Hành vi của doanh nghiệp mua bán lại được thực hiện trong các tình huống
mua mới, chọn nhà cung cấp tốt nhất hay chọn các điều kiện mua tốt nhất, theo một
tiến trình quyết định mua tương tựnhưhành vi của khách hàng mua tưliệu sản
xuất, với sựtham gia của một sốngười nhằm đưa ra các quyết định mua những sản
phẩm nào, từnhững nhà cung cấp nào và với điều kiện mua ra sao. Người mua bán
lại chịu ảnh hưởng của hàng loạt các yếu tốcủa môi trường, tổchức, sựtác động
qua lại giữa các cá nhân và của từng cá nhân.
Để đạt được sựthành công trong thịtrường các tổchức chính quyền, những
người bán phải tìm hiểu những người chủchốt có vai trò ra quyết định mua, nhận
dạng những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của người mua và hiểu được tiến trình
quyết định mua. Hành vi mua của các tổchức chính quyền chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tốvà luôn chịu sựchi phối và giám sát của công chúng thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Do đó, mặc dù là khách hàng mua với khối
lượng lớn và đa dạng, nhưng quyết định mua của các tổchức chính quyền thường
diễn ra lâu, phức tạp với sựtham gia của nhiều người và nhiều bộphận.
144 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1869 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Quản trị marketing (7 chương đầu - Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9 8 7 6
B 8 10 6 4
C 7 8 9 4
D 6 4 6 9
Hình 6.5.Đánh giá của người tiêu dùng về các nhãn hiệu của máy thu hình
Máy thu hình A : 0,4 (9) + 0,3 (8) + 0,2 (7) + 0,1 (6) = 8,1
Máy thu hình B : 0,4 (8) + 0,3 (10) + 0,2 (6) + 0,1 (4) = 7,8
Máy thu hình C : 0,4 (7) + 0,3 (8) + 0,2 (9) + 0,1 (4) = 7,4
Máy thu hình D : 0,4 (6) + 0,3 (4) + 0,2 (6) + 0,1 (9) = 5,7
Để tác động đến những người mua, làm cho họ quan tâm hơn đến một nhãn
hiệu nào đó của doanh nghiệp, người làm marketing có thể tiến hành các giáp pháp
sau:
- Cải tiến sản phẩm, bằng cách nâng cao chất lượng của các thuộc tính đã có
hay bổ sung thêm những thuộc tính mới cho sản phẩm mà người mua mong muốn.
- Thay đổi niềm tin về nhãn hiệu của công ty bằng cách xác định lại vị trí sản
phẩm về mặt tâm lý cho khách hàng, tức là nhấn mạnh những thuộc tính chủ yếu
của sản phẩm đó.
- Thay đổi niềm tin về các nhãn hiệu của các đối thủ cạnh tranh. Người làm
marketing có thể tác động vào người tiêu dùng để làm cho họ nhận thức và đánh giá
lại một cách đúng đắn hơn những thuộc tính nào đó của nhãn hiệu sản phẩm của đối
thủ cạnh tranh, nhờ đó mà thuyết phục họ thay đổi niềm tin vào nhãn hiệu của đối
thủ. Trong khuôn khổ luật quảng cáo cho phép, cách làm phổ biến trong trường hợp
này là tiến hành quảng cáo so sánh.
- Thay đổi hệ số tầm quan trọng của các thuộc tính đánh giá. Người làm
marketing cố gắng thuyết phục người mua đánh giá cao hơn tầm quan trọng của
thuộc tính mà nhãn hiệu của mình vượt trội hơn đối thủ.
- Thu hút sự chú ý đến những thuộc tính bị bỏ qua. Người làm marketing có
thể làm cho những người mua quan tâm đến những thuộc tính bị bỏ qua nhưng quan
trọng đối với việc thỏa mãn lợi ích mong muốn của bản thân những người mua đó.
- Thay đổi quan niệm lý tưởng của người mua. Người làm marketing tìm cách
làm cho người mua tin rằng cần thay đổi những mức lý tưởng của của một hay
nhiều thuộc tính đối với các tiêu chuẩn của ho.ü
d. Quyết định mua
Trong giai đoạn đánh giá, người mua sắp xếp các nhãn hiệu trong nhóm nhãn
hiệu đưa vào để lựa chọn theo các thứ bậc và từ đó bắt đầu hình thành ý định mua
nhãn hiệu được đánh giá cao nhất. Bình thường, người tiêu dùng sẽ mua nhãn hiệu
được ưu tiên nhất. Nhưng có hai yếu tố có thể dẫn đến sự khác biệt giữa ý định
mua và quyết định mua. Đó là:
- Thái độ của những người khác, như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp ...
- Các yếu tố của hoàn cảnh, như hy vọng về thu nhập gia tăng, mức giá dự
tính, sản phẩm thay thế...
Hai yếu tố này có thể làm thay đổi quyết định mua, hoặc không mua hoặc mua
một nhãn hiệu khác mà không phải là nhãn hiệu tốt nhất như đã đánh giá.
e.Hành vi sau khi mua
Sau khi đã mua sản phẩm, trong quá trình tiêu dùng người tiêu dùng sẽ cảm
nhận được mức độ hài lòng hay không hài lòng về sản phẩm đó. Người làm
marketing cần tìm hiểu và phân tích hành vi của người tiêu dùng sau khi mua cũng
như những phản ứng đáp lại của họ đối với trạng thái hài lòng hay không hài lòng
về sản phẩm để có các giải pháp marketing đáp ứng và điều chỉnh kịp thời nhằm cải
thiện tình hình. Như vậy, công việc của người làm marketing không kết thúc khi
sản phẩm đã được mua, mà kéo dài cả đến giai đoạn sau khi mua.
Sự hài lòng sau khi mua
Điều gì quyết định trạng thái hài lòng hay không hài lòng của người mua đối
với sản phẩm đã mua ? Câu trả lời nằm trong mối quan hệ giữa những kỳ vọng
(expectations) của người tiêu dùng và tính năng sử dụng của sản phẩm mà họ cảm
nhận được (perceived performance). Nếu những tính năng sử dụng của sản phẩm
không tương xứng với những kỳ vọng của người mua thì người mua đó sẽ không
hài lòng. Nếu sản phẩm thỏa mãn được các kỳ vọng đó của người mua thì họ cảm
thấy hài lòng, và nếu nó đáp ứng được nhiều hơn thế nữa, người mua sẽ rất hài
lòng. Những cảm giác này của người mua sẽ dẫn đến hai hệ quả đối lập, hoặc là
người mua sẽ tiếp tục mua sản phẩm đó và nói tốt về nó, hoặc là thôi không mua
sản phẩm đó nữa và nói những điều không tốt về nó với những người khác.
Vì người tiêu dùng hình thành những kỳ vọng của mình dựa vào những thông
tin nhận được từ người bán, bạn bè và những người khác, do đó người bán không
nên quá đề cao những lợi ích của sản phẩm hơn những gì nó thực sự xứng đáng để
người tiêu dùng không bị thất vọng và tránh được trạng thái không hài lòng khi mua
và tiêu dùng sản phẩm. Khoảng cách giữa những kỳ vọng của người mua và tính
năng sử dụng của sản phẩm càng lớn thì mức độ không hài lòng càng cao.
Những điều phân tích trên đây hàm ý rằng, người bán phải quảng cáo trung
thực về những tính năng sử dụng thực sự của sản phẩm để người mua có thể quyết
định mua một cách đúng đắn và đạt được trạng thái hài lòng sau khi mua. Kinh
nghiệm cho thấy rằng nhiều người bán đã chủ động hạ thấp mức độ của các tính
năng sử dụng của sản phẩm khi giới thiệu nó cho người mua để người mua cảm
thấy hài lòng hơn những gì họ mong đợi ở sản phẩm. Bằng cách đó mà người bán
có thể tạo uy tín cho sản phẩm và bán nó một cách dễ dàng hơn.
Những việc làm sau khi mua
Sự hài lòng hay không hài lòng về sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến hành vi mua
sau này. Một người tiêu dùng đã hài lòng thì rất có thể mua sản phẩm đó trong lần
tới, và sẽ nói tốt sản phẩm đó với những người khác. Theo những người làm
marketing, "một khách hàng đã hài lòng là quảng cáo tốt nhất của chúng ta".
Người tiêu dùng bất mãn về sản phẩm có những thái độ đáp ứng lại khác
nhau. Người tiêu dùng không được hài lòng sẽ lựa chọn một trong hai tình huống
hành động. Họ có thể cố gắng giảm sự khó chịu bằng cách từ bỏ hoặc trả lại sản
phẩm, hoặc họ có thể cố gắng giảm sự khó chịu bằng cách tìm kiếm thông tin nào
có thể xác nhận giá trị cao của nó hoặc tránh những thông tin có thể xác nhận giá trị
kém của sản phẩm.
Người tiêu dùng có nhiều cách để xư ílý trường hợp không hài lòng của mình.
Họ có thể khiếu nại trực tiếp với công ty hay kiện ra tòa án để dòi hỏi sự đền bù,
khiếu nại với các tổ chức khác có thể giúp người mua được hài lòng. Hoặc người
mua có thể đơn giản là thôi không mua sản phẩm đó nữa, hoặc thông báo cho bạn
bè và những người khác về những hạn chế của sản phẩm. Trong tất cả các trường
hợp, người bán đều chịu nhiều thiệt thòi.
Những người làm marketing có thể thực hiện một số giải pháp để giảm thiểu
mức độ không hài lòng sau khi mua của người tiêu dùngû và giúp khách hàng cảm
thấy dễ chịu với việc đã mua của mình. Các hãng sản xuất xe máy có thể gởi thư
đến những người mới mua xe để chúc mừng họ đã chọn được một chiếc xe tuyệt
hảo. Họ có thể gởi các quảng cáo trong đóï kể về những chủ xe hài lòng khi sử dụng
những chiếc xe mới ấy, hoặc gợi ý khách hàng bằng cách đưa ra các đề nghị cải tiến
và liệt kê những địa điểm cung cấp các dịch vụ xe máy của mình, tổ chức việc tiếp
nhận các khiếu nại và giải quyết nhanh chóng những kiến nghị của khách hàng.
Hoặc nữa, họ có thể soạn những cuốn sổ tay hướng dẫn giúp làm giảm bớt sự khó
chịu. Nhưng trên tất cả những điều đó là công ty cần nghiêm túc rút kinh nghiệm,
kịp thời cải tiến và không ngừng hoàn thiện sản phẩm để đem lại sự thỏa mãn cao
nhất cho người tiêu dùng.
IV. TIẾN TRÌNH QUYẾT ĐỊNH CỦA NGƯỜI MUA ĐỐI VỚI
SẢN PHẨM MỚI
Chúng ta đã khảo sát các giai đoạn mà người mua đã tiến hành khi cố gắng
thỏa mãn một nhu cầu. Người mua có thể trãi qua các giai đoạn đó nhanh hay chậm,
thậm chí có thể bỏ qua một số giai đoạn trong tiến trình quyết định mua. Điều đó
tùy thuộc vào bản chất của người mua, sản phẩm, và tình huống mua.
Sản phẩm mới là một vật phẩm, dịch vụ, hoặc ý nghĩ được số khách hàng tiềm
tàng cảm nhận là mới. Điều mà những người làm marketing quan tâm là người tiêu
dùng biết đến các sản phẩm lần đầu tiên như thế nào, và quyết định chọn dùng
chúng hay không ra sao.
Sự chọn dùng một sản phẩm mới là sự quyết định của một cá nhân để trở
thành người dùng thường xuyên sản phẩm đó.
1. Các giai đoạn trong quá trình chọn dùng sản phẩm mới
Người tiêu dùng thường trải qua một số giai đoạn của quá trình chọn dùng
một sản phẩm mới, bao gồm :
1. Biết. Người tiêu dùng bắt đầu biết đến sản phẩm mới, nhưng thiếu thông
tin về sản phẩm đó.
2. Để ý. Người tiêu dùng bị thúc đẩy đến việc tìm kiếm thông tin về sản phẩm
mới đó.
3. Đánh giá. Người tiêu dùng xem xét xem sản phẩm mới có đáng dùng thử
hay không.
4. Thử. Người tiêu dùng thử dùng sản phẩm mới trong một chừng mực giới
hạn để điều chỉnh sự ước lượng của mình về giá trị của sản phẩm mới đó.
5. Chọn dùng. Người tiêu dùng quyết định dùng sản phẩm mới, nếu việc
dùng thử sản phẩm đem lại cho họ sự hài lòng.
Điều quan trọng là những người chào bán sản phẩm mới phải biết tìm ra
những cách thức phù hợp để giúp người tiêu dùng trãi qua trọn vẹn tất cả các giai
đoạn của tiến trình chọn dùng.
2. Ảnh hưởng của các đặc tính sản phẩm lên tốc độ chọn dùng
Các đặc tính của sản phẩm mới ảnh hưởng đến tốc độ người ta chọn dùng nó.
Một số sản phẩm hầu như được ưa chuộng ngay (đĩa nhựa dùng để ném trong trò
chơi ném đĩa), trong khi các sản phẩm khác thì phải mất một thời gian dài mới đạt
được sự chấp nhận (xe hơi chạy bằng Diesel). Có năm đặc tính đặc biệt quan trọng
trong việc tác động đến tốc độ chọn dùng một sản phẩm mới. Chúng ta sẽ xem xét
những đặc tính nầy trong mối tương quan với tốc độ chọn dùng máy vi tính cá
nhân.
Đặc tính thứ nhất là lợi thế tương đối của sản phẩm mới, tức là mức độ vượt
trội của nó so với những sản phẩm hiện có. Lợi thế tương đối được cảm nhận của
máy vi tính cá nhân càng lớn, thì máy vi tính cá nhân sẽ càng nhanh chóng được
chọn dùng hơn.
Đặc tính thứ hai là tính tương hợp của sản phẩm mới, tức là mức độ mà sản
phẩm mới phù hợp với các giá trị và những kinh nghiệm của các cá nhân trong cộng
đồng. Các máy vi tính cá nhân chẳng hạn, tương hợp khá cao với các phong cách
sống trong những gia đình có mức sống khá cao.
Đặc tính thứ ba là tính phức tạp của sản phẩm mới, biểu thị mức độ khó khăn
tương đối trong tìm hiểu hoặc sử dụng. Các máy vi tính cá nhân thì phức tạp và dĩ
nhiên phải mất một thời gian dài để thâm nhập vào các gia đình.
Đặc tính thứ tư là tính phân tích được (divisibility) của sản phẩm mới, thể hiện
khả năng có thể dùng thử nó ở một mức độ hạn chế. Trong chừng mực người ta
không cần phải mua mà có thể thuê các máy vi tính cá nhân để dùng thử và trắc
nghiệm được những lợi ích và sự cần thiết phải có chúng, thì tốc độ chọn dùng sản
phẩm sẽ tăng lên.
Đặc tính thứ năm là khả năng thông đạt (communicability), tức là mức độ mà
các kết quả có thể quan sát thấy được hoặc mô tả được cho người khác cảm nhận
được. Vì người ta sản xuất ra các máy tính cá nhân là để hỗ trợ cho việc biểu thị và
mô tả, nên điều nầy sẽ giúp chúng được phổ biến nhanh chóng trong xã hội.
Ngoài ra còn có những đặc tính khác cũng ảnh hưởng đến tốc độ chọn dùng,
như giá cả sản phẩm chào bán lần đầu, giá cả hiện tại, sự may rủi và sự không chắc
chắõn, độ tin cậy về mặt khoa học và sự chấp nhận của xã hội. Những người làm
marketing đối với sản phẩm mới phải nghiên cứu tất cả những yếu tố này và chú
trọng đến những yếu tố chủ yếu khi triển khai sản phẩm mới và chương trình
marketing sản phẩm mới.
TÓM TẮT
Thị trường tiêu dùng gồm các cá nhân và hộ gia đình mua sắm hàng hóa hay
dịch vụ để tiêu dùng cho bản thân và gia đình họ. Người làm marketing cần tìm
hiểu người tiêu dùng để biết được họ mua gì, lý do mua, những ai tham gia vào việc
mua, mua như thế nào, mua khi nào và mua ở đâu,...
Hành vi của người tiêu dùng chịu ảnh hưởng của các yếu tố chủ yếu là văn
hóa (văn hóa, văn hóa đặc thù và tầng lớp xã hội), xã hội (nhóm tham khảo, gia
đình, vai trò và địa vị xã hội), cá nhân (tuổi tác và các giai đoạn của cuộc sống,
nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế, phong cách sống, nhân cách và ý niệm về bản thân)
và tâm lý (động cơ, nhận thức, kiến thức, niềm tin và thái độ). Có nhiều lý thuyết
được áp dụng để nghiên cứu hành vi tiêu dùng như lý thuyết về động cơ con người
của S. Freud ( các hành vi do những động cơ vô thức ), lý thuyết phân cấp nhu cầu
của A. Maslow ( nhu cầu được sắp xếp theo thứ tự quan trọng từ nhu cầu cấp thiết
đến nhu cầu ít cấp thiết : sinh lý, an toàn, xã hội, được tôn trọng và tự khẳng định ),
lý thuyết động cơ “hai yếu tố“ của F. Herzberg ( các yếu tố gây nên sự không hài
lòng và các yếu tố tạo nên sự hài lòng ). Nắm vững những yếu tố này sẽ giúp chúng
ta tiếp cận và phục vụ người tiêu dùng hiệu quả hơn.
Có nhiều người tham gia vào quyết định mua của người tiêu dùng : người đề
xuất, người ảnh hưởng, người quyết định, người mua, người sử dụng. Việc tìm hiểu
thành phần những người tham dự và những vai trò chính yếu của họ trong quá trình
quyết định mua của người tiêu dùng sẽ giúp cho người quản trị marketing điều
chỉnh thích hợp các chương trình marketing của mình.
Người làm marketing cũng phải có những kế hoạch phù hợp cho các dạng
hành vi mua của người tiêu dùng căn cứ vào mức độ tham gia của người mua và sự
khác biệt của các nhãn hiệu : hành vi mua phức tạp (người tiêu dùng tham gia nhiều
vào việc mua sắm và ý thức rõ những khác biệt lớn giữa các nhãn hiệu ), hành vi
mua hài hòa (mua sắm những loại sản phẩm đắt tiền, ít khi mua, có nhiều rủi ro và
các nhãn hiệu ít có sự khác biệt ), hành vi mua tìm kiếm sự đa dạng (thay đổi nhãn
hiệu để tìm kiếm sự đa dạng ), hành vi mua thông thường (mua thường xuyên các
món hàng giá rẻ, không có sự khác nhau lớn giữa các nhãn hiệu).
Bằng cách tìm hiểu xem người mua trải qua các giai đoạn của tiến trình quyết
định mua, từ việc ý thức được nhu cầu, tìm kiếm thông tin, đánh giá các phương án
lựa chọn, quyết định mua cho đến những hành vi sau khi mua, người làm marketing
có thể xây dựng được những giải pháp marketing phù hợp để đáp ứng tốt nhu cầu
của người mua và đem lại cho họ sự hài lòng về sản phẩm và nhãn hiệu của doanh
nghiệp.
Quá trình chọn dùng sản phẩm mới của người tiêu dùng thường trải qua một
số giai đoạn, bao gồm : biết ( biết đến sản phẩm mới, nhưng thiếu thông tin về nó ),
để ý (tìm kiếm thông tin về sản phẩm mới đó ), đánh giá (xem xét xem sản phẩm
mới có đáng dùng thử không ), thử (dùng thử sản phẩm mới trong một chừng mực
giới hạn để điều chỉnh sự ước lượng của mình về giá trị của nó ), chọn dùng (quyết
định dùng sản phẩm mới, nếu việc dùng thử sản phẩm đem lại sự hài lòng ). Những
người chào bán sản phẩm mới phải biết tìm ra những cách thức phù hợp để giúp
người tiêu dùng trãi qua trọn vẹn tất cả các giai đoạn của tiến trình chọn dùng.
Các đặc tính của sản phẩm mới ảnh hưởng đến tốc độ chọn dùng là : lợi thế
tương đối ( mức độ vượt trội của nó so với những sản phẩm hiện có ), tính tương
hợp ( mức độ phù hợp với các giá trị và kinh nghiệm của các cá nhân trong cộng
đồng ), tính phức tạp ( mức độ khó khăn trong tìm hiểu hoặc sử dụng), tính phân
tích được (khả năng có thể dùng thử ở một mức độ hạn chế ), khả năng thông đạt
(mức độ mà các kết quả có thể quan sát được hoặc mô tả được cho người khác cảm
nhận được ). Những người làm marketing phải nghiên cứu những đặc điểm chủ yếu
này khi triển khai sản phẩm mới và chương trình marketing cho sản phẩm mới đó.
CÂU HỎI
1. Phân tích các mối liên hệ giữa các nhóm yếu tố trong trong mô hình hành vi
mua của người tiêu dùng. Có hay không các mối liên hệ ngược trong mô hình đó ?
Hãy giải thích tại sao ?
2. Sử dụng mô hình hành vi mua của người tiêu dùng để giải thích thái độ
khách hàng trong các trường hợp sau:
a) Một số khách hàng thích mua sắm trong các cửa hàng lớn, có nhiều loại
sản phẩm, trong khi số khác lại thích mua sắm trong các cửa hàng nổi tiếng chuyên
doanh một vài loại sản phẩm ?
b) Có một số sản phẩm được mua sau khi tìm kiếm và cân nhắc kỷ, một số
sản phẩm khác lại được mua chỉ trong giây lát ?
c) Hai người được giới thiệu cùng một chương trình quảng cáo, nhưng
một người thì chú ý theo dõi, còn người kia thì không ?
3. Quyết định mua một chiếc xe máy của bạn có bị tác động bởi các “nhóm
tham khảo “ hay không ? Các nhóm này bao gồm những ai ? Họ ảnh hưởng thế nào
đến quyết định mua xe máy của bạn ?
4. Khi mua một loại sản phẩm, một người tiêu dùng có xu hướng mua với
nhãn hiệu có hình ảnh thích hợp nhất với cá nhân người đó. Có phải hình ảnh cá
nhân là yếu tố quan trọng để lựa chọn nhãn hiệu không ?
5. Hãy lấy ba loại sản phẩm cụ thể để minh họa cho ba dạng hành vi mua: mua
phức tạp, mua đảm bảo sự hài hòa và mua tìm kiếm sự đa dạng ?
6. Anh ( chị ) có dự định mua một máy vi tính để phục vụ cho việc thiết kế các
công trình xây dựng dân dụng, hãy phân tích tiến trình quyết định mua máy vi tính
đó ?
CHƯƠNG VII
THỊ TRƯỜNG TỔ CHỨC VÀ HÀNH VI
MUA CỦA KHÁCH HÀNG TỔ CHỨC
I. THỊ TRƯỜNG TỔ CHỨC
1. Các loại thị trường tổ chức
Chúng ta sẽ khảo sát ba loại thị trường tổ chức: thị trường doanh nghiệp mua
tư liệu sản xuất (còn gọi là thị trường doanh nghiệp sản xuất), thị trường người mua
bán lại và thị trường chính quyền.
a. Thị trường doanh nghiệp sản xuất
Thị trường doanh nghiệp sản xuất bao gồm những người mua hàng hóa và
dịch vụ nhằm sản xuất ra những sản phẩm và dịch vụ khác để bán, cho thuê hoặc
cung cấp cho những người khác. Họ là các doanh nghiệp sản xuất từ nhiều loại hình
như sản xuất - chế biến, xây dựng, giao thông vận tải, truyền thông, ngân hàng, tài
chính, bảo hiểm, dịch vụ, nông lâm ngư nghiệp, khai khoáng và các ngành phục vụ
công cộng. Thị trường doanh nghiệp sản xuất là thị trường tổ chức lớn nhất và đa
dạng nhất.
b. Thị trường người bán lại
Thị trường người bán lại (reseller market) bao gồm tất cả những người mua
sản phẩm và dịch vụ nhằm mục đích bán lại hoặc cho cho những người khác thuê
để kiếm lời, hay để để phục vụ cho các nghiệp vụ của họ.
Nếu các doanh nghiệp trong thị trường sản xuất mua tư liệu sản xuất để sản
xuất ra những ích dụng về vật phẩm, thì những người bán lại sản xuất ra ích dụng
về thời gian, nơi chốn và sở hữu. Trong vai trò là những đại diện mua cho các
khách hàng của mình, những người bán lại mua và sở hữu các loại sản phẩm để bán
lại, ngoại trừ một số ít sản phẩm các nhà sản xuất bán trực tiếp cho khách hàng.
c. Thị trường chính quyền
Thị trường chính quyền (Government market) bao gồm các tổ chức chính
quyền trung ương và địa phương mua hoặc thuê mướn hàng hóa và dịch vụ để thực
hiện những chức năng chính của chính quyền.
2. Đặc điểm của thị trường tổ chức
Xét theo những phương diện nào đó, các thị trường tổ chức cũng giống như
các thị trường tiêu dùng, cả hai thị trường đều bao gồm những người đóng các vai
trò mua và đưa ra những quyết định mua để thỏa mãn các nhu cầu. Nhưng trên
nhiều phương diện khác, các thị trường tổ chức khác hẳn với những thị trường tiêu
dùngû. Những khác biệt chủ yếu nằm trong cấu trúc thị trường và các đặc tính về
nhu cầu, bản chất của tổ chức mua và các loại quyết định mua cũng như tiến trình
quyết định mua.
a. Kết cấu thị trường và đặc điểm của nhu cầu
- Trong thị trường tổ chức số lượng người mua ít hơn, nhưng khối lượng mua
lớn hơn so với thị trường tiêu dùng.
- Có tính tập trung về mặt địa lý hơn.
- Nhu cầu của thị trường tổ chức là nhu cầu có tính phát sinh (derived
demand), về cơ bản nó bắt nguồn từ nhu cầu về sản phẩm tiêu dùng cho người tiêu
dùng cuối cùng. Nếu nhu cầu của những người tiêu dùng cuối cùng giảm xuống thì
nhu cầu về tư liệu sản xuất cần thiết để làm ra chúng cũng giảm theo.
- Trong các thị trường tổ chức, nhu cầu không có tính co dãn (hệ số co dãn
của cầu theo giá thấp).
- Trong các thị trường tổ chức, nhu cầu có tính biến động mạnh. Nhu cầu đối
với tư liệu sản xuất có xu hướng dễ biến động hơn so với nhu cầu về hàng hóa và
dịch vụ tiêu dùng. Một tỉ lệ phần trăm nhỏ của sự gia tăng nhu cầu của người tiêu
dùng có thể dẫn đến một tỉ lệ gia tăng lớn trong nhu cầu tư liệu sản xuất. Các nhà
kinh tế học gọi điều này là nguyên lý gia tốc (acceleration principle).
b. Bản chất của khách hàng tổ chức
- Người mua ở thị trường tổ chức có tính chuyên nghiệp hơn so với người tiêu
dùng, quyết định mua của họ liên quan đến nhiều bên tham gia hơn.
- Quyết định mua hàng thường phức tạp, quá trình quyết định lâu hơn.
- Trong tiến trình mua của khách hàng tổ chức, người mua và người bán
thường phụ thuộc khá nhiều vào nhau.
Ngoài ra còn một số đặc điểm khác của khách hàng tổ chức, như xu hướng
mua trực tiếp từ người sản xuất hơn là qua trung gian; xu hướng thuê mướn thay vì
mua ngày càng tăng...
II. MÔ HÌNH HÀNH VI MUA CỦA KHÁCH HÀNG
TỔ CHỨC
Webster và Wind định nghĩa việc mua của tổ chức như một “tiến trình quyết
định theo đó các tổ chức chính thức hình thành nhu cầu đối với những sản phẩm và
dịch vụ được mua và định dạng, đánh giá, lựa chọn trong số các nhãn hiệu sản
phẩm và các nhà cung cấp khác nhau”.
Trong việc cố gắng tìm hiểu hành vi mua của tổ chức, những người làm
marketing phải tìm ra những giải đáp cho một số vấn đề phức tạp. Các tổ chức đưa
ra những loại quyết định mua nào ? Họ lựa chọn như thế nào trong số các nhà cung
cấp khác nhau ? Ai là người đưa ra các quyết định ? Tiến trình quyết định mua của
tổ chức là gì ? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến các quyết định mua của tổ chức ?
Ở mức độ cơ bản nhất, những người làm marketing đều muốn biết những
khách hàng tổ chức sẽ đáp ứng ra sao trước những tác nhân marketing khác nhau.
Mô hình đơn giản về hành vi mua của tổ chức được trình bày trong hình 7.1.
MÔI TRƯỜNG TỔ CHỨC
CÁC ĐÁP ỨNG
CỦA NGƯỜI MUA
Cáctácnhân Các tác nhân Trung tâm mua Chọn sản phẩm
marketing khác hay dịch vụ
Tiến trình Chọn nhà cung cấp
Sản phẩm Kinh tế quyết dịnh Khối lượng đặt hàng
Gía cả Công nghệ mua Điều kiện và thời hạn
Phân phối Chính trị Những ảnh hưởng qua lại giao hàng
Cổ động Văn hóa giữa các cá nhân Điều kiện dịch vụ
Cạnh tranh Những ảnh hưởng Điều kiện thanh toán
về mặt tổ chức
Hình 7.1. Mô hình hành vi mua của tổ chức
Mô hình hành vi mua của tổ chức cho thấy rằng các tác nhân marketing và các
tác nhân khác ảnh hưởng đến tổ chức và tạo ra những đáp ứng của người mua.
Những tác nhân marketing bao gồm 4P: sản phẩm, giá cả, phân phối và cổ động.
Những tác nhân khác bao gồm các lực lượng quan trọng thuộc môi trường của tổ
chức như kinh tế, kỹ thuật, chính trị và văn hóa. Tất cả những tác nhân này tác động
vào tổ chức và tạo ra các đáp ứng của tổ chức đó, như chọn sản phẩm hay dịch vụ,
chọn nhà cung cấp, khối lượng đặt hàng, thời gian và điều kiện giao hàng, điều kiện
dịch vụ và điều kiện thanh toán.
Để thiết kế được những phối thức marketing hiệu quả, những người làm
marketing phải tìm hiểu những gì xảy ra bên trong tổ chức trong việc chuyển các
tác nhân kích thích thành những phản ứng đáp lại của tổ chức mua.
Dựa trên mô hình này, chúng ta sẽ khảo sát những yếu tố khác nhau về hành vi
mua của khách hàng tổ chức.
III. HÀNH VI MUA CỦA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1. Các tình huống mua của doanh nghiệp sản xuất
Mua lại không có thay đổi. Trong việc mua lại không có sự thay đổi, người
mua đặt hàng lại những gì mà họ đã mua và không có bất kỳ sự điều chỉnh nào.
Điều này thường được bộ phận cung ứng đặt hàng lại như thường lệ. Người mua
lựa chọn các nhà cung cấp trong “bảng danh sách” của mình, dựa trên mức độ hài
lòng về các nhà cung cấp khác nhau trong những lần mua trước đây. Các nhà cung
cấp “được chọn” cố gắng duy trì chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Họ đề xuất những
hệ thống đặt hàng lại, sao cho các đại diện mua sẽ đỡ mất thì giờ trong việc đặt
hàng lại. Những nhà cung cấp “không được chọn” thì cố gắng chào một mặt hàng
mới hoặc khai thác sự không vừa lòng của người mua đối với các nhà cung cấp
khác để họ xem xét đến việc mua một số lượng nào đó của mình, để rồi sau đó tìm
cách mở rộng “phần được đặt mua” của mình lên theo thời gian.
Mua lại có thay đổi. Trong việc mua lại có thay đổi, người mua muốn thay đổi
các chi tiết kỹ thuật của sản phẩm, giá cả và các điều kiện khác, hoặc thay đổi các
nhà cung cấp. Việc mua lại có thay đổi thường có nhiều người tham gia hơn vào
quyết định mua. Các nhà cung cấp đã được chọn trước đây phải cố gắng giữ khách
hàng của mình. Các nhà cung cấp chưa được chọn thì xem đây như một cơ hội để
đề xuất những đơn chào hàng có lợi hơn nhằm có được một khách hàng mới.
Mua mới. Mua mới của một doanh nghiệp là việc mua một sản phẩm hoặc
dịch vụ lần đầu tiên để phục vụ cho công việc mới (ví dụ, mua để sản xuất sản
phẩm mới). Mức giá cả và mức độ rủi ro càng lớn thì số lượng người tham gia vào
quyết định mua càng đông,khối lượng thông tin cần thu thập về càng lớn và thời
gian để hoàn tất quyết định càng dài hơn.
Trong tình huống mua mới, người mua phải xử lý thông tin về các sản phẩm
và các nhà cung cấp khác nhau. Họ phải xác định những chi tiết kỹ thuật về sản
phẩm, các mức giá cả, điều kiện và thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán, khối
lượng đặt hàng, các nhà cung cấp nào có thể lựa chọn và nhà cung cấp nào được
chọn. Tất cả những công việc đó được tiến hành theo một tiến trình bao gồm các
giai đoạn: biết đến, quan tâm, đánh giá, dùng thử và chấp nhận mua.
2. Những người tham gia tiến trình mua của doanh nghiệp sản xuất
Có thể gọi đơn vị mua của một tổ chức là trung tâm mua (buying center), bao
gồm các cá nhân và các nhóm có tham dự vào tiến trình quyết định mua, cùng chia
sẻ một số mục tiêu chung và những rủi ro phát sinh từ các quyết định mua.
Trung tâm mua bao gồm các thành viên của tổ chức giữ những vai trò sau:
y Người sử dụng.. Những người sử dụng là những thành viên của tổ chức sẽ sử
dụng sản phẩm hay dịch vụ được mua về. Trong nhiều trường hợp, những người sử
dụng đề nghị mua và giúp xác định các chi tiết kỹ thuật của sản phẩm.
y Người ảnh hưởng. Những người ảnh hưởng là những người tác động đến
quyết định mua. Họ thường giúp xác định các chi tiết kỹ thuật và cung cấp thông tin
để đánh giá, lựa chọn các phương án. Những nhân viên kỹ thuật là những người ảnh
hưởng đặc biệt quan trọng.
y Người mua. Những người mua là những người có thẩm quyền chính thức
trong việc lựa chọn nhà cung cấp và dàn xếp các điều kiện mua bán. Những người
mua có thể giúp định hình các chi tiết kỹ thuật, nhưng vai trò chính của họ là lựa
chọn những người bán và tiến hành thương lượng. Trong những quyết định mua
phức tạp hơn, có thể gồm cả những nhà quản trị cấp cao tham gia thương lượng.
y Người quyết định. Những người quyết định là những người có quyền hành
chính thức hoặc bán chính thức để chọn hoặc chấp thuận chọn các nhà cung cấp.
Trong việc mua theo lệ thường, họ thường là những người quyết định, hoặc ít ra
cũng là những người chấp thuận.
y Người bảo vệ (gatekeeper). Những người bảo vệ là những người kiểm soát
dòng thông tin đi đến những người khác. Chẳng hạn các nhân viên kỹ thuật, nhân
viên cung ứng và thư ký thường có thể ngăn không cho các nhân viên bán được gặp
những người sử dụng hoặc những người quyết định.
Trung tâm mua không phải là một đơn vị cố định và chính thức bên trong tổ
chức mua; đó là tập hợp các vai trò mua do những người khác nhau đảm nhận cho
những công việc mua khác nhau. Trong tổ chức, quy mô và thành phần của trung
tâm mua sẽ thay đổi theo những loại sản phẩm khác nhau và tình huống mua khác
nhau. Đối với một số trường hợp mua theo thường lệ, một người (một nhân viên
cung ứng chẳng hạn) có thể đảm nhiệm tất cả các vai trò của trung tâm mua và là
người duy nhất có liên quan đến quyết định mua. Đối với một số trường hợp mua
phức tạp, trung tâm mua có thể bao gồm những người từ các cấp và các phòng ban
khác nhau của tổ chức
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua của doanh nghiệp
sản xuất
Những người mua là doanh nghiệp sản xuất chịu sự chi phối của nhiều yếu tố
khi đưa ra các quyết định mua. Một số người làm marketing chú trọng đến những
yếu tố kinh tế như: nhà cung cấp nào chào hàng với giá thấp nhất, hoặc chào bán
sản phẩm nào tốt nhất hoặc những dịch vụ nào hoàn hảo nhất. Quan điểm này cho
rằng những người làm marketing sản xuất nên tập trung vào việc đáp ứng những lợi
ích kinh tế cho các doanh nghiệp mua tư liệu sản xuất.
Những người làm marketing khác thì coi trọng những yếu tố cá nhân trong các
tình huống mua như thiện chí của người mua, sự chu đáo hay an toàn trong khi
mua.
Môi trường
Tổ chức
Mức cầu Quan hệ cá
nhân
Triển vọng kinh tế Mục tiêu Cá nhân
Giá trị đồng tiền
Các điều kiện
cung cấp
Tốc độ thay đổi
công nghệ
Chính sách
Qui trình
Cơ cấutổ chức
Thẩm quyền
Địa vị
Sự thông cảm
Tuổi tác
Thu nhập
Học vấn
Vị trí công tác
Nhân cách
Thái độ đối với
rủi ro
NGƯỜI
MUA
TƯ LIỆU
SẢN XUẤT
Những phát triển về Sức thuyết phục
Văn hóa
chính trị và pháp luật Hệ thống
Sự phát triểncạnh
tranh
Hình 7.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua
của doanh nghiệp sản xuất
Các doanh nghiệp mua tư liệu sản xuất thường đáp ứng với tất cả những yếu tố
kinh tế lẫn những yếu tố cá nhân. Trong những trường hợp sản phẩm của những
người cung ứng tương tự như nhau, tức là có thể đáp ứng nhu cầu của người mua ởí
mức độ giống nhau, người mua tư liệu sản xuất thường có xu hướng chú trọng đến
cách cư xử cá nhân hơn. Trong trường hợp mà các sản phẩm cạnh tranh có sự khác
biệt cơ bản, các doanh nghiệp mua tư liệu sản xuất phải chịu trách nhiệm về sự lựa
chọn của mình hơn, họ có chiều hướng quan tâm hơn đến những yếu tố kinh tế..
a. Các yếu tố môi trường
Các doanh nghiệp mua tư liệu sản xuất chịu ảnh hưởng sâu đậm của những
yếu tố thuộc môi trường kinh tế hiện tại và tương lai, như mức cầu cơ bản, triển
vọng kinh tế và giá trị của đồng tiền. Khi mức độ không ổn định của kinh tế tăng
lên, các doanh nghiệp mua tư liệu sản xuất có xu hướng thu hẹp đầu tư mới về dây
chuyền công nghệ, thiết bị và tìm cách giảm bớt mức tồn kho của mình lại. Trong
những hoàn cảnh như vậy, những người làm marketing tư liệu sản xuất chỉ có thể
kích thích việc đầu tư thêm ở mức độ rất hạn chế.
Ngoài ra, các doanh nghiệp mua tư liệu sản xuất cũng chịu những tác động của
sự phát triển công nghệ, chính trị và cạnh tranh. Những người làm marketing tư liệu
sản xuất phải tiên liệu những yếu tố ấy, xác định xem chúng sẽ tác động đến người
mua ra sao và cố gắng biến chúng thành những cơ hội kinh doanh.
b. Các yếu tố tổ chức
Những tổ chức mua tư liệu sản xuất đều có những mục tiêu, chính sách, thủ
tục, cơ cấu tổ chức và các hệ thống riêng của mình. Người làm marketing tư liệu
sản xuất phải cố gắng tìm hiểu chúng. Họ cần biết những ai tham gia vào quyết định
mua của doanh nghiệp ? Những tiêu chuẩn đánh giá của họ là gì? Các chính sách và
hạn chế của doanh nghiệp đối với người mua như thế nào ? Có một số xu hướng
phổ biến hiện nay trong tổ chức lĩnh vực mua tư liệu sản xuất mà những người làm
marketing tư liệu sản xuất cần lưu ý:
· Tăng cường và hoàn thiện bộ phận cung ứng. Thường thì bộ phận cung ứng
chiếm vị trí thấp trong cấp bậc quản trị của các doanh nghiệp. Gần đây do sức ép
của cạnh tranh, nhiều doanh nghiệp đã nhận thức đầy đủ hơn tầm quan trọng và vai
trò của bộ phận cung ứng nên đã tăng cường, hoàn thiện bộ phận này lên. Từ vai trò
một bộ phận cung ứng theo kiểu cũ, chỉ chú trọng đến việc mua được rẻ nhất thành
bộ phận mua sắm có nhiệm vụ tìm kiếm giá trị tốt nhất từ số người cung cấp ít hơn
nhưng tốt hơn.
· Cung ứng tập trung. Trong các công ty có nhiều chi nhánh, thay vì cung
ứng riêng lẻ tại các chi nhánh do nhu cầu của chúng có khác nhau, thì nay người ta
chú trọng việc cung ứng tập trung hơn. Ngoại trừ một số ít các yếu tố sản xuất đặc
thù sẽ mua tại chi nhánh nếu ở đó có thể ký được hợp đồng mua tốt hơn, còn thì hầu
hết công việc mua do công ty đảm nhận. Nói chung việc cung ứng tập trung sẽ tiết
kiệm được nhiều hơn cho công ty, nhưng cũng đòi hỏi những người cung ứng có
trình độ giỏi hơn và nỗ lực lập kế hoạch marketing cao hơn.
· Hợp đồng dài hạn. Trong trường hợp có những ngưòi cung cấp tin cậy,
người mua tư liệu sản xuất thường chọn hình thức mua theo hợp đồng dài hạn để
chủ động về nguồn cung ứng nếu những điều kiện cung cấp đáp ứng được yêu cầu
mua của họ.
c. Các yếu tố quan hệ cá nhân
Có nhiều người tham gia vào quá trình mua sắm của doanh nghiệp sản xuất
với những chức vụ, thẩm quyền, sự đồng cảm và sức thuyết phục khác nhau. Mỗi
người đều có khả năng tác động đến người khác và chịu sự ảnh hưởng trở lại của
họ. Đây là nhóm yếu tố rất khó kiểm soát, vì trong nhiều trường hợp, người làm
marketing tư liệu sản xuất sẽ không biết được những biến động về hành vi tập thể
nào xẩy ra trong suốt tiến trình mua sắm, mặc dù họ có thể có được đầy đủ thông tin
về nhân cách và những yếu tố quan hệ cá nhân của những người tham gia mua sắm.
d. Các yếu tố cá nhân
Mỗi người có tham gia trong tiến trình quyết định mua đều có những động cơ,
nhận thức, xu hướng riêng của riêng họ. Những điều này chịu ảnh hưởng bởi các
yếu tố như tuổi tác, thu nhập, trình độ học vấn, bằng cấp chuyên môn, cá tính, thái
độ đối với rủi ro và văn hóa của người tham gia, và do đó hình thành nên những
phong cách mua khác nhau của những người mua.
Tóm lại, những người làm marketing tư liệu sản xuất phải biết rõ những khách
hàng của mình và điều chỉnh chính sách cho phù hợp với các ảnh hưởng của môi
trường, tổ chức, quan hệ cá nhân và ảnh hưởng cá nhân đối với các tình huống mua.
4. Tiến trình quyết định mua của doanh nghiệp sản xuất
Việc mua tư liệu sản xuất của các doanh nghiệp thường phải trãi qua một số
giai đoạn cần thiết. Có thể phân chia ước lệ tiến trình quyết định mua để thực hiện
yêu cầu mới của doanh nghiệp sản xuất thành tám giai đoạn. Một số giai đoạn trong
đó có thể bỏ qua khi mua sắm trong những tình huống mua khác.
TÌNH HUỐNG MUA
GIAI ĐOẠN MUA Mua mới Mua lại
có thay đổi
Mua lại
không thay đổi
1. Nhận thức vấn đề có có thể không
2. Phác họa tổng quát nhu cầu có có thể không
3. Xác định qui cách của sản phẩm có có có
4. Tìm kiếm nhà cung cấp có có thể không
5. Yêu cầu chào hàng có có thể không
6. Lựa chọn nhà cung cấp có có thể không
7. Làm thủ tục đặt hàng có có thể không
8. Đánh giá kết quả thực hiện có có có
Hình 7.3. Các giai đoạn của tiến trình mua của doanh nghiệp sản xuất
trong các tình huống mua khác nhau
a. Nhận thức vấn đề
Tiến trình mua khởi đầu khi có ai đó trong doanh nghiệp nhận ra một vấn đề
hoặc một nhu cầu có thể giải quyết được bằng cách mua một sản phẩm hay một
dịch vụ. Các vấn đề có thể xảy ra như là kết quả của những tác nhân kích thích bên
trong hay bên ngoài doanh nghiệp. Các vấn đề bên trong doanh nghiệp như: quyết
định sản xuất một sản phẩm mới và cần đến trang bị và nguyên liệu mới; cần thay
thế máy hỏng, thay đổi nguyên liệu cung cấp ... Có thể vấn đề xảy ra do các tác
nhân kích thích bên ngoài, như ý tưởng mới về một cuộc triển lãm thương mại,
quảng cáo hoặc một đơn chào hàng nào đó...
b. Phác họa tổng quát nhu cầu
Từ việc đã nhận biết một nhu cầu, người mua tiến tới việc xác định khối lượng
và đặc điểm về sản phẩm cần mua. Đối với những sản phẩm thông thường, giai
đoạn này không gặp phải trở ngại gì nhiều. Đối với những sản phẩm phức tạp,
người mua sẽ phải làm việc với các kỹ sư, người sử dụng, cố vấn chuyên môn để
định ra những đặc điểm cho những sản phẩm cần mua, căn cứ vào tầm quan trọng
và mức độ tin cậy, độ bền, giá cả và những đặc điểm khác cần phải có ở sản phẩm.
c. Xác định qui cách của sản phẩm
Sau khi phác họa tổng quát nhu cầu, doanh nghiệp bắt đầu xác định qui cách
của sản phẩm, tức là các chi tiết kỹ thuật của sản phẩm. Để giải quyết vấn đề này,
người ta thường sử dụng phương pháp phân tích giá trị (value analysis) do hãng
General Electric áp dụng lần đầu vào cuối thập niên bốn mươi. Đây là phương pháp
làm giảm chi phí trong đó các bộ phận được nghiên cứu cẩn thận để xác định xem
có thể thiết kế lại, tiêu chuẩn hóa, hoặc chế tạo chúng bằng những cách thức sản
xuất rẻ hơn hay không.
d. Tìm kiếm nhà cung cấp
Sau khi đã xác định qui cách của sản phẩm, người mua cần tìm chọn ra những
nhà cung cấp phù hợp nhất. Người mua có thể xem xét các chỉ dẫn về doanh
nghiệp, tham khảo thông tin qua mạng internet hoặc điện thoại đến các doanh
nghiệp khác để tham khảo. Một số nhà cung cấp qua xem xét sẽ bị loại khỏi danh
sách lựa chọn này vì họ không đủ lớn để cung cấp được khối lượng cần thiết, hoặc
vì họ phục vụ và giao hàng chưa thật tốt. Cuối cùng, người mua sẽ lựa chọn ra được
một danh sách các nhà cung cấp có khả năng cung ứng theo tiêu chuẩn của doanh
nghiệp.
Công việc mua càng mới, sản phẩm càng phức tạp và đắt giá thì cần càng
nhiều thời gian cho việc tìm kiếm và xác định các nhà cung cấp. Nhiệm vụ của nhà
cung cấp là có danh sách trong các tài liệu chỉ dẫn quan trọng và tạo được danh
tiếng tốt trên thị trường. Các nhân viên bán hàng cần theo dõi các doanh nghiệp
trong quá trình tìm kiếm các nhà cung cấp và để tin chắc rằng doanh nghiệp của
mình đang được lưu ý.
e. Yêu cầu chào hàng
Đến đây, người mua sẽ đề nghị các nhà cung cấp có khả năng cung ứng theo
tiêu chuẩn của mình đưa ra các bản chào hàng. Một số nhà cung cấp sẽ chỉ gửíi một
catalog hoặc một đại diện bán hàng đến. Một khi sản phẩm phức tạp hoặc đắt giá,
người mua sẽ đòi hỏi các đề nghị bằng bản chào hàng chi tiết từ phía mỗi nhà cung
cấp có khả năng đáp ứng. Người mua sẽ xét duyệt những nhà cung cấp còn lại khi
những người này đưa ra các giới thiệu chính thức của họ.
Những người làm marketing phải khéo léo trong việc nghiên cứu, viết và giới
thiệu các bản chào hàng. Các các bản chào hàng của họ cần được trình bày như
những tài liệu marketing tạo được lòng tin ở người mua, chứ không chỉ là những tài
liệu kỹ thuật. Họ cần định vị khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp mình sao cho
nó nổi bật hẳn so với các đối thủ cạnh tranh trong tâm trí và nhận thức của khách
hàng.
g. Lựa chọn nhà cung cấp
Trong giai đoạn này, các thành viên của trung tâm mua sẽ xem xét các bản
chào hàng, phân tích đặc điểm và khả năng của người bán và cuối cùng đi đến việc
lựa chọn nhà cung cấp. Họ không chỉ xem xét những khả năng kỹ thuật của các nhà
cung cấp khác nhau, mà còn cả khả năng giao hàng đúng hẹn và cung cấp các dịch
vụ cần thiết. Trung tâm mua thường sẽ thảo ra một bảng kê các tiêu chuẩn mong
muốn được các nhà cung cấp đáp ứng và tầm quan trọng tương đối của những tiêu
chuẩn ấy ( khả năng kỷ thuật và sản xuất, khả năng tài chính, độ tin cậy của sản
phẩm và giao hàng, khả năng đảm bảo các dịch vụ,...). Trên cơ sở đánh giá các nhà
cung cấp theo những tiêu chuẩn đó mà lựa chọn họ làm nhà cung cấp chính thức
cho doanh nghiệp.
Những người mua có thể có quan điểm khác nhau trong việc lựa chọn các nhà
cung cấp. Có doanh nghiệp thích sử dụng đồng thời nhiều nhà cung cấp để họ phải
cạnh tranh nhau tạo ra sự đáp ứng tốt nhất cho doanh nghiệp dựa trên các ưu thế về
giá bán, điều kiện thanh toán và dịch vụ,... Những doanh nghiệp khác thì xem xét
giá cả và kết quả thực hiện của các nhà cung cấp cạnh tranh. Người mua thường
dồn phần lớn đơn đặt hàng cho nhà cung cấp tốt nhất. Ví dụ, một doanh nghiệp có
thể mua 60 % giá trị đơn đặt hàng của nhà cung cấp tốt nhất, 30 % và 10 % tương
ứng của những nhà cung cấp khác.
h. Làm thủ tục đặt hàng
Sau khi đã chọn được các nhà cung cấp tốt nhất tốt nhất, người mua giờ đây sẽ
thương lượng với các nhà cung cấp được chọn đó về đơn đặt hàng cuối cùng, đưa ra
các chi tiết kỹ thuật, khối lượng cần dùng, thời hạn giao hàng, các chính sách về trả
lại hàng, bảo hành...
f. Đánh giá kết quả thực hiện
Trong giai đoạn này, người mua xem xét lại kết quả đã thực hiện của nhà cung
cấp. Người mua có thể tiếp xúc với người sử dụng để hỏi về sự đánh giá mức hài
lòng của họ. Việc đánh giá kết quả thực hiện giúp cho người mua cân nhắc đến việc
mua tiếp, mua có lại có thay đổi, hoặc từ chối người bán. Côngviệc của người bán
là tiên liệu những tiêu chuẩn tương tự như của người mua đã sử dụng, để tin chắc
rằng mình đang đem lại sự hài lòng đúng như mong đợi của người mua.
Chúng ta đã mô tả các giai đoạn mua sẽ được tiến hành trong tình huống mua
mới. Trong tình huống mua lại hoặc mua lại có thay đổi, một số giai đoạn trong số
những giai đoạn ấy sẽ được bỏ qua. Qua mỗi giai đoạn, số lượng các nhà cung cấp
được xem xét để lựa chọn sẽ giảm dần. Người bán cần cố gắng để trãi qua được tất
cả các giai đoạn và càng ở vào giai đoạn cuối cùng của tiến trình quyết định mua
càng tốt.
IV. HÀNH VI CỦA NGƯỜI MUA BÁN LẠI
Nói chung, hành vi của người mua để bán lại (reseller buyer) tương tự như
hành vi của người mua tư liệu sản xuất để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm.
Các tổ chức bán lại có trung tâm mua với số lượng người tham gia khác nhau,
những người này tác động lẫn nhau tạo ra nhiều quyết định mua khác nhau. Họ có
một tiến trình quyết định mua mà khởi đầu bằng việc nhận thức vấn đề và kết thúc
với các quyết định mua những sản phẩm nào, từ những nhà cung cấp nào và với
điều kiện mua như thế nào. Người mua chịu ảnh hưởng của hàng loạt các yếu tố của
môi trường, tổ chức, sự tác động qua lại giữa các cá nhân và của từng cá nhân.
Tuy nhiên, cũng có một số khác biệt quan trọng giữa hành vi mua của doanh
nghiệp sản xuất và hành vi mua của người bán lại. Những người bán lại khác về các
dạng quyết định mua và về cách thức đưa ra quyết định mua.
1. Các quyết định mua của doanh nghiệp mua bán lại
Người bán lại đối diện với ba loại quyết định mua. Trong tình huống mua mới,
người bán lại được giới thiệu một loại sản phẩm mới, và tùy vào việc sản phẩm mới
đó có thể đáp ứng như thế nào những yêu cầu của người mua bán lại mà nó sẽ được
lựa chọn và quyết định mua hay không. Điều này khác với tình huống mua mới mà
các nhà sản xuất gặp phải, họ vốn phải mua những sản phẩm cần thiết của một
trong số những nhà cung cấp nào đó.
Trong tình huống cần chọn nhà cung cấp tốt nhất (the best - vendor situation),
người bán lại cần mua một loại sản phẩm và phải xác định nhà cung cấp nào đáp
ứng yêu cầu của họ tốt nhất. Tình huống này xảy ra khi người mua không có chỗ để
trưng bày tất cả các nhãn hiệu hiện có, hoặc khi người mua đang tìm kiếm một nhà
sản xuất nào đó để chế tạo ra nhãn hiệu riêng.
Trong tình huống cần chọn các điều kiện mua tốt nhất (the best - terms
situation), người bán lại muốn có được những điều kiện có lợi hơn từ phía các nhà
cung cấp hiện tại.
2. Những người tham gia tiến trình mua của người bán lại
Trong các tổ chức bán sỉ và bán lẻ, ai sẽ là người làm công việc mua ? Trung
tâm mua của doanh nghiệp bán lại có thể gồm một hoặc nhiều người tham gia đảm
nhận các vai trò người sử dụng, người ảnh hưởng, người mua, người quyết định,
hoặc người bảo vệ. Một trong số đó sẽ có trách nhiệm mua chính thức và một số
khác sẽ là những người ảnh hưởng đến quyết định mua.
Trong những doanh nghiệp nhỏ, người chủ sở hữu thường trực tiếp quyết định
việc mua. Trong những doanh nghiệp lớn, chức năng mua được chuyên môn hóa và
do một bộ phận chính thức thường xuyên đảm nhận. Trung tâm mua và các hoạt
động của nó thay đổi tùy theo sự khác nhau của các tổ chức bán lại và các đặc điểm
khác có ảnh hưởng đến quyết định mua.
3. Đặc điểm quyết định mua của người bán lại
Đối với những sản phẩm mới, người bán lại cũng áp dụng tiến trình mua đã
được mô tả ở phần khách mua là doanh nghiệp sản xuất. Đối với những sản phẩm
thông thường, người mua chỉ đơn giản đặt hàng lại khi lượng hàng tồn còn ít. Việc
đặt mua lại cũng giao cho những nhà cung cấp ấy, chừng nào mà người mua vẫn
còn hài lòng về hàng hóa, sự phục vụ, các điều kiện bán hàng và các dịch vụ liên
quan. Người mua sẽ tìm cách thỏa thuận lại về giá cả, nếu mức lời của họ bị sút
giảm do chi phí hoạt động tăng lên.
Ngoài giá cả, những người bán lại còn phải xem xét đến nhiều yếu tố khác khi
lựa chọn sản phẩm và nhà cung cấp, chẳng hạn các giới thiệu về sản phẩm, quảng
cáo hợp tác, chiết khấu giá và bớt giá, tài trợ tín dụng mua hàng và các dịch vụ sau
khi bán ...
Các nhà bán lẻ cần hoàn thiện những kỹ năng mua hàng, nắm vững các
nguyên tắc về dự báo nhu cầu, lựa chọn sản phẩm, kiểm tra tồn kho, điều phối
khoảng không gian bày hàng và cách thức trưng bày sản phẩm. Họ phải ý thức được
sự cần thiết phải sử dụng máy vi tính để quản lý việc bán hàng, từ việc xác định
khối lượng đặt hàng hiệu quả, soạn thảo các đơn đặt hàng, kiểm soát khối lượng bán
và tính toán tồn kho, hạch toán các chi phí cho sản phẩm cũng như người bán.
Về phía những nhà cung cấp cũng cần phải hiểu được các yêu cầu đang thay
đổi của người bán lại và đưa ra được những cống hiến hấp dẫn giúp cho người bán
lại phục vụ khách hàng của họ ngày càng tốt hơn.
V. HÀNH VI MUA CỦA CÁC TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN
Tiến trình mua của các tổ chức chính quyền và các doanh nghiệp mua tư liệu
sản xuất có nhiều điểm giống nhau. Nhưng cũng có những điểm khác biệt mà
những doanh nghiệp có mong muốn bán sản phẩm và dịch vụ cho những tổ chức
chính quyền cần phải biết.
Để đạt được sự thành công trong thị trường các tổ chức chính quyền, những
người bán phải tìm hiểu những người chủ chốt có vai trò ra quyết định việc mua,
nhận dạng những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của người mua và hiểu được tiến
trình quyết định mua.
Các tổ chức mua của chính quyền bao gồm các cơ quan Trung ương và chính
quyền địa phương mua các sản phẩm và dịch vụ để phục vụ cho nhu cầu hoạt động
của các cấp chính quyền và lợi ích chung của cộng đồng.
Nhìn chung, tiến trình mua của các tổ chức chính quyền chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố và luôn chịu sự chi phối và giám sát của công chúng thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Do vậy, mặc dù chính quyền là khách hàng mua
với khối lượng lớn và đa dạng, nhưng thường quyết định mua diễn ra lâu, phức tạp
với sự tham gia của nhiều người, nhiều bộ phận liên quan.
TÓM TẮT
Thị trường tổ chức gồm ba loại: thị trường doanh nghiệp mua tư liệu sản xuất
(gồm những người mua hàng hóa và dịch vụ nhằm sản xuất ra những sản phẩm và
dịch vụ khác để bán, cho thuê hoặc cung cấp cho những người khác), thị trường
doanh nghiệp mua bán lại (gồm những người mua sản phẩm và dịch vụ nhằm mục
đích bán lại hoặc cho cho những người khác thuê để kiếm lời) và thị trường chính
quyền (gồm các tổ chức chính quyền trung ương và địa phương mua hoặc thuê hàng
hóa và dịch vụ để thực hiện những chức năng hoạt động của chính quyền).
Thị trường tổ chức có các đặc điểm : a) Kết cấu thị trường và đặc điểm của
nhu cầu : số lượng người mua ít, nhưng khối lượng mua lớn, tập trung về mặt địa
lý; nhu cầu có tính phát sinh, kém co dãn và có tính biến động mạnh; b) Bản chất
của khách hàng tổ chức : có tính chuyên nghiệp, quyết định mua của họ phức tạp,
có nhiều người tham gia, người mua và người bán thường phụ thuộc nhiều vào
nhau; xu hướng mua trực tiếp từ người sản xuất hơn là qua trung gian; xu hướng
thuê mướn thay vì mua ngày càng tăng...
Các doanh nghiệp sản xuất thường mua trong ba tình huống sau: mua lại
không có thay đổi, mua lại có thay đổi và mua mới, và được thiện theo một tiến
trình mua gồm các giai đoạn: nhận thức vấn đề, phác họa tổng quát nhu cầu, xác
định qui cách của sản phẩm, tìm kiếm nhà cung cấp, yêu cầu chào hàng, lựa chọn
nhà cung cấp và làm thủ tục đặt hàng.
Các doanh nghiệp sản xuất chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khi đưa ra các
quyết định mua như yếu tố kinh tế (giá chào hàng thấp, sản phẩm tốt hoặc những
dịch vụ hoàn hảo), yếu tố cá nhân ( thiện chí của người mua, sự chu đáo hay an toàn
trong khi mua).
Hành vi của doanh nghiệp mua bán lại được thực hiện trong các tình huống
mua mới, chọn nhà cung cấp tốt nhất hay chọn các điều kiện mua tốt nhất, theo một
tiến trình quyết định mua tương tự như hành vi của khách hàng mua tư liệu sản
xuất, với sự tham gia của một số người nhằm đưa ra các quyết định mua những sản
phẩm nào, từ những nhà cung cấp nào và với điều kiện mua ra sao. Người mua bán
lại chịu ảnh hưởng của hàng loạt các yếu tố của môi trường, tổ chức, sự tác động
qua lại giữa các cá nhân và của từng cá nhân.
Để đạt được sự thành công trong thị trường các tổ chức chính quyền, những
người bán phải tìm hiểu những người chủ chốt có vai trò ra quyết định mua, nhận
dạng những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của người mua và hiểu được tiến trình
quyết định mua. Hành vi mua của các tổ chức chính quyền chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố và luôn chịu sự chi phối và giám sát của công chúng thông qua Quốc
hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Do đó, mặc dù là khách hàng mua với khối
lượng lớn và đa dạng, nhưng quyết định mua của các tổ chức chính quyền thường
diễn ra lâu, phức tạp với sự tham gia của nhiều người và nhiều bộ phận.
CÂU HỎI
1. Phân tích những đặc điểm chung của thị trường tổ chức (doanh nghiệp sản
xuất, người mua bán lại, tổ chức chính quyền) ?
2. Trình bày những khác biệt chủ yếu của thị trường tổ chức so với thị trường
tiêu dùng. Tại sao nói, cầu sản phẩm trong thị trường tổ chức thường ít có tính co
dãn (đàn hồi) hơn so với cầu sản phẩm trong thị trường tiêu dùng.
3. Có sự khác nhau cơ bản nào giữa hành vi mua của một doanh nghiệp sản
xuất và một tổ chức chính quyền ?
4. Để giải thích cho kết luận ở câu hỏi 2, hãy nêu ra những điểm khác nhau khi
mua một hệ thống máy vi tính của một công ty chế tạo động cơ và một trường đại
học kỷ thuật công lập ?
5. Hãy chọn một loại nguyên vật liệu làm ví dụ và giải thích sự khác nhau
giữa các tình huống mua của doanh nghiệp sản xuất ? Các tình huống mua khác
nhau có ảnh hưởng như thế nào đến quyết định mua của doanh nghiệp ?
6. Phân tích những yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quyết định mua của doanh
nghiệp sản xuất ?
7. Phân tích mối liên hệ giữa các giai đoạn của tiến trình quyết định mua của
doanh nghiệp sản xuất ?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_quan_tri_marketing_7_chuong_dau_p1_2139.pdf