân hàng Canada phát hành là tiền tệ chính thức ở Canada. Tuy nhiên, các giao dịch thương mại cĩ thể được thanh tốn hợp pháp theo bất kỳ cách nào mà các bên liên quan thỏa thuận. Tiền tệ chính thức của hệ thống tiền tệ Canada được điều chỉnh bằng Đạo luật tiền tệ, trong đĩ đặt ra giới hạn của:[9] $40 nếu mệnh giá là $2 hoặc cao hơn nhưng khơng vượt quá $10; $25 nếu mệnh giá là $1; $10 nếu mệnh giá là 10¢ hoặc cao hơn nhưng khơng quá $1; $5 nếu mệnh giá là 5¢; 25¢ nếu mệnh giá là 1¢. Các nhà bán lẻ ở Canada cĩ thể từ chối giấy bạc của ngân hàng mà khơng vi phạm quy định của pháp luật. Theo các chỉ dẫn pháp lý, phương thức thanh tốn phải được thoả thuận khi các bên tham gia giao dịch. Ví dụ, các cửa hàng nhỏ cĩ thể từ chối giấy bạc ngân hàng $100, nếu họ cảm thấy điều đĩ cĩ thể làm họ trở thành nạn nhân của tiền giả; tuy nhiên, chính sách chính thức gợi ý rằng các nhà bán lẻ nên lượng giá tác động của cách tiếp cận này. Trong trường hợp khơng cĩ hình thức thanh tốn chấp nhận được giữa các bên đối với đồng tiền chính thức đĩ, các bên liên quan nên nhờ tư vấn pháp lý. Ðơ la Canada được một số doanh nghiệp ở các thành phố phía bắc Hoa Kỳ nhất chấp nhận, cũng như đơ la Mỹ được nhiều doanh nghiệp Canada tại các thành phố gần biên giới nhất chấp nhận. 6. Tiền tệ Ghana Cedi (ký hiệu: ₵; mã tiền tệ: GHS) là đơn vị tiền tệ của Ghana. cedi Một được chia thành một trăm pesewas. Các cedi hiện nay được giới thiệu trên 03 Tháng bảy 2007, và bằng 10.000 lần cedi đầu tiên. Đây là trị giá đơn vị tiền tệ cao nhất tại các quốc gia cĩ chủ quyền ở châu Phi trong năm 2007.Từ "cedi" cĩ nguồn gốc từ chữ Akan cho vỏ cowry, vỏ Cowry đã từng được sử dụng trong Ghana như một hình thức tiền tệ. Một số tiền xu Ghana cũng đã được phát hành với mệnh giá Sika. Đây cĩ lẽ tốt nhất được coi là "tiền đúc" , và cĩ thể khơng phổ biến. Các Sika cĩ nghĩa là "tiền". Các cedi đầu tiên đã được thay thế vào năm 1967 bởi một 'mới cedi' cĩ trị giá 1,2 cedis đầu tiên. Điều này cho phép một sự chuyển đổi theo tỷ lệ mới với pound, cụ thể là 2 cedis thứ hai = £ 1. Sự thay đổi cũng cung cấp một cơ hội để loại bỏ hình ảnh của Kwame Nkrumah từ tiền xu và tiền giấy. Tuy nhiên, trong tháng, các cedi thứ hai là mất giá đến một tỷ lệ cedi thứ hai 2,45 = £ 1, ít hơn giá trị của cedi đầu tiên. Tỷ lệ này tương đương với 1 cedi = $ 0,98 và tỷ lệ cho đồng đơ la đã được duy trì khi các bảng Anh đã mất giá trong tháng 11 năm 1967. Hơn nữa chốt đã được thiết lập của $ 0,55 vào năm 1971, $ 0,78 vào năm 1972 và $ 0,8696 vào năm 1973 trước khi được thả nổi tiền tệ vào năm 1978. Lạm phát cao xảy ra sau đĩ, và vì vậy đã được điều chỉnh 2,80 cedi = $ 1,00. Lạm phát tiếp tục ăn mịn giá trị của cedi trên thị trường đen. Trong thập niên tám mươi đầu, chính phủ bắt đầu kiểm sốt giá cả. Điều này đã tác động gần như tất cả thương mại điện ngầm, nơi mà giá cả thị trường đen cho các hàng hố được chỉ tiêu, và khơng cĩ gì tồn tại trên các kệ hàng. Đến năm 1983, các cedi được trị giá khoảng 120 đến $ 1 trên thị trường đen, một gĩi thuốc lá giá khoảng 150 cedi (nếu họ cĩ thể được tìm thấy), nhưng tỷ lệ ngân hàng tiếp tục tại 2,80 cedi = $ 1,00. Cuối cùng, với ngoại tệ “cứng nhắc”làm cho tất cả các giao dịch nhập khẩu, chính phủ đã buộc phải giảm giá dần dần, và tự do hố khơng kiểm sốt giá chặt chẽ như trước. Quá trình này kết thúc vào năm 1990 cho đến tháng 7 năm 2007, các cedi được trị giá khoảng 9.500 đến $ 1, và một chuyển đổi sang cedi thứ ba đã được khởi xướng. Năm 1979, một tịch thu tiền tệ đã diễn ra. tiền giấy mới được ban hành đĩ đã được trao đổi cho cũ với tốc độ 10 lần. Tiền xu và tài khoản ngân hàng đã khơng bị ảnh hưởng. Một tịch thu thứ hai diễn ra vào năm 1982, dân Ghana, trong lý thuyết, cĩ thể trao đổi bất kỳ số lượng 50 cedi sang tiền xu hay tiền giấy khác mà khơng mất, nhưng người nước ngồi khơng thể thực hiện bất kỳ trao đổi. Tuy nhiên, nhiều người dân Ghana tích trữ được một lượng lớn Cedis sợ bị trả thù nếu họ đã cố gắng để chuyển đổi tất cả của nĩ, và do đĩ chỉ đơn giản là đốt rất nhiều tiền của họ. Nhiều người dân Ghana khác nhận được "ghi chú thanh tốn hứa" từ các ngân hàng, nhưng khơng bao giờ nhận được bồi thường. tịch thu này được cơng khai hợp lý như một phương tiện tạo cho cho thị trường đen hưng thịnh. Tuy nhiên, từ gĩc độ tiền tệ, tịch thu tiền tệ cĩ tác dụng làm giảm số tiền mặt cĩ sẵn trong nền kinh tế, và do đĩ làm chậm tỷ lệ lạm phát. Sau khi tịch thu giấy bạc mệnh giá 50 cedi, mà Chính phủ cũng cĩ thể tịch thu những giấy bạc mệnh giá 20 cedi hay thậm chí là 10 cedi. Điều này sợ hãi, cùng với mức lạm phát đang ở mức khoảng 100% hàng năm, dân Ghana mất niềm tin vào tiền riêng của mình. Một số giao dịch chỉ sau đĩ cĩ thể được thực hiện bằng ngoại tệ (mặc dù đĩ là bất hợp pháp), và các giao dịch khác hơn thường lệ bắt đầu trở lại một nền kinh tế hàng đổi hàng. Từ 2007 đến nay Ngày 01 tháng 7 2007, một cedi thứ ba được giới thiệu, trị giá 10.000 cedis thứ hai. [1] sức mua bên ngồi của các loại tiền tệ cũ và mới đều giống nhau; cedi đã khơng mất giá cũng khơng cĩ giá trịnhư trước. Bởi vì sự thay đổi này, tiền tệ của Ghana đã trở thành một trong những đơn vị tiền tệ cĩ giá trị nhất thành đơn vị tiền tệ cĩ giá trị ít nhất. Một loại tiền tệ mới mã ISO là GHS được giới thiệu vào ngày này. Ngồi ra, các ngân hàng trung ương đặt tên là cedi thứ ba Cedi Ghana và được giao các biểu tượng để phân biệt nĩ với các cedi thứ hai, hiện được gọi là cedi với ký hiệu ₵. Các cedi Ghana sẽ, từ tháng 1 năm 2008, được chỉ đơn giản gọi là cedi. Trước tiên cedi Tiền xu đầu tiên cedi đã được ban hành cĩ mệnh giá 5, 10, 25 và 50 pesewas. mệnh giá nhỏ hơn khơng cần thiết như là ½ và 1 penny tiếp tục lưu hành như ½ và 1 pesewa. Tất cả các đồng tiền mang bức chân dung của Kwame Nkrumah. Thứ hai cedi   Pesewa tiền xu Cedi tiền xu Năm 1967, tiền kim loại cho các cedi thứ hai đã được giới thiệu cĩ mệnh giá ½, 1, 2 ½, 5, 10 và 20 pesewas. Năm 1979, tiền kim loại cho 50 pesewas và 1 cedi xuất hiện. Chúng được thay thế vào năm 1984 bởi các loại nhỏ hơn cùng với một đồng xu cedi mới. Năm 1991, 10, 20, 50 và 100 đồng xu cedi đã được giới thiệu, tiếp theo là 200 và 500 cedis vào năm 1996, sáu mệnh giá vẫn cịn trong lưu thơng. Tuy nhiên, 10 cedis (~ 0,1 cent Mỹ) và 20 cedis (~ 0,2 cent Mỹ) đồng xu khơng được nhìn thấy nhiều do giá trị nhỏ. Thứ ba cedi Các đồng tiền mới được 1 pesewa (100 cũ cedi), 5 pesewas (500), 10 pesewas (1000), 20 pesewas (2000), 50 pesewas (5000) và 1 cedi (10.000). Giấy bạc Tất cả các giấy bạc Ghana được phát hành do Ngân hàng của Ghana. Năm 1965, tiền giấy đã được ban hành trong cedi đầu tiên trong giá trị của 1, 5, 10, 50, 100 và ₵ 1000. Tất cả, ngoại trừ năm 1000. Thứ hai cedi Vấn đề đầu tiên của tiền giấy, ngày năm 1967, đã cĩ mệnh giá 1 ₵, ₵ 5 và ₵ 10. Một loạt thứ hai, được giới thiệu vào năm 1972 và 1973, bao gồm 1 ₵, ₵ 2, ₵ 5 và ₵ 10. Năm 1979, giấy bạc cũ đã được trao đổi vớj một tỷ lệ giảm bao gồm giấy bạc ₵ 1, ₵ 2, ₵ 5, ₵ 10, 20 và ₵ 50. Năm 1983, một loạt tiền giấy mới đã được giới thiệu cĩ mệnh giá 10 ₵, ₵ 20, ₵ 50, ₵ 100 và 200 ₵ cedis. Giấy bạc mệnh giá cao hơn đã được giới thiệu: ₵ 500 (1986), ₵ 1000 (1991), ₵ 2000 (1995), ₵ 5000 (1996), ₵ 10.000 và ₵ 20.000 (năm 2002). Năm 2005, tiền giấy lưu hành đã được ₵ 1000, ₵ 2000, ₵ 5000, ₵ 10.000 và 20.000 ₵. Thứ ba cedi Các loại tiền tệ mới được bằng tiền tại Ghana cedi (GH ₵), một đơn vị tương đương với 10.000 cedi cũ, và Ghana pesewa (Gp), bằng một phần trăm của một cedi Ghana hoặc 10.000 cũ pesewa (100 cũ cedi). Giấy bạc được phát hành trong GH ₵ 1, GH ₵ 5, GH ₵ 10, GH ₵ 20, và GH ₵ 50 mệnh giá. tiền tệ được thay thế bắt đầu vào tháng 7 năm 2007, và sau một quá trình chuyển đổi tháng sáu chỉ cĩ thể được trao đổi tại các ngân hàng. Hai loaị mới Cedi tiền giấy được ban hành ngày ngày 14 tháng năm năm 2010. 7. Tiền tệ của Nigieria Naira là đơn vị tiền tệ của Nigieria. Nĩ được chia thành 100 Koubou. Ngân hàng Trung ương của Nigeria (CBN) là nơi phát hành duy nhất của tiền hợp pháp trên tồn Liên bang. Nĩ kiểm sốt khối lượng cung tiền trong nền kinh tế để bảo đảm sự ổn định tiền tệ và giá cả. Các hoạt động tiền tệ và chi nhánh của Cục CBN phụ trách quản lý tiền tệ, thơng qua đấu thầu, phân phối, phát hành lại và xử lý sai sĩt của các giấy bạc ngân hàng và tiền xu. Lịch sử Naira được giới thiệu vào năm 1973, thay thế cho pound với tỷ lệ 2 naira = £ 1. Điều này làm Nigeria nước cuối cùng từ bỏ hệ thống tiền tệ £. Cĩ một kế hoạch để phát hành naira mới 1 = 100 naira cũ trong năm 2008, nhưng kế hoạch này đã bị treo. Tiền xu Năm 1973, tiền xu đã được giới thiệu cĩ mệnh giá ½, 1, 5, 10 và 25 Koubou, với ½ và 1 Koubou bằng đồng và các mệnh giá cao hơn bằng nickel-cupro. Các đồng tiền Koubou ½ chỉ đúc năm đĩ. Năm 1991, mệnh giá 1, 10 và 25 đã được ban hành tiền xu Koubou ở đồng bằng thép mạ, cùng với nickel-thép mạ 50 Koubou và naira 1. Ngày 28 tháng 2 năm 2007, đồng tiền mới đã được ban hành cĩ mệnh giá 50 Koubou, 1 và 2 naira, với 1 và 2 naira bằng hỗn hợp kim loại. Một số người Nigeria đã bày tỏ lo ngại về khả năng sử dụng đồng tiền này Thời hạn trao đổi các loại tiền tệ cũ được thiết lập tại 31 tháng 5 năm 2007. Ngân hàng trung ương nĩi rằng ½ đến 25 xu Koubou được rút khỏi lưu thơng cĩ hiệu lực từ 28 tháng 2 năm 2007. ½ Koubou 1 Koubou 5 Koubou 10 Koubou 25 Koubou 50 Koubou 1 naira 2 naira Giấy bạc Năm 1973, Ngân hàng Trung ương của Nigeria giới thiệu giấy bạc 50 Koubou, 1, 5, 10 và 20 naira. Các giấy bạc 50 Koubou đã được ban hành cuối năm 1989. Năm 1991, giấy bạc 50 naira đã được ban hành, tiếp theo là 100 naira vào năm 1999, 200 naira trong năm 2000, 500 naira năm 2001 và 1000 naira trên 12 tháng 10 năm 2005. Ngày 28 tháng 2 2007, phiên bản mới của các loại tiền 5-50 naira được giới thiệu. Ban đầu là 10, 20 và 50 naira đã được giấy bạc polymer, nhưng 5,10 và 50 naira bị trì hỗn đến cuối năm 2009 và chỉ cĩ 20 naira được phát hành vào polymer. Các giấy bạc hơi nhỏ hơn (130 x 23 mm) và được thiết kế lại từ những phiên bản trước đĩ. Vào giữa năm 2009 khi Sanusi Lamido Sanusi đã nhân chức thống đốc CBN ơng đã thay đổi 5, 10 và 50 naira bắng polymer. Trên giấy bạc 1.000 naira, cĩ một dải sáng bĩng tinh tế chạy xuống phía sau của các giấy bạc. Nĩ là một màu vàng shimmery hiển thị 1.000 naira. Các hình tam giác ở giữa mặt trước của giấy bạc, những thay đổi màu sắc từ xanh lá cây sang màu xanh da trời khi nghiêng. Các tính năng chính ở mặt trước là chân dung khắc của Alhaji Aliyu Mai-Bornu và Tiến sĩ Clement Isong, cựu thống đốc của Ngân hàng Trung ương của Nigeria. Trên bản in đầu tiên của giấy bạc 100 naira phát hành bắt đầu từ ngày 1 tháng 12 năm 1999 Naira thứ hai naira được lập biểu cho phát hành trong tháng 8 năm 2008, mặc dù điều này đã được hủy bỏ của Tổng thống Umaru Musa Yar'Adua Alhaji, với 100 naira cũ để trở thành 1 mới naira. Các Ngân hàng Trung ương Nigeria đã tuyên bố rằng nĩ sẽ làm cho naira chuyển đổi hồn tồn so với các loại tiền tệ nước ngồi vào năm 2009. Hiện nay, lượng ngoại tệ được quy định thơng qua đấu giá hàng tuần, trong khi Ngân hàng Trung ương thiết lập tỷ giá hối đối. Các naira đánh giá cao so với đồng USD thơng qua năm 2007 do doanh thu dầu cao. Thống đốc Ngân hàng, Giáo sư Chukwuma Soludo ra quyết định các ngân hàng trung ương hàng tuần đấu giá ngoại tệ sẽ dần dần được loại bỏ, và ngân hàng sẽ "chỉ can thiệp vào thị trường là để đạt được mục tiêu của chính sách".. Tiền xu Tiền xu đã được phát hành với mệnh giá: 1 Kobo (N 0,01) 2 Kobo (N 0,02) 5 Kobo (N 0,05) 10 Kobo (N 0,10) 20 Kobo (N0.20) Giấy bạc Tiền giấy đã được in mệnh giá: 50 Kobo (N 0,50) 1 Naira (N1.00) 5 Naira (N5.00) 10 Naira (N10.00) 20 Naira (N20.00) 8. Tiền tệ Marocco Dirham (Tiếng Ả Rập: درهم, số nhiều: دراهم) là tiền tệ của Ma-rốc. Dạng số nhiều được phát âm darahim, mặc dù trong tiếng Pháp và tiếng Anh "dirhams" thường được sử dụng. Mã ISO 4217 là "MAD". Nĩ được chia thành 100 santimat (từ: santim, tiếng Ả Rập từ: سنتيم, số nhiều: سنتيما hoặc سنتيمات). Điaham là do Ngân hàng Al-Maghrib, ngân hàng trung ương của Ma-rốc. Đây cũng là tiền tệ ở Tây Sahara. Trong khi Điaham là hồn tồn chuyển đổi tiền tệ. Lịch sử Trước khi giới thiệu tiền đúc hiện đại vào năm 1882, Ma-rốc đã ban hành đồng tiền xu mệnh giá bằng falus, giấy bạc Điaham & tiền xu bằng mệnh giá benduqi. Từ năm 1882, các Điaham đã trở thành một phân khu của Rial Ma-rốc. Điaham được giới thiệu lại vào năm 1960. Nĩ thay thế cho franc là đơn vị chủ yếu của loại tiền tệ nhưng, cho đến năm 1974, franc tiếp tục lưu hành, với 1 Điaham = 100 franc. Trong năm 1974, thay thế santim franc. Tiền xu Năm 1960, 1 đồng xu bằng bạc Điaham được giới thiệu. Chúng được theo sau bởi 1 Điaham niken và tiền xu 5 Điaham bạc vào năm 1965. Năm 1974, ra đời santim, một tiền đúc mới được giới thiệu cĩ mệnh giá 1, 5, 10, 20 và 50 và 1 santimat Điaham. Các santim được đúc bằng nhơm, 5 lên đến 20 santimat được đúc bằng đồng, với hai mệnh giá cao nhất bằng nickel-cupro. Cupro-nickel tiền xu 5 Điaham đã được thêm vào năm 1980 và đổi thành một đồng xu bi-kim loại trong năm 1987. Một santim chỉ đúc cho đến năm 1987 khi mẫu thiết kế mới đã được giới thiệu, với một Điaham ½ thay thế santimat 50 mà khơng thay đổi kích thước hoặc thành phần. Những đồng xu 5 Điaham mới được bimetallic, như các đồng xu 10 Điaham giới thiệu vào năm 1995. Cupro-nickel tiền xu 2 Điaham đã được giới thiệu vào năm 2002. Điaham Tiền xu Giá trị các thơng số kỹ thuật mơ tả Đường kính Thánh Lễ Thành phần Edge Mặt Reverse 1 cent 17 mm 0,7 g nhơm Smooth hiệu của Anh và dịng chữ "Vương quốc Ma-rốc" Thiết kế của cá 5 xu 17,5 mm 2 g nhơm đồng 92% đồng 6% nhơm 2% nickel Smooth hiệu của Anh và dịng chữ "Vương quốc Ma-rốc" Cá trong một lưới đánh cá dưới một tiller thuyền 10 cent 20 mm 3 g vàng Bắc Âu 89% đồng Nhơm 5% 5% kẽm 1% tin nhiều lau An tai của bắp 20 cent 23 mm 4 g nhiều lau Thiết kế đại diện cho một Fibule ½ Điaham 21 mm 4 g Cupronickel 75% đồng 25% nickel nhiều lau hiệu của Anh và dịng chữ "Vương quốc Ma-rốc" Thiết kế đại diện truyền thơng và cơng nghệ mới 1 Điaham 24 mm 6 g nhiều lau Mohammed VI (các vấn đề trước đĩ cho thấy Hassan II) vũ khí của Vương quốc và dịng chữ "Vương quốc Ma-rốc" 2 Điaham 26 mm 7 g nhiều lau Mohammed VI 5 dirhams 25 mm 7,5 g Ring: Cupronickel (như 1 Điaham) Trung tâm: 70% Cu 24,5% Zn 5,5% Ni nhiều lau Mohammed VI (các vấn đề trước đĩ cho thấy Hassan II) 10 dirhams 28 mm 12 g Ring: Nhơm đồng (như 5 santimat) Các giấy bạc đầu tiên trong Điaham được in dựa trên giấy bạc franc trước đĩ, cĩ mệnh giá 50 Điaham (trên 5.000 franc) và 100 Điaham (trên 10.000 franc). Năm 1965, tiền giấy mới được phát hành cho 5, 10 và 50 Điaham. Loại 100 Điaham đã được giới thiệu vào năm 1970, tiếp theo là 200 Điaham vào năm 1991 và Điaham 20 năm 1996. giấy bạc 5 Điaham được thay thế bằng tiền xu vào năm 1980, và 10 Điaham vào năm 1995. Điaham Giấy bạc Giá trị Kích thước Mặt Reverse màu mơ tả chi tiết 10 dirhams 143 × 70 mm màu vàng và màu hồng (1987) màu tím (1991) Hassan II Moroccan Lute Hassan II năm 1987 1987/ca. 1991 50 dirhams 148 × 70 mm Green Hassan II Một cảnh fantasia Hassan II 1987 1987/ca. 1991 100 dirhams 153 × 75 mm Brown Hassan II The Green tháng Hassan II năm 1987 1987/ca. 1991 200 dirhams 158 × 75 mm Blue Hassan II động vật cĩ vỏ, một chi nhánh của san hơ, và một thuyền đánh cá Ả Rập. Hassan II 1.987 ca. 1991 1996 Series 20 dirhams 130 × 68 mm Brown-đỏ Hassan II Wall đài phun nước của Hassan II Mosque Hassan II 1996 1996 2002 Series 20 dirhams 140 × 70 mm Violet Mohammed VI A xem panoramical của Mohammed VI Oudayas và "20" 2005 2005 50 dirhams 147 × 70 mm Green Mohammed VI A xây dựng đất sét làm (Ksour) Mohammed VI và "50" 2002 2002 100 dirhams 150 × 78 mm Brown Mohammed VI, Mohammed V và Hassan II The Green tháng Mohammed VI và "100" 2002 2002 200 dirhams 158 × 78 mm [[Hình: | 100px]] [[Hình: | 100px]] Blue Mohammed VI và cửa sổ Hassan II A của Hassan II Mosque Mohammed VI và "200" 2002 2002 Phổ biến và cách sử dụng mệnh giá Những bao gồm (Rial cách phát âm tiếng Ả Rập:] rjal [), tương đương với 5 santimat, và franc fr [ˤ ɑnk], tương đương với 1 santim. Thơng thường, khi mua bán hàng hĩa cĩ giá trị thấp hơn 1 Điaham , người ta thường sử dụng hoặc santim Rial. Đối với hàng hố cĩ giá rất cao, chẳng hạn như xe hơi, thì tham khảo giá bằng santimat. Tuy nhiên, Rial được sử dụng khi nĩi bằng tiếng Ả Rập và centime khi nĩi bằng tiếng Pháp. Mặc dù khơng được sử dụng bởi các thế hệ trẻ, các mệnh giá 1.000, 2.000, ... 100.000 franc để sẽ được sử dụng bởi những người sống trong thời kỳ thực dân Pháp khi đề cập đến 10, 20 và 1000 Điaham. Tương tự như vậy, Rial cũng được sử dụng cho giá trị cao hơn các phần của Điaham các, đạt 5.000 dhs (100.000 Rial). mệnh giá này được sử dụng trong ngữ cảnh nĩi tiếng Ả Rập đặc biệt là phổ biến như Medina cũ, chợ rau. Tiền Điaham bằng kim loại Tiền Điaham bằng Polymer Tiền Điaham hình thái cũ 9.Tiền tệ Cuba Các peso ( kí hiệu ISO: CUP, đơi khi được gọi là "quốc gia peso" hay tiếng Tây Ban Nha) là một trong hai loại tiền tệ chính thức được sử dụng tại Cuba, là peso Chuyển Đổi (mã ISO: CUC, đơi khi được gọi là "đơ la" trong ngơn ngữ nĩi). Nĩ được chia thành 100 centavos. Cơng nhân nhà nước Cuba nhận được một phần tiền lương của họ bằng peso chuyển đổi, phần cịn lại trong peso quốc gia. Cửa hàng bán lẻ như trái cây và rau quả, thường chỉ chấp nhận các peso bình thường, trong khi "cửa hàng đồng đơ la" bán phần cịn lại. Từ "peso" cĩ thể là cả hai khơng chuyển đổi và chuyển đổi tiền. peso Cuba Chuyển Đổi được 25 lần giá trị hơn, nhưng điều này khơng hồn tồn loại bỏ sự nhầm lẫn cho khách du lịch: từ hàng hố mua bằng peso quốc gia đã kiểm sốt giá cả, khách du lịch đơi khi bị nhầm lẫn bởi giá xem là "quá rẻ". Lịch sử Trước năm 1857, là thuộc địa củaTây Ban Nha và tiền Reales lưu hành tại Cuba. Từ năm 1857, tiền giấy đã được ban hành cụ thể để sử dụng trên Cuba. Đây là tiền peso, với 1 peso = 8 Reales. Từ năm 1869, tiền giấy cũng đã được phát hành bằng centavos, với 100 centavos = 1 peso. Năm 1881, đồng peso đã được tăng vọt và quy đổi với đơ la Mỹ. Các loại tiền tệ tiếp tục được ban hành chỉ ở dạng giấy cho đến 1915, khi tiền xu đầu tiên được phát hành. Năm 1960, tỉ giá với đồng đơ la đã được thay thế bởi một đến đồng rúp Xơ viết. Các đồng peso bị mất giá trị do Hoa Kỳ cấm vận chống Cuba và đình chỉ của hạn ngạch đường. Đình chỉ này là động lực chủ yếu kinh tế Cuba để tìm ra một đối tác kinh tế mới là Liên Xơ. Khi Liên Xơ tan rã vào năm 1991, đồng peso mất nhiều giá trị của nĩ và tỷ lệ trao đổi giảm xuống 125 peso cho USD. Gần đây, nĩ đã trở thành giá trị hơn, dao động giữa 23 và 25 peso với đồng đơ la. Năm 1993, trong thời kỳ kinh tế khắc khổ được gọi là thời kỳ đặc biệt, đồng đơ la Mỹ đã được thực hiện đấu thầu pháp lý để khuyến khích các ngoại tệ mạnh để nhập vào nền kinh tế. Đồng đơ la đã trở thành đơn vị tiền tệ sử dụng mua một số hàng hố khơng cần thiết và dịch vụ, chẳng hạn như mỹ phẩm, và thậm chí cả các loại phi lương thực phẩm và đồ uống. Năm 1994, đồng peso chuyển đổi đã được giới thiệu ở ngang tầm với đồng đơ la. Ngày 8 tháng 11 năm2004, chính phủ Cuba rút đồng đơ la Mỹ từ lưu thơng, nhằm trả đũa chống lại lệnh trừng phạt của Mỹ. Tiền xu Năm 1915, 1, 2 và 5 centavos bằng cupro-nickel, 10, 20 và 40 centavos và peso 1 bằng bạc, 1, 2, 4, 10 và 20 đồng tiền peso bằng vàng được lưu hành. Những đồng tiền được thiết kế bởi Charles E. Barber. Các đồng tiền được đúc tại đúc Mỹ tại Philadelphia. Các đồng tiền vàng và 2 centavos khơng được sản xuất sau năm 1916, với 1 peso bạc ngừng sản xuất vào năm 1934. 1 và 5 centavos đã được ban hành năm 1943. 10 xu centavo được sản xuất cuối năm 1952. Năm 1953, 25 bạc và 50 đồng xu centavo đã được lưu hành. Đây là những đồng xu bạc cuối cùng phát hành cho lưu thơng. Năm 1962, 20 và 40 centavos bằng cupro-nickel đã được giới thiệu, tiếp theo vào năm 1963 1 và 5 centavos bằng nhơm. Năm 1969, 20 centavos cũng bằng nhơm đã được giới thiệu, tiếp theo 2 centavos và 1 peso bằng đồngvào năm 1983. 3 peso tiền xu đã được giới thiệu vào năm 1990 bằng Cupro-nickel, với đồng-thép mạ peso 1 và nickel-mạ thép-3 peso tiền sau đây vào năm 1992. 40 xu centavo được rút khỏi lưu thơng khoảng tháng bảy năm 2004 và khơng cịn được chấp nhận là thanh tốn. Tiền xu đang lưu hành là 1, 2, 5 và 20 centavos và 1 và 3 peso. Giữa năm 1981 và 1989, Viện quốc gia về Du lịch (Instituto Nacional de Turismo, "INTUR") ban hành "Khách tiền đúc" để sử dụng bởi khách du lịch. Năm 1981, cupro-nickel 5, 10, 25 và 50 centavos và peso 1 đã được giới thiệu, tiếp theo vào năm 1988 bằng nhơm 1, 5, 10, 25 và 50 centavos. Các đồng tiền INTUR được ban hành ngày 15 tháng 10 năm 2001, và được thay thế bằng peso Chuyển Đổi phân đoạn trong 1, 5, 10, 25, 50 centavos và peso 1, đúc ở Canada. Cuối năm 2004, một năm chuyển đổi đồng tiền peso, ngày năm 1999, đã được đặt vào lưu thơng. Giấy bạc Năm 1857, các Banco Espađol de la Habana các giấy bạc cĩ mệnh giá 50, 100, 300, 500 và 1.000 peso. Giấy bạc 25 peso đã được ra đời vào năm 1867, tiếp theo là 5 và 10 peso vào năm 1869. Trong Chiến tranh 10 năm, đã ban hành năm 1869 với tên của Cộng hịa Cuba cĩ mệnh giá 50 centavos, peso 1, 5, 10, 50, 500 và 1000. Năm 1872, 5, 10, 25 và centavo 50, và tiền giấy 1 và 3 peso đã được ra đời từ các Espađol Banco de la Habana. Năm 1891, Kho bạc phát hành giấy bạc 5, 10, 20, 50, 100 và 200 peso. Năm 1896, tên của ngân hàng đổi thành Espađol Banco de la Isla de Cuba và cấp giấy bạc mệnh giá 5 và 50 centavos, 1, 5 10, 50, 100, 500 và 1.000 peso, tiếp theo là 10 và 20 centavos tại năm 1897. Năm 1905, Ngân hàng Quốc gia Cuba (Banco Nacional de Cuba) phát hành giấy bạc 1, 2, 5 và 50 peso. Tuy nhiên, năm 1905 tiền giấy khơng được ban hành (ng Năm 1934, Chính phủ đã giới thiệu giấy bạc (certificados de Plata) cĩ mệnh giá 1, 5, 10, 20 và 50 peso, tiếp theo là 100 peso vào năm 1936 và 500 và 1.000 peso vào năm 1944. Năm 1949, ngân hàng trung ương Cuba tiếp tục sản xuất tiền giấy 1, 5, 10 và 20 peso , tiếp theo là 50, 100, 500, 1.000 và 10.000 peso vào năm 1950. Mệnh giá trên 100 peso đã khơng tiếp tục phát hành. Trong tháng 1 năm 1961, tất cả các giấy bạc ngân hàng trước đây đã được thu hồi, với các giấy bạc ngân hàng mới, in tại Tiệp Khắc, được đưa vào lưu thơng. Giấy bạc 3 peso đã được thêm vào năm 1983.Năm 1961 ngân hàng đã được thu hồi dần. Tiền giấy đang lưu hành là 1, 3, 5, 10, 20, 50 và 100 peso. Cuba đã khơng cĩ giá trị tiền tệ chính thức ở nước ngồi. Các peso (CUP) được sử dụng bởi khách du lịch chỉ cho các sản phẩm sang trọng. Tuy nhiên, người dân địa phương được chi trả phần lớn lương của họ bằng peso và phải trả chi phí tiêu dùng hàng ngày bằng CUP. Tiền xu hình thái ra đời đầu tiên Peso Chuyển Đổi "Khách tiền đúc" để sử dụng bởi khách du lịch Giấy bạc 3 peso 10.Tiền tệ Campuchia. Riel (tiếng Khmer: រៀល, biểu tượng ៛, đọc như Ria, phiên âm tiếng Việt là Riên) là tiền tệ của Campuchia. Cĩ hai loại tiền riel riêng biệt, loại thứ nhất được phát hành giữa năm 1953 và tháng 5 năm 1975, và loại thứ hai kể từ ngày 1 tháng 4 năm 1980. Ở Campuchia, dollar Mỹ cũng được sử dụng rộng rãi. Giữa năm 1975 và 1980, quốc gia này khơng cĩ hệ thống tiền tệ. Tiền riel đầu tiên 1953-1975 Năm 1953, chi nhánh tại Campuchia của Institut d'Emission des Etats du Cambodge, du Laos et du Vietnam đã phát hành tiền giấy đặt hai tên gọi là piastre và riel. Đồng thời, hai chi nhánh khác cũng cĩ hành động tương tự với đồng ở Nam Việt Nam và kip ở Lào. Tiền riel đầu tiên được chia ra 100 centimes (viết tắt cent. trên đồng xu) nhưng đồng xu này năm 1959 đã được đổi thành 100 sen. Trong những năm đầu, hai loại tiền là riel và piastre cùng lưu hành song song. Thực ra, các đồng bạc giấy riel đầu tiên cũng được đặt tên gọi tên bằng piastre. Tiền xu Các loại tiền xu mệnh giá 10, 20 và 50 centime của năm 1953 và sen được đúc bằng nhơm và cĩ kích thước giống với các đồng tiền xu kim loại tương ứng của Lào và Nam Việt Nam (dù xu của Lào khơng cĩ lỗ). Xu 1 riel cĩ kích thước của một US nickel và đã được phát hành năm 1970 nhưng đã khơng được đưa ra dùng, cĩ lẽ do việc lật đổ chính quyền của Norodom Sihanouk của Lon Nol. Tiền giấy Sau khi phát hành tiền giấy đề tên cả riel và piastre (gần như khớp với các đồng tiền ở Lào và Nam Việt Nam), một đồng riel thực sự độc lập đã được phát hành bởi Ngân hàng Quốc gia Campuchia vào năm 1955. Campuchia đã phát hành nhiều xê ri tiền giấy cĩ mệnh giá 1, 5, 10, 20, 50, 100 và 500 riel. Tiền giấy 1000 và 5000 riel được in nhưng đã khơng được phát hành để lưu thơng. Tờ 5000 riel vừa mới ra ([1]) với thiết kế về cuộc sống, lịch sử và thần thoại Campuchia. một tờ 50 riel phát hành giữa 1956 và 1975 Khmer Đỏ 1975-1980 Dù Khmer Đỏ đã in tiền giấy (mệnh giá 0.1, 0.5, 1, 5, 10, 50 và 100 riel, năm 1975) các đồng tiền giấy này đã khơng được phát hành do tiền đã bị bãi bỏ sau khi Khmer Đỏ kiểm sốt quốc gia này. Riel thứ 2, 1980- Sau khi Việt Nam đánh lui Khmer Đỏ năm 1978, đồng riel đã được tái lập làm tiền tệ Campuchia vào ngày 1 tháng 4 năm 1980, ban đầu với giá trị 4 riel = 1 dollar Mỹ. Đồng riel cĩ các đơn vị nhỏ hơn, 1 riel bằng 10 kak hay 100 sen. Do khơng cĩ tiền để thay thế và do nền kinh tế lúc này đang đỗ vỡ nghiêm trọng, chính quyền trung ương đã phát tiền cho dân chúng để khuyến khích người dân sử dụng. Ở các khu vực nơng thơn, tiền riel được sử dụng trên thực tế cho các hoạt động mua bán. Tuy nhiên, dollar Mỹ cũng được sử dụng, đặc biệt ở các vùng đơ thị và khu du lịch. Ở Battambang và những khu vực khác gần biên giới Thái Lan, như Pailin, baht Thái cũng được chấp nhận. Tiền xu Các đồng tiền xu đầu tiên là xu 5 sen đúc năm 1979 bằng nhơm. Khơng cĩ loại đồng xu nào được đúc cho đến năm 1994, khi các xu cĩ mệnh giá 50, 100, 200, và 500 riel đã được giới thiệu. Tuy nhiên, chúng khơng được lưu hành phổ biến. Bộ tiền xu Campuchia Tiền giấy Tiền giấy đã được phát hành nămn 1980 với cách mệnh giá 1, 2 và 5 kak, 1, 5, 10, 20 và 50 riel. Các tờ bạc giấy sau này cĩ mệnh giá lên đến 100.000 riel. Tuy nhiên, bạc giấy trên 10.000 riel thì ít phổ biến hơn. Xê ri các tờ bạc giấy dần được giới thiệu gần đây từ năm 2001-2002 là 50, 100, 500, 1000, 5000, 10.000, 50.000 và 100.000 riel Tiền riel lưu hành năm 2000 11.Tiền tệ Nhật bản Đồng yên Nhật (円 hay 圆, en) (Ký hiệu: ¥; mã ISO: JPY) là tiền tệ chính thức của Nhật Bản. Đây là loaị tiền phổ biến thứ ba được giao dịch tiền tệ trong thị trường ngoại hối sau đồng đơ la Mỹ và đồng euro. Nĩ cũng được sử dụng rộng rãi như một loại tiền tệ dự trữ sau đồng đơ la Mỹ, Đồng euro và đồng bảng Anh. Phát âm và từ nguyên Yên được phát âm "en" [eɴ] trong tiếng Nhật. Từ (Shinjitai: 円, truyền thống Trung Quốc / Kyūjitai: 圆) cĩ nghĩa là "vật thể trịn" trong tiếng Nhật, như nhân dân tệ tại Trung Quốc. Ban đầu, Trung Quốc đã buơn bán bạc trong đại chúng, và khi xu bạc Tây Ban Nha và Mexico đã đến, họ được gọi “vịng bạc” cho các hình dạng trịn. Các đồng tiền và tên cũng xuất hiện ở Nhật Bản. Chính tả và phát âm "yên" là tiêu chuẩn bằng tiếng Anh. Điều này là do chủ yếu là tiếng Anh do người Anh viếng thăm Nhật Bản vào cuối thời kỳ Edo đến thời Minh Trị được đánh vần theo cách này. Những đồng đơ la tiền xu 1¥ tiền giấy in tại Tây Ban Nha thế kỷ XIX đã được dùng phổ biến trên tồn miền Nam ở phía đơng châu Á, bờ biển Trung Quốc, và Nhật Bản. Những đồng xu đã được giới thiệu qua Manila trong một khoảng hai trăm năm mươi năm, đến khi tàu từ Acapulco ở Mexico đến. Những con tàu này được gọi là đồng vàng Manila. Cho đến thế kỷ XIX những đồng đơ la tiền xu bạc đã được thực tế đơ la Tây Ban Nha đúc trong thế giới mới, chủ yếu là ở Mexico City. Nhưng từ thập niên 1840 họ đã ngày càng thay thế bằng đơ la bạc của nước cộng hịa Mỹ Latinh. Trong nửa cuối thế kỷ XIX một số đồng tiền địa phương trong khu vực đã quen dùng đồng đơ la Mexico. Việc đầu tiên của những đồng xu bạc địa phương là đồng đơ la Hong Kong đồng xu bạc được đúc tại một đúc ở Hồng Kơng từ những năm 1866 và 1868. Người Trung Quốc đã chậm chạp trong việc chấp nhận tiền đúc khơng quen thuộc và ưa thích các đơ Mexico quen thuộc, và vì vậy chính quyền Hong Kong đã ngừng đúc các đồng tiền và bán các máy mĩc làm bạc cho Nhật Bản. ¥ 1 đồng xu bằng 1,5 g vàng nguyên chất. Theo sau đĩ quyết định áp dụng một đồng đơ la tiền đúc bằng bạc dưới cái tên '' yen, nghĩa là 'một vật thể trịn ". Đồng yên đã chính thức được thơng qua bởi chính phủ Minh Trị trong một đạo luật ký ngày 10 tháng 5 1871. Các loại tiền tệ mới đã được giới thiệu dần dần bắt đầu từ tháng bảy năm đĩ. Yên do đĩ về cơ bản đã được một đơn vị đơ la, giống như tất cả đơ la, hậu duệ của Pieces tiếng Tây Ban Nha. Đồng yên Tokugawa thay thế tiền đúc, một hệ thống tiền tệ phức tạp của thời kỳ Edo. Đạo luật tiền tệ mới của năm 1871 quy định việc áp dụng của hệ thống kế tốn thập phân của yen (1, 圆), sen (1 / 100, 銭), và Rin (1 / 1000, 厘), là tiền xu đúc như ở phương Tây. Đồng yên đã được hợp pháp được xác định là 0,78 troy ounce (24,26 g) của bạc nguyên chất, hoặc 1,5 gam vàng tinh khiết do đĩ đặt nĩ trên một tiêu chuẩn bimetallic  Đồng bạc ¥ 1 khoảng 24,26 gam bạc tinh khiết, Nhật Bản, đúc vào năm 1870. Năm 1897 đồng yên trị giá khoảng 50 cent (Mỹ) Trong năm đĩ, Nhật Bản đã thơng qua một tiêu chuẩn vàng trao đổi và vì thế đĩng băng giá trị của đồng yên tại 50 cent. Sen và Rin cuối cùng đã bị đưa ra khỏi lưu thơng vào cuối năm 1953. ¥ 1 đồng xu bằng 1,5 g vàng nguyên chất ¥ 1 khoảng 24,26 gam bạc tinh khiết Đồng yên mất phần lớn giá trị của nĩ trong và sau Chiến tranh Thế giới II. Sau một thời gian bất ổn, trong năm 1949, giá trị của đồng yên đã được cố định tại ¥ 360 cho mỗi $ 1 Mỹ thơng qua một kế hoạch Hoa Kỳ, đĩ là một phần của hệ thống Bretton Woods, để bình ổn giá trong nền kinh tế Nhật Bản. Đĩ là tỷ giá được duy trì cho đến năm 1971, khi Hoa Kỳ từ bỏ tiêu chuẩn vàng, vốn đã được một yếu tố quan trọng của hệ thống Bretton Woods, và áp đặt một khoản phụ thu 10 phần trăm nhập khẩu, thay đổi thiết lập trong chuyển động mà cuối cùng dẫn đến tỷ giá hối đối thả nổi năm 1973. Bởi 1971 đồng yên đã trở thành bị định giá thấp. xuất khẩu của Nhật Bản đã chi phí quá ít trong thị trường quốc tế, và nhập khẩu từ nước ngồi được chi phí của Nhật Bản quá nhiều, sự đánh giá thấp này được phản ánh trong số dư tài khoản hiện hành, vốn đã tăng từ mức thâm hụt của đầu những năm 1960 để sau đĩ thặng dư lớn của 5,8 tỷ USD vào năm 1971. Niềm tin rằng đồng yên, và một số loại tiền tệ lớn khác, đã bị định giá thấp động cơ hành động của Hoa Kỳ vào năm 1971. Sau các biện pháp của Hoa Kỳ để phá giá đồng đơ la vào mùa hè 1971, chính phủ Nhật Bản đã đồng ý một tỷ lệ, mới trao đổi cố định như là một phần của Hiệp định Smithsonian, ký kết vào cuối năm nay. Thỏa thuận này đặt theo tỷ giá tại Mỹ ¥ 308 cho mỗi $ 1. Tuy nhiên, tỷ giá cố định mới của Hiệp định Smithsonian gặp nhiều khĩ khăn để duy trì khi đối mặt với áp lực cung cấp và nhu cầu trong thị trường ngoại hối. Đầu năm 1973, mức giá đã bị bỏ rơi, và các quốc gia lớn trên thế giới cho phép tiền tệ của họ để thả nổi. Trong những năm 1970, chính phủ Nhật Bản và doanh nhân đã rất lo ngại rằng sự gia tăng trong giá trị của đồng yên sẽ làm tổn thương tăng trưởng xuất khẩu bằng cách làm cho sản phẩm của Nhật Bản ít bị cạnh tranh và sẽ thiệt hại cơ sở cơng nghiệp. Chính phủ nên tiếp tục can thiệp mạnh vào thị trường ngoại hối (mua, bán USD), ngay cả sau khi quyết định năm 1973 để cho phép đồng yên nổi. Mặc dù can thiệp, áp lực thị trường gây ra đồng yên để tiếp tục leo giá trị, đạt đỉnh tạm thời tại một trung bình là 271 ¥ mỗi US $ 1 vào năm 1973 trước khi tác động của cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973. Các chi phí gia tăng của dầu nhập khẩu do đồng yên để trích khấu hao cho một loạt các ¥ 290 đến 300 ¥ giữa năm 1974 và 1976. Sự xuất hiện lại thặng dư thương mại đưa đồng yên trở lại lên tới 211 ¥ năm 1978. Điều này củng cố tiền tệ đã được một lần nữa đảo ngược bởi các cú sốc dầu mỏ lần thứ hai vào năm 1979, với đồng yên giảm xuống ¥ 227 của năm 1980. Yên trong những năm 1980 Trong nửa đầu của thập niên 1980, đồng yên đã khơng gia tăng giá trị ngay cả khi thặng dư tài khoản hiện tại trở lại và lớn nhanh. Từ ¥ 221 vào năm 1981, giá trị trung bình của đồng yên thực sự giảm xuống ¥ 239 vào năm 1985. Sự gia tăng trong thặng dư tài khoản hiện tại tạo ra nhu cầu mạnh mẽ hơn cho yên tại các thị trường ngoại hối, nhưng nhu cầu này liên quan đến thương mại cho yen đã được bù đắp bởi các yếu tố khác. Một khác biệt lớn về lãi suất, với lãi suất Hoa Kỳ cao hơn nhiều so với những người ở Nhật Bản, và tiếp tục di chuyển dịng vốn quốc tế, dẫn đến một dịng chảy rịng lớn vốn từ Nhật Bản. Dịng vốn này gia tăng việc cung cấp yen tại các thị trường ngoại hối, như các nhà đầu tư Nhật Bản thay đổi đồng yên của họ cho loại tiền tệ khác (chủ yếu là USD) để đầu tư ở nước ngồi. Điều này đã giữ yên yếu tương đối so với đồng đơ la và bồi dưỡng sự gia tăng nhanh chĩng trong thặng dư thương mại Nhật Bản diễn ra vào những năm 1980. Đồng yên giảm xuống đạt mức thấp ¥ 134 đến $ 1 Mỹ trong tháng hai 2002. Ngân hàng chính sách của Nhật Bản lãi suất bằng khơng đã khuyến khích đầu tư yen, với sự xúc tiến thương mại của nhà đầu tư vay đồng yên và đầu tư vào các loại tiền tệ tốt hơn, trả tiền (như vậy, tiếp tục đẩy xuống yen) ước tính lớn như 1000000000000 $. Trong Tháng Hai năm 2007, các nhà kinh tế học ước tính rằng đồng yên cĩ thể bị định giá thấp 15% so với đồng USD và nhiều đến40% bị định giá thấp so với euro. Tiền xu ¥ 20 coin.Coins vàng đã được giới thiệu vào năm 1870. Cĩ bạc 5, 10, 20 và 50 sen và 1 ¥, và vàng 2, 5, 10 và 20 ¥. Gold ¥ 1 đã được giới thiệu vào năm 1871, tiếp theo là đồng 1 rin, ½, 1 và 2 sen năm 1873. Cupronickel 5 xu sen đã được giới thiệu vào năm 1889. Năm 1897, các đồng xu 1 ¥ bạc được demonetized và kích thước của những đồng xu vàng đã giảm 50%, với 5, 10 và 20 ¥ đồng tiền phát hành. Năm 1920, cupro-nickel tiền xu 10 sen được giới thiệu. Đồng xu bạc 1 yen, 26,96 gam bạc tinh khiết 0,900, Nhật Bản, đúc năm 1901 sản xuất (năm 34 của thời kỳ Meiji) của đồng xu bạc. Chấm dứt vào năm 1938, sau đĩ một loạt các kim loại cơ bản đã được sử dụng để sản xuất 1, 5 và 10 sen tiền xu trong Thế chiến thứ hai, tiền xu ¥ 10 đã được sản xuất vào năm 1945 nhưng khơng phát hành cho lưu thơng. ¥ 10 đồng xu (mặt phải) hiển thị Phoenix Hall of inAfter-Byōdō chiến tranh, đồng ¥ 50, 1 và 5 ¥ đã được giới thiệu giữa năm 1946 và 1948. Năm 1949, loại hiện tại của lỗ ¥ 5 đã được giới thiệu, tiếp theo là đồng ¥ 10 (loại vẫn cịn trong lưu thơng) vào năm 1951. Tiền xu cĩ mệnh giá nhỏ hơn 1 ¥ trở thành khơng hợp lệ, ngày 31 tháng 12 năm 1953, Năm 1955, loại hiện hành của nhơm ¥ 1 đã được giới thiệu, cùng với niken 50 ¥. Năm 1957, bạc ¥ 100 miếng được giới thiệu. Chúng được thay thế vào năm 1967 bởi loại hiện hành cupro-nickel,, cùng với các đồng tiền yen lỗ 50. Năm 1982, ¥ 500 tiền xu đầu tiên được giới thiệu. Theo Ngày 04 tháng 9 năm 2009, 500 đồng tiền yen là những giá trị cao nhất tiền xu sẽ được sử dụng thường xuyên trên thế giới (nơi này thường được chuyển đổi bởi những 5 đồng tiền peso Cuba chuyển đổi), với giá trị trong khu phố của Hoa Kỳ $ 5,50, 3,90 €, £ 3,80 và 5,80 CHF. Vì giá trị này phải đối mặt cao với việc đồng yên 500 đã được một mục tiêu ưa thích cho hàng giả mạo. Nĩ được làm giả đến mức mà vào năm 2000 một loạt các tiền xu được phát hành với tính năng bảo mật khác nhau. Mặc dù những thay đổi này, tiền giả vẫn giả tiếp tục. Hình tờ giấy bạc 1000 yen Hình tờ giấy bạc 100000 yên Bộ sưu tập giấy bạc Nhật 12.Tiền tệ Việt Nam. Đồng (VND) là đơn vị tiền tệ chính thức của Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành. Nĩ cĩ ký hiệu là ₫, mã quốc tế theo ISO 4217 là "VND". Một đồng cĩ giá trị bằng 100 xu hay 10 hào. Hai đơn vị xu và hào vì quá nhỏ nên khơng cịn được phát hành nữa. Tiền giấy được phát hành hiện nay cĩ giá trị 500₫, 1000₫, 2000₫, 5000₫, 10.000₫, 20.000₫, 50.000₫, 100.000₫, 200.000₫ và 500.000₫. Đồng thời cũng cĩ tiền kim loại trị giá 200₫,500₫, 1000₫, 2000₫ và 5000₫. Loại tiền này cịn được gọi một cách dân dã là Tiền cụ Hồ, đặc biệt khi dùng để phân biệt với các loại tiền khác đã từng lưu hành tại Việt Nam cĩ cùng tên gọi là "đồng".Theo luật pháp hiện hành của Việt Nam, tiền giấy và tiền kim loại là phương tiện thanh tốn pháp quy khơng giới hạn nghĩa là người ta bắt buộc phải chấp nhận khi nĩ được dùng để thanh tốn cho một khoản nợ xác lập bằng VND với mọi số lượng, mệnh giá. Thời Bắc thuộc Căn cứ vào những đồng tiền thu được khi tiến hành khảo cổ, từ thời Bắc thuộc tiền đồng Trung quốc đã được sử dụng ở Việt Nam như tiền Hán nguyên thơng bảo của nhà Hán, đồng Khai nguyên thơng bảo của nhà Đường. Bên cạnh đĩ, những đĩnh vàng, đĩnh bạc của Trung quốc cũng được lưu hành. Thời phong kiến độc lập Mặt trước của đồng 5 piastre Tờ bạc 100 đồng Đơng Dương (đồng Đơng Dương) Ngồi những đĩnh vàng, đĩnh bạc, tiền tệ Việt Nam chủ yếu là tiền đồng, tiền kẽm. Thời Đinh, Lê: Đinh Tiên Hồng cho đúc tiền đồng hiệu Thái bình thơng bảo sau đĩ Lê Đại Hành cho đúc tiền đồng Thiên phúc trấn bảo. Thời Lý: dưới triều vua Lý Thái Tơng, tiền đồng cĩ hiệu Minh đạo thơng bảo, sang đến triều Lý Thần Tơng, tiền đồng hiệu là Thuận thiên thơng bảo. Thời Trần, Hồ: các triều vua cũng cho đúc tiền đồng, đến đời Trần Minh Tơng (1323) thì chuyển sang đúc tiền kẽm, tuy nhiên do tiền kẽm sử dụng khơng được thuận tiện nên nhanh chĩng bị bãi bỏ. Dưới triều vua Trần Thuận Tơng, Hồ Quý Ly chấp chính đã bắt đầu cho phát hành tiền giấy gọi là Thơng bảo hội sao. Tiền giấy Thơng bảo hội sao cĩ các loại mệnh giá sau: 1 quan vẽ rồng, 30 đồng vẽ sĩng nước, 10 đồng vẽ cây đào, 5 tiền vẽ chim phượng, 3 tiền vẽ kỳ lân, 2 tiền vẽ rùa, 1 tiền vẽ mây. Dân cư cĩ tiền cũ phải nộp hết vào kho của Nhà nước và cứ 1 quan tiền đồng đổi thành 1 quan 2 tiền giấy, ai tàng trữ sẽ bị tử hình nhằm loại bỏ hẳn tiền đồng và bắt buộc sử dụng tiền giấy. Thời Lê, Mạc: trải qua giai đoạn bị nhà Minh đơ hộ, khi Lê Thái Tổ lật đổ ách thống trị của nhà Minh và lên ngơi vua, tiền đồng trong nước khơng cịn, ơng cho đúc tiền đồng Thuận thiên thơng bảo và quy định 1 tiền bằng 50 đồng. Triều vua Lê Thái Tơng đúc tiền đồng hiệu Thiệu bình và quy định 1 tiền bằng 60 đồng. Năm 1528, Mạc Đăng Dung cho đúc tiền kẽm và cả tiền sắt, đến năm 1658, tiền kẽm và tiền sắt bị cấm sử dụng. Dưới triều vua Lê Hiển Tơng (niên hiệu Cảnh Hưng), do những cuộc nội chiến liên miên tốn kém chi phí nên nhà vua cho mở rất nhiều sở đúc tiền để đúc tiền kẽm. Năm 1726 (Cảnh Hưng thứ 37), tiền đồng niên hiệu Cảnh Hưng thuận bảo lại được đúc từ binh khí và đại bác bằng đồng khơng sử dụng nữa. Thời Nguyễn: Sau khi lên ngơi, vua Gia Long cho mở các sở đúc tiền ở Bắc thành, Gia Định để đúc tiền đồng Gia Long thơng bảo. Các triều vua sau của nhà Nguyễn tiếp tục đúc tiền đồng và cĩ lúc đúc cả tiền kẽm. Song song với tiền đồng, các loại thoi bạc, thoi vàng và tiền bạc, tiền vàng cũng xuất hiện từ khoảng năm 1820, cuối triều Gia Long, đầu triều Minh Mạng. Vàng được định giá gấp 17 lần bạc và mỗi lạng bạc giá 2 quan 3 tiền đồng. Thời kỳ Việt Nam là một phần của Đơng Dương thuộc Pháp Trong thời kỳ này, đơn vị tiền tệ của cả khu vực Đơng Dương là piastre, được dịch ra tiếng Việt là "đồng" hay đơi khi là "bạc". Tiền tệ do chính quyền trong giai đoạn này lấy bạc làm bản vị nhưng những đồng tiền của các triều vua nhà Nguyễn vẫn được lưu hành chủ yếu ở các vùng nơng thơn mặc dù bất hợp pháp. Tiền đúc lúc đầu cĩ đồng bạc Mexico nặng 27 gam 073 (độ tinh khiết 902 phần nghìn), sau đĩ là đồng bạc Đơng Dương được đúc ở Pháp nặng 27 gam (độ tinh khiết 900 phần nghìn). Tiền giấy thời kỳ này được Ngân hàng Đơng Dương phát hành và cĩ thể đem đến ngân hàng đổi thành bạc. Một sắc lệnh ngày 16 tháng 5 năm 1900 cho phép Ngân hàng Đơng Dương in tiền giấy gấp ba lần số bạc đảm bảo nhưng khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra thì tỷ lệ này khơng cịn giữ được nữa, tiền giấy phát hành gấp nhiều lần số bạc đảm bảo. Sau một số biện pháp cải cách tiền tệ, ngày 31 tháng 5 năm 1930, Tổng thống Pháp cĩ sắc lệnh quy định đồng bạc Đơng Pháp (Đơng Dương) cĩ giá trị là 655 miligam vàng (độ tinh khiết 900 phần nghìn), từ đĩ chấm dứt chế độ bản vị bạc mà chuyển sang bản vị vàng. Thời kỳ sau cách mạng tháng Tám Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời, ngày 31/1/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Nghị định phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Ngày 31/11/1946, lần đầu tiên giấy bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hịa phát hành. Một mặt cĩ chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (chữ Quốc ngữ và chữ Hán), cĩ hình Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một mặt cĩ hình Nơng Cơng binh. Các loại giấy bạc đều cĩ ghi chữ số Á Rập, chữ Quốc Ngữ, chữ Hán, Lào, Campuchia chỉ mệnh giá. Các loại giấy bạc này cĩ ký tên Bộ trưởng Bộ Tài chính (Phạm Văn Đồng hoặc Lê Văn Hiến) và Giám đốc Ngân khố trung ương, do đĩ ngồi tên gọi là giấy bạc cụ Hồ, dân gian cịn gọi là bạc Tài Chính. Ngày 5 / 6 / 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Nghị định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và phát hành giấy bạc mới, gọi là giấy bạc ngân hàng. Giấy bạc ngân hàng đổi lấy giấy bạc Tài chính, cứ 1 đồng ngân hàng đổi 10 đồng Tài chính. Giấy bạc ngân hàng cĩ loại 1 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 200 đồng, 500 đồng, 1.000 đồng và 5.000 đồng. Điểm đặc biệt những tờ giấy bạc này là: một mặt cĩ chữ Việt Nam dân chủ Cộng hịa (chữ Hán và chữ Quốc Ngữ) và hình Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt in hình Cơng nơng binh, hình bộ độ ở chiến trường. Trên tờ giấy bạc cĩ số hiệu, mệnh giá ghi bằng số Á Rập, chữ Quốc Ngữ và chữ Hán. Các loại giấy bạc Ngân hàng in ở nước ngồi nên rất sắc sảo, tính mỹ thuật cao. Sau ngày tồn quốc kháng chiến, việc liên lạc giữa địa phương và trung ương cĩ nhiều khĩ khăn nên chính quyền trung ương cho phép Trung bộ và Nam bộ phát hành tiền Cụ Hồ riêng của vùng mình. Tiền này cĩ mệnh giá 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng. Hình ảnh trang trí cũng tương tự như giấy bạc Cụ Hồ do trung ương phát hành, duy cĩ điểm khác là trên giấy bạc cĩ hai chữ ký: chủ tịch UBKC Nam bộ (Phạm Văn Bạch) - đại diện Bộ trưởng Tài chính và Giám đốc Ngân khố Nam bộ - đại diện Tổng giám đốc Ngân khố Quốc gia. Các tỉnh Hà Tiên, Trà Vinh, Sĩc Trăng, Vĩnh Long, Bến Tre, Thủ Biên (tức Biên Hịa - Thủ Dầu Một), Vĩnh Trà (Vĩnh Long - Trà Vinh) được phát hành tín phiếu, phiếu đổi chác, phiếu tiếp tế.... Các tỉnh Cần Thơ, Rạch Giá, Sĩc Trăng, Bạc Liêu, Long Châu Hà (Long Xuyên Châu Đốc Hà Tiên); các tỉnh Vĩnh Trà (Vĩnh Long - Trà Vinh) và Bến Tre; tỉnh Mỹ Tho cĩ loại giấy bạc Cụ Hồ chỉ lưu hành trong tỉnh. Giấy bạc Cụ Hồ lưu hành trong tỉnh Mỹ Tho phát hành năm 1948 chỉ cĩ mệnh giá 5 đồng và 10 đồng (riêng loại 10 đồng cĩ thể lưu hành trong tỉnh Long Châu Sa). Các loại giấy bạc này đều cĩ chữ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (chữ Quốc Ngữ và chữ Hán), cĩ ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, hình ảnh Cơng nơng binh, ảnh trận Giồng Dứa. Trên tờ giấy bạc cịn cĩ chữ số Á Rập, chữ Quốc Ngữ, chữ Hán chỉ mệnh giá. Đặc biệt là hai chữ ký: chủ tịch UBKC hành chính, đại diện Bộ Tài chính và Giám đốc Ngân khố Nam bộ, đại diện Tổng giám đốc Ngân khố quốc gia. Thời đĩ, ở Nam bộ nền kinh tế chia ra hai vùng, sử dụng hai loại tiền khác nhau. Thực dân Pháp khi gặp tiền Cụ Hồ thì tiêu huỷ, do đĩ người dân phải cất giấu rất kỹ. Đến giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, vì loại giấy bạc cĩ hình Bác Hồ nên ít ai dám để trong nhà, cĩ gia đình phải đem giấu kỹ trong những bức tường gạch, lâu ngày nên bị huỷ hoại. Vì vậy loại tiền này hiện nay trở nên hiếm đối với những người sưu tập tiền. Bên cạnh đĩ, từ sau ngày tồn quốc kháng chiến, mặc dù Chính phủ trung ương cĩ phát hành tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hịa nhưng do phương tiện giao thơng cịn khĩ khăn, các loại tiền này khơng lưu hành đến  Nam bộ. Cho nên tại miền Nam, sau Cách mạng tháng Tám 1945, đồng bào vẫn sử dụng các loại tiền giấy, tiền đồng của chế độ Thực dân phát hành. Được trên cho phép, các địa phương cấp tỉnh, cấp huyện hoặc xã cĩ thể sử dụng con dấu Uỷ ban hành chánh kháng chiến và các con dấu khẩu hiệu: Đả đảo thực dân Pháp, Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh đĩng lên những tờ tiền giấy của thực dân Pháp để lưu hành như tiền Việt Minh. Tất nhiên các loại tiền này chỉ cĩ giá trị sử dụng ở vùng do cách mạng kiểm sốt. Sau 30 tháng 4 năm 1975: tiền miền Nam phải đổi thành tiền giải phĩng với giá 500 đồng miền Nam cho mỗi đồng giải phĩng từ Quảng Nam-Đà Nẵng trở vào, ở Thừa Thiên-Huế trở ra, 1000 đồng tiền miền Nam đổi được 3 đồng giải phĩng. Vào năm 1978, sau khi thống nhất hai miền về mặt hành chính, đã cĩ một cuộc đổi tiền nữa. Tỷ giá đổi tiền miền Bắc là 1 đồng cũ thành 1 đồng thống nhất trong khi tại miền Nam 1 đồng giải phĩng thành 8 hào tiền thống nhất. Lần đổi tiền thứ ba xảy ra vào năm 1985, khi 10 đồng tiền cũ đổi thành 1 đồng tiền mới. Trong tiếng Việt, "đồng" cũng cĩ thể dùng để chỉ đến những đơn vị tiền tệ nước ngồi, đặc biệt là những đơn vị ít người biết đến. Trong một số cộng đồng dùng tiếng Việt ở hải ngoại, đồng cũng cĩ thể dùng để chỉ đến đơn vị tiền tệ địa phương. Những năm gần đây, Việt Nam cho ra đời tiền kim loại cĩ mệnh giá nhỏ kết hợp với việc in tiền mới (đổi chất liệu in từ giấy cotton sang polymer),

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiới Thiệu khái Quát Về Lịch Sử Các Loại Tiền Đang Lưu Thông Hiện Nay.doc
Tài liệu liên quan