Giáo trình Dâu tằm- Ong mật do PGS.TS. Nguyễn Văn Long chủ biên, chỉnh lý cùng tập thể các giáo viên Bộ môn Dâu tằm biên soạn.
ã Mục tiêu.
Là cuốn sách giáo khoa dùng giảng dạy cho sinh viên các chuyên ngành kỹ thuật nông nghiệp. Nó cũng là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho các cán bộ kỹ thuật tằm – ong, các cán bộ khuyến nông và nông dân sản xuất Dâu tằm – Nuôi ong mật.
Nhằm trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về:
- Cây dâu, kỹ thuật trồng, chăm sóc và khai thác lá dâu.
- Giống tằm và kỹ thuật nuôi tằm tốt.
- Bệnh tằm và biện pháp phòng chống.
- Kỹ thuật nuôi, tạo chúa, nhân đàn ong mật
.
178 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 3001 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Dâu tằm - Ong mật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có sức đẻ trứng cao, ong thợ sống lâu cho đàn ong đông quân.
3. ít hoặc không có xu hướng chia đàn, bốc bay.
4. Đàn ong hiền, khi kiểm tra ong thợ vẫn hoạt động bình thường, không chạy xô xuống
phía dưới bánh tổ, không bay lên đốt người.
5. Chống chịu được các loại bệnh, ấu trùng túi (sacbrood), thối ấu trùng châu Âu.
6. Có khả năng qua mùa đông lạnh, hoặc mùa hè thiếu thức ăn tốt, thế đàn giảm ít.
Để chọn lọc được hiệu quả và nhanh hơn người ta tập trung vào một hoặc hai chỉ tiêu chính
thường là năng suất mật, và sức đẻ trứng.
• Chọn lọc đại trà.
Là phương pháp chọn lọc đơn giản ,dễ áp dụng ở trại ong sản xuất mật. Vào cuối mùa nuôi
ong người ta chia các đàn ong của trại thành 3 nhóm theo sản lượng mật và các đặc tính có giá trị kinh
tế khác.
Nhóm 1 gồm các đàn tốt nhất, năng suất mật cao nhất chiếm khoảng 10- 20% số đàn của trại.
Nhóm 2 là các đàn có chỉ tiêu trung bình , chiếm số lượng lớn nhất khoảng 60 - 80%.
Nhóm 3 là nhóm có năng suất mật và các chỉ tiêu thấp nhất,chiếm khoảng 10 - 20%.
Từ nhóm 1 chọn các đàn mẹ và đàn bố (số đàn bố ít nhất là 5 đàn, còn ong đực ở các đàn
khác bị tiêu diệt hết). Tạo chúa từ các đàn mẹ cho giao phối rồi thay chúa vào nhóm thứ 2. Loại bỏ
nhóm thứ 3 bằng cách tiêu diệt hoặc giết chúa, nhập các đàn lại rồi giới thiệu chúa mới tạo từ nhóm 1
vào. Cuối năm sau lại phân loại đàn ong và tiến hành theo phương pháp trên.
Bằng phương pháp chọn lọc đại trà, năng suất mật có thể tăng lên 20- 25% ở những nơi chưa
chọn lọc. Tuy nhiên sau 3 - 4 năm chọn lọc như vậy có thể xuất hiện hiện tượng cận huyết, tỉ lệ ong
đực lưỡng bội cao làm giảm sức sống của đàn. Vì vậy cứ định kì 3 - 4 năm một lần lại trao đổi hoặc
mua một số đàn cao sản từ một số trại ong khác cách xa 25 - 30 km để tạo chúa hoặc là tạo ong đực.
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..156
Việc chọn lọc đại trà cần tiến hành đồng loạt ở tất cả các trại ong trong mùa tạo chúa ở một địa
phương. Loại bỏ ong đực xấu từ các đàn trung bình sẽ đảm bảo cho ong chúa chỉ giao phối với ong
đực của những đàn tốt.
• Chọn lọc cá thể.
Là phương pháp chọn lọc phức tạp hơn, đòi hỏi người chọn giống phải có trình độ cao và chế
độ kiểm tra nghiêm ngặt, số lượng đàn ong tham gia nhiều hơn.
Chọn lọc cá thể là phương pháp kiểm tra năng suất mật và đặc tính khác ở đời con để biết rõ
các đặc tính quý có di truyền hay không. Sản lượng mật là một chỉ tiêu có giá trị nhất trong chọn giống
vì vậy người ta thường kiếm những đàn có năng suất kỉ lục để chọn lọc. Tuy nhiên không phải tất cả
các đàn cao sản đều có thể di truyền những đặc tính có giá trị cho thế hệ sau (ví dụ những đàn có ong
trôi dạt, có tính ăn cướp mạnh...) vì thế không phải bất cứ đàn kỉ lục nào cũng đều có giá trị để làm
giống.
Phương pháp tiến hành: Chọn một số đàn có năng suất kỉ lục (3 - 6 đàn) tạo ra một số lượng
chúa bằng nhau (từ 50 - 60 chúa) rồi giới thiệu vào trại so sánh. Ở trại đó cũng tạo chúa cùng thời
điểm để giới thiệu vào các đàn đối chứng. Các chúa thí nghiệm được giới thiệu vào các đàn cơ bản có
thế đàn tương đương và được chăm sóc quản lí và được cho ăn như nhau. Ví dụ nếu thực nghiệm trên
4 đàn kỉ lục, tạo 50 chúa mới mỗi đàn, thì phải chọn 250 đàn, 200 đàn giới thiệu các chúa mới kỉ lục
và 50 đàn ong chúa bình thường để làm đối chứng.
Trên cơ sở những số liệu thống kê đối chiếu với sản xuất vào cuối vụ tính sản lượng trung
bình của từng nhóm dựa trên kết quả so sánh sản lượng mật trung bình của các nhóm thí nghiệm với
nhau và với nhóm đàn đối chứng có chúa bình thường sẽ chọn được con ong chúa có kỉ lục để làm
giống. Ong chúa nào mà đời con đạt sản lượng cao nhất so với các chúa kỉ lục khác và chúa bình th-
ường là ong chúa có chất lượng cao. Những ong chúa kỉ lục này gọi là dòng đầu.
Từ những đàn này cần phải tạo ra nhiều ong chúa mới để thay thế cho các đàn khác. Các dòng
đầu tiếp tục được hoàn thiện một cách thường xuyên để tăng sản lượng dòng. Nó còn được sử dụng để
giao phối chéo với các dòng khác để tạo được những dòng mới có năng suất cao.
• Chọn lọc theo chương trình quần thể khép kín.
Là phương pháp chọn lọc mới do Page và Laidlaw đề xuất (1981, 1992). Đây là phương pháp
chọn giống quần thể đơn giản loại trừ được việc giới thiệu các vật liệu di truyền không kiểm tra, nhằm
ngăn ngừa ong lai Phi lai lẫn với ong A.mellifera ở châu Mĩ. Các quần thể này có thể duy trì bằng việc
cho giao phối cách li địa lí hoặc thụ tinh nhân tạo.
Chọn lọc theo chương trình quần thể khép kín có thể khắc phục được tồn tại của các phương
pháp chọn lọc khác là tỉ lệ cận huyết cao, mặt khác nó lại duy trì được vốn gen của toàn bộ quần thể
chọn lọc. Theo sự tính toán của Page và Laidlaw nếu quần thể khép kín có 35 đàn giống mà 35 con
chúa này được thay thế bằng một chúa, con của chúng mỗi năm thì sau 30 thế hệ tỷ lệ sống sót của ấu
trùng ít nhất đạt 85%.
Hàng năm vào mùa tạo chúa người ta tạo ra 10 - 15 ong chúa từ một đàn giống, và tạo ong
đực từ tất cả các đàn trên với số lượng đồng đều và cùng nở vào một thời gian. Chuyển các chúa tơ và
ong đực (ở tuổi giao phối) đến địa điểm giao phối cách li cho giao phối tự nhiên. Với ong A.mellifera
người ta tiến hành thụ tinh nhân tạo cho ong chúa bằng cách trộn đều lượng tinh trùng của ong đực thu
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..157
được từ ong đực của các đàn làm giống. Sau khi giao phối và đẻ trứng các ong chúa được giới thiệu
vào các đàn cơ bản (có thể đàn tương đương) và hình thành quần thể thí nghiệm khoảng 200 - 300
đàn. Qua theo dõi một năm những đàn tốt nhất của mỗi nhóm được chọn để làm giống cho đời sau.
Chu trình như vậy được lặp lại hàng năm.
Hình 4.8- Sơ đồ chọn lọc theo quần thể khép kín (Page và Laidlaw 1982).
Chọn lọc theo chơng trình quần thể khép kín đã đợc áp dụng ở Mỹ (Susan Cobey, 1988),
Canada (Szabo và cộng sự, 1987) đối với A.mellifera và cho kết quả khả quan: sau 4 thế hệ chọn lọc ở
Canada năng suất mật tăng 25,6%.
Ở nớc ta chọn lọc theo quần thể khép kín đợc áp dụng cho ong A.cerana. ở trung tâm nghiên
cứu ong từ năm 1990. Sau 4 thế hệ chọn lọc năng suất mật tăng lên 24,1%, tỷ lệ bệnh ấu trùng túi
(sacbrood) giảm từ 23,1% xuống 2,3% (Phùng Hữu Chính và Phạm Văn Lập, 1994).
• Lai giống.
Là phương pháp làm thay đổi giống ong nhanh nhất làm phong phú tính di truyền và tăng sức
sống, tăng sự thích nghi với môi trường.
+ Lai giống nội phối
Việc lai giống giữa các dòng nội phối là một hướng nâng cao năng suất mật trong nghề nuôi
ong nhất là khi kĩ thuật thụ tinh nhân tạo trở thành phổ biến. Để nhận được các dòng nội phối người ta
sử dụng kiểu giao phối “ Anh lai với em gái”. Người ta còn sử dụng phương pháp lai kép là sau khi
tạo được 2 cặp lai đơn người ta lại cho chúng giao phối với nhau để tạo ra con lai.
Tính tất yếu sử dụng lai giống nội phối là nó củng cố được các đặc tính mong muốn ở thế hệ
sau và cho phép giữ gìn nó để kết hợp các dòng ong có đặc tính mong muốn khác. Tuy nhiên trong đa
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..158
số các trường hợp nội phối đặc biệt là nội phối gần làm giảm sức sống (vì có nhiều đồng hợp tử về gen
lặn) và khó duy trì được các đàn ong. Mặt khác phải thử rất nhiều phép lai mới chọn được cặp lai tốt
nên rất tốn kém. Hơn nữa giống lai trên chỉ sử dụng được 1 năm, không dùng chúng để làm giống
được.
+ Lai giống kinh tế
Dựa trên hiện tượng ưu thế lai, người ta sử dụng các đàn có năng suất cao của các phân loài
này lai với các đàn năng suất cao của phân loài khác. Ưu thế lai biểu hiện rõ ở đời lai thứ nhất (F1) sức
đẻ trứng và năng suất mật cao hơn từ 50 – 200%. Tuy nhiên trong chăn nuôi và trồng trọt cũng như
trong ngành ong không phải cứ lai 2 phân loài (chủng) khác nhau là sẽ cho kết quả như mong muốn
mà người ta phải tiến hành thí nghiệm để chọn được cặp lai thích hợp. Thường thường người ta chọn
giống thuần để lai với nhau mới cho kết quả tốt.
Ở Nga người ta chọn được một số cặp lai sau: A.m.caucasica x A.m.mellifera và A.m
mellifera x A.m.caucasica.
Ở Mỹ sử dụng giống lai nổi tiếng giữa dòng midnite (từ giống gốc là ong A.m.caucasica) và
A.m.carniolan (có nguồn gốc từ ong Ý A.m.ligustica) (Crane 1990). Giống lai kinh tế đã được sử
dụng rộng rãi ở Mỹ từ 1949. Những người nuôi ong mua chúa lai vào đầu vụ xuân và thay cho các
ong chúa thông thường (chúa ong Ý hoặc ong carniolan của họ. Năng suất mật của các đàn có chúa lai
có thể gấp đôi các đàn có chúa bình thường. Ưu thế lai chỉ có ở đời thứ nhất (F1), đến đời thứ 2 (F2)
thì nó rất khác nhau và không còn tác dụng vào đời thứ 3 (F3). Người nuôi ong chỉ sử dụng (F1), một
số người sử dụng (F2) nhưng không dùng (F3).
Cách tiến hành lai kinh tế ở những trại sản xuất: ví dụ sử dụng cặp lai Capcazơ x nâu tây Âu.
Năm đầu tiên đem ba chúa Capcadơ đã đẻ trứng sang trại nuôi toàn ong nâu Tây Âu giới thiệu vào 3
đàn đã bắt chúa đi. Khi chúa Capcazơ đẻ mới bắt đầu tạo chúa. Dùng đàn ong nâu tây châu Âu mạnh
làm đàn nuôi dưỡng. Trước khi đẻ trứng 20 - 21 ngày, người ta chọn 5 - 10 đàn tốt của trại để làm đàn
bố và cho tạo ong đực còn ong đực của các đàn khác bị giết. Giới thiệu các mũ chúa vào các đàn gốc,
và đàn nhân ra của toàn trại. Ong chúa capcazơ giao phối với ong đực nâu tây châu Âu để tạo ra thế hệ
lai thứ nhất cho năng suất cao. Năm thứ 2, khi ong đực của toàn trại là ong capcazơ, lại lấy 3 con ong
chúa đã đẻ, giống nâu Tây Âu có năng suất cao về thay vào 3 đàn của trại rồi tạo chúa thay cho tất cả
các đàn của trại. Như vậy toàn bộ chúa mới của trại cũng là thế hệ lai thứ nhất (F1) nhưng là lai ngược.
Về hiệu quả kinh tế của con lai ngược không kém con lai xuôi. Bằng cách này có thể đều đặn tạo các
đàn lai thế hệ thứ nhất khi luân phiên 2 giống. Đối với ong châu Á A. cerana hiện nay có rất ít công
trình nghiên cứu về việc lai. Tuy nhiên ở nước ta do có sự di chuyển phân loài ong A.cerana cerana từ
miền Bắc vào miền Nam đã có hiện tượng lai giữa phân loài trên với phân loài A. cerana indica ở phía
Nam. Giống lai có mẹ là A.c.cerana với bố là A.c.indica có nhiều ưu thế hơn giống thuần chủng
A.c.indica như: sức đề kháng với bệnh ấu trùng tốt hơn, sức tụ đàn lớn hơn (5 - 6 cầu), năng suất cao
hơn, con ong to và xây toàn bộ lỗ tổ ong thợ, trên tầng chân ong nội có đường kính 4,6 mm. Trong khi
đó ở ong A.c.indica chỉ có những đàn nhỏ 2 - 3 cầu, chúa non mới xây lỗ tổ ong thợ còn những đàn
mạnh xây toàn bộ hoặc rất nhiều lỗ tổ ong đực (Nguyễn Văn Trung 1994).
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..159
Câu hỏi ôn tập chương 8.
1. Các kỹ thuật nuôi ong cơ bản nhằm duy trì đàn ong mạnh, có khả năng khai thác mật cao.
2. So sánh các phương pháp tạo chúa, chia đàn ong.
3. Các phương pháp chọn lọc giống ong.
Chương 9: SÂU BỆNH VÀ KẺ THÙ HẠI ONG MẬT.
Chương 9 đề cập đến các loại bệnh và dịch hại chính gây hại cho ong mật ở Việt nam như: bệnh
thối ấu trùng, Nosema, ngộ độc, ve ký sinh , sâu ăn sáp hại ong và các biện pháp phòng chống nhằm
giảm thiệt hại cho nghề nuôi ong.
Giống như các động vật nuôi khác, ong mật cũng bị tấn công bởi một số vi sinh vật và nhiều
dịch hại khác. Tuỳ theo mức độ bị hại mà đàn ong có thể bị suy yếu, giảm thế đàn và năng suất mật
hoặc làm cho đàn ong bị chết hoặc bỏ tổ bay đi gây thiệt hại kinh tế rất lớn. Ở nước ta hiện nay các
bệnh ấu trùng túi, thối ấu trùng châu Âu là những bệnh gây thiệt hại rất lớn cho nghề nuôi ong nội địa
A.cerana. Các bệnh khác như thối ấu trùng châu Mĩ, ấu trùng vôi chưa thấy có. Phát hiện và phòng trừ
kịp thời 2 bệnh trên là một trong các yếu tố quyết định nuôi ong có hiệu quả kinh tế.
9.1. Bệnh thối ấu trùng châu Âu ( European foulbrood )
Bệnh thối ấu trùng châu Âu do White tìm ra lần đầu ở châu Âu vào năm 1912. Hiện nay bệnh
có mặt ở mọi vùng nuôi ong trên thế giới, còn gọi là bệnh thối ấu trùng mở nắp hay thối ấu trùng tuổi
nhỏ vì bệnh thường gây chết ấu trùng 3- 5 ngày tuổi. ẤU trùng chết bị chua nên còn gọi là thối ấu
trùng chua. ở các đàn bệnh nặng, năng suất mật giảm từ 20- 80%. Ong nội hay bỏ tổ bốc bay sau khi
quay mật hoặc kiểm tra, hay khi thay đổi thời tiết từ mưa lạnh sang nắng ấm.
a. Tác nhân gây bệnh.
Theo Poltrep (1977) Bailay (1981) tác nhân chính gây bệnh thối ấu trùng châu Âu là một loại
liên cầu khuẩn có tên là Melissococcus pluton (trước kia gọi là Streptococcus pluton) còn các vi khuẩn
như Bacillus alvei, Streptococcus apis... đều là vi khuẩn thứ phát.
Vi khuẩn M.pluton hình cầu, 2 đầu kéo dài thành hình ngọn giáo, kích thước 0,7 - 1,5µ. Liên
cầu khuẩn bắt màu gram dương. Nó có thể đứng riêng rẽ hoặc thành từng cặp, chuỗi. Sức chống chịu
của vi khuẩn khá cao. Trong bánh tổ nó tồn tại được 12 tháng. nó bị tiêu diệt sau khi phơi nắng 3h,
trong mật: sau 40 h. Nuôi cấy trong môi trường dinh dưỡng đặc biệt ở 35oC; pH: 6,6 sau 24 – 48 h xuất
hiện khuẩn lạc màu trắng, đường kính từ 1 - 1,6 mm. Vi khuẩn có khả năng lên men một số đường
như gluco, fructo.
b. Triệu chứng bệnh:
- Đối với ấu trùng: Khi bị bệnh nhẹ, ấu trùng khô, thay đổi tư thế, không nằm cong như bình thường
mà doãng rộng ra, mất màu bóng. Ở đàn đông quân ấu trùng bị bệnh ít, ong thợ dọn sạch các ấu trùng
bệnh nên không nhìn thấy. Khi đàn ong bị bệnh nặng hay đã bị bệnh lâu, ong thưa quân, không dọn
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..160
sạch được các ấu trùng bệnh. Xác chết có màu trắng bệch sau ngả màu vàng rồi nâu đậm. Xác chết
thối rữa, tụt xuống đáy lỗ tổ. Sau khi bị khô đi thành vảy có thể lấy đi dễ dàng.
Ấu trùng chết có mùi chua như dấm.
Khi có Bacillus alvei cũng gây bệnh
thối ấu trùng chết ở tuổi lớn (4 - 5
ngày tuổi) đôi khi ấu trùng bắt đầu
vít nắp và có mùi thịt thối.
- Bánh tổ: khi bị bệnh nhẹ ở khu
vực nhộng vít nắp nhiều, có lỗ chỗ
vài lỗ tổ không vít nắp mà có ấu
trùng tuổi nhỏ hoặc trứng, do ong
thợ dọn xác chết và chúa đã đẻ lại
vào lỗ tổ đó.
Khi đàn ong bị bệnh nặng, ít có
hoặc không có nhộng vít nắp. hoặc
Hình 1. 9- Ấu trùng ong bị bệnh thối ấu trùng châu Âu không có nhộng vít nắp. Khi nhấc
cầu kiểm tra thấy ong xào xạc, chạy
tụt cầu kiểm tra thấy ong xào xạc, chạy tụt xuống vách thùng hoặc phía dưới bánh tổ. Ong thợ già,
đen bóng do ấu trùng bị chết, nên không có lớp ong non kế tiếp. Bệnh lan truyền từ đàn này sang đàn
khác do ong ăn cướp nhầm tổ, lấy mật, phấn cùng chỗ với đàn bệnh hoặc do di chuyển ong từ vùng
này sang vùng khác.
c. Biện pháp phòng trừ:
Khi phát hiện thấy đàn ong bị bệnh có thể sử dụng một trong hai phương pháp:
- Cho ăn thuốc kháng sinh cùng với xirô đường.
- Phun thuốc kháng sinh lên bánh tổ hoặc ong thợ của đàn bị bệnh.
• Phương pháp cho ăn.
Cho ăn thuốc kháng sinh cùng với xirô đường (theo tỷ lệ 1 đường : 1 nước) 3 tối liền, mỗi tối
100 ml/ cầu, có thể sử dụng 1 trong những loại thuốc sau:
- Erythromyxin 0,4 - 0,5 g pha trong 1 lít xirô đường.
- Kanamixin 04 - 0,5 g pha trong 1 lít xirô đường.
- Streptomyxin 0,4 - 0,5 g pha trong 1 lít xirô đường.
- Chloramphenicol 0,4- 0,5 g pha trong 1 lít xirô đường.
- Ampixilin 0,.5 g pha trong 1 lit xi rô đường
Các loại thuốc trên hoà với nước sôi để nguội, sau đó đổ vào xirô đường, khuấy cho tan đều.
Cho ong ăn 3 tối liền. Sau 1 tuần kiểm tra nếu chưa khỏi thì cho ăn tiếp. Trước khi ăn cần loại bớt cầu
bị bệnh nặng, cầu thưa quân để ong ăn hết đường. Cần kết hợp cho ăn thuốc với việc thay chúa đẻ đàn
bệnh bằng mũ chúa tạo từ đàn không bệnh để tăng hiệu quả điều trị.
• Phương pháp phun thuốc lên bánh tổ.
Vào vụ mật hoặc với đàn ong yếu (ong không ăn xirô đường + thuốc) có thể sử dụng biện
pháp phun thuốc kháng sinh lên bánh tổ ong và cơ thể ong trưởng thành với liều lượng thuốc gấp đôi
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..161
khi cho ăn (1g/ lít xiro). Dùng bình phun có hạt nhỏ, đều phun nhẹ nhàng lên mình ong và bánh tổ
thành một lớp bụi. Cách một ngày phun một lần. Sau khi phun 2 - 3 lần là có thể giảm hoặc khỏi
bệnh.
Ưu điểm: tốn ít thuốc, không để lại dư lượng trong mật nhưng hiệu quả không bền bằng cách
cho ăn, chỉ có tác dụng rõ rệt với các đàn đông quân.
9.2. Bệnh ấu trùng túi (Sacbrood)
Bênh này do virus gây nên. Bệnh có ở khắp nơi nuôi ong, song không gây thiệt hại đáng kể
với ong A.mellifera (Borchert 1966, Poltrep 1972). Đối với ong A.cerana, bệnh gây thành dịch lần đầu
tiên ở Trung Quốc 1972 và gây hại nặng (Huang Shuang Xiu 1989). Ở Thái Lan, bệnh xuất hiện vào
năm 1976 (Areekul 1982). Năm 1981 Bailey đã phân lập được chủng virus gây bệnh trên ong
A.cerana ở Thái Lan có các đặc tính khác với chủng virus sacbrood gây bệnh trên ong A.mellifera và
ông đặt tên là virus Thai sacbrood.
Năm 1974, dịch bệnh sacbrood đã bùng nổ ở nước ta do nhập ong cao sản của Trung quốc.
Năm 1989 nhờ sự giúp đỡ của chuyên gia Hà Lan Vincent Mulder và Brenda V. Ball (trạm
thực nghiệm Roshamsted của Anh) đã xác định sự có mặt của virus Thai sacbrood trên các đàn ong
bệnh ở Việt Nam.
a. Tác nhân gây bệnh.
Năm 1917 White (Mĩ) đã xác nhận tác nhân gây bệnh ấu trùng túi ở ong A.mellifera là một
loại virus, ông đặt tên là Morator aetatulae Holmes.
Năm 1981, Bailey xác định virus mới gây bệnh cho ong A. cerana là Thai Sacbrood.
Khả năng lây nhiễm của virus gây bệnh ấu trùng túi rất lớn. Theo Bailey (1981) 1 mg virus
trong dịch ấu trùng chết bệnh có thể lây bệnh cho toàn bộ ấu trùng ong thợ của 1000 đàn khoẻ.
Sức chống chịu của virus không cao, nó mất khả năng gây bệnh ở nhiệt độ 59oC trong 10 phút.
Ở nhiệt độ phòng virus có thể tồn tại 3 tuần. Trong đàn ong bệnh lây truyền qua ong nuôi dưỡng.
Bệnh truyền từ đàn này sang đàn khác qua ong ăn cướp mật, nhầm tổ, lấy chung nguồn thức ăn, đặc
biệt là chung nguồn phấn (Bailey 1981) do nhập ong đàn bệnh vào đàn khoẻ và sử dụng chung dụng
cụ nuôi.
b. Triệu chứng bệnh.
Bánh tổ bị bệnh, nắp vít tổ lõm
xuống, bị ong thợ cắn thủng, có ấu
trùng nhọn đầu nhô lên miệng lỗ tổ.
Phần lớn ấu trùng chết ở giai đoạn
mới vít nắp hoặc tiền nhộng. Khi
bệnh nặng cả ấu trùng lớn tuổi
chuẩn bị vít nắp cũng bị chết. Màu
sắc của ấu trùng bệnh từ trắng ngà
chuyển sang trắng bệch, màng ngăn
đốt không rõ. Khi gắp ấu trùng khỏi
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..162
lỗ tổ, phía đuôi ấu trùng có túi dịch trong suốt hoặc vàng nhạt. Thân ấu
Hình 2. 9 - Ấu trùng ong bị bệnh thối ấu trùng túi.
trùng chuyển sang màu vàng nhạt rồi nâu nhạt hay xám nâu. Khi mới chết ấu trùng không có mùi, khi
khô hanh thành vảy cứng, dễ lấy ra khỏi tổ. Đàn bệnh nặng có tới 90% ấu trùng tuổi lớn chết, đàn ong
sẽ bỏ tổ bốc bay.
c. Phòng trị bệnh.
Hiện nay chưa có loại thuốc nào có hiệu quả đôí với bệnh thối ấu trùng túi. Các loại thuốc
kháng sinh cho ăn hoặc phun chỉ có tác dụng chống các loại vi khuẩn thứ phát, tăng cường khả năng
dọn vệ sinh của ong thợ làm giảm bớt bệnh. Đàn nhẹ có thể khỏi bệnh. Một số tác giả như Smirnova
F.E. Timopheer V.E. , V.M. Giaptrenco (1972) đã sử dụng thuốc tím (KMn O4) 0,1% trong 1 lít nước
đường để cho ăn mỗi cầu 100 ml hoặc phun vào bánh tổ nhưng tác dụng cũng chỉ như các kháng sinh
khác.
Một số nước như Trung quốc, Ấn Độ đã thành công bước đầu trong việc chọn giống chống
bệnh với ấu trùng túi (Gong 1983, Verma L.R 1989).
Có thể điều trị bệnh ấu trùng túi bằng cách thay chúa đẻ đàn bệnh bằng chúa tơ hoặc mũ chúa,
nhốt chúa đẻ đàn bệnh trong lồng dây thép nhỏ 7 - 8 ngày. Loại bỏ cầu bệnh cũ, để ong phủ kín các
cầu ong còn lại. Cho ong ăn 3 - 4 tối, đến vít nắp hoặc chuyển ong đến nơi có nguồn mật mới dồi dào.
Việc thay chúa đẻ bằng chúa tơ, mũ chúa hoặc nhốt chúa 7 - 8 ngày đã tạo ra một khoảng thời
gian trong đàn ong không có ấu trùng nhỏ tuổi, nhất là ấu trùng 2 ngày tuổi là giai đoạn mẫn cảm nhất
với virus gây bệnh ấu trùng túi (Bailey 1981). Ong thợ được ăn thêm, tăng cường dọn vệ sinh, gắp bỏ
ấu trùng bệnh. Các vảy khô nếu còn lại cũng không còn khả năng lây bệnh nữa. Các lỗ tổ được dọn vệ
sinh và đổ đầy mật hoa hoặc nước đường vào, 7- 8 ngày chúa mới đẻ lại, đàn ong sẽ giảm bệnh.
9.3. Bệnh ỉa chảy (Nosema).
Bệnh do một loài nguyên sinh động vật có tên là Nosema apis gây ra. Bệnh thường xuất hiện
vào vụ đông xuân sau những ngày mưa rét kéo dài, ong không bay ra ngoài được.
Triệu chứng: Có nhiều ong bò lết ở dưới đất trước cửa thùng ong. bụng ong trướng, phân màu
vàng sẫm hoặc màu đen. Đàn ong yếu đi do tuổi thọ giảm, ong nuôi ấu trùng kém, đàn bệnh thu rất ít
mật.
Để chuẩn đoán chính xác phải nghiền nát bụng các con ong nghi là bị bệnh, lấy dịch soi kính
hiển vi nếu thấy bào tử hình ovan mép dày có màu xanh nhạt (do có tính phản quang) là bào tử
Nosema apis. Khi ong đi bài tiết, phân có bào tử rơi vào cây cỏ, ao hồ, rãnh nước. Ong khoẻ đi lấy
nước hoặc mật, phấn hoa ăn vào bị nhiễm bệnh và lây lan ra cả tổ.
Điều trị: Thay chúa bệnh bằng chúa mới. Cho đàn ong ăn thuốc Fumagilin hoà trong nước
đường với liều lượng 250 mg thuốc trong 1 lít xirô đường cho 10 cầu ong ăn liên tục trong 10 ngày.
Cần cho ăn trước vụ mật 3 tuần, kết hợp thay thùng rũ bớt cầu bệnh, ủ ấm cho đàn ong. có thể cho ăn
penixilin 1000000 đơn vị/ lít nước đường thay cho Fumagilin.
9.4. Ngộ độc hóa học.
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..163
Để phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng, con người đã sử dụng một lượng thuốc hoá học khổng lồ
210000 tấn/ năm (FAO 1981). Nhờ đó năng suất mùa màng tăng đáng kể, nhưng đồng thời nó cũng
có tác hại rất lớn là làm chết nhiều loại côn trùng có ích, trong đó có ong mật. Ngoài ra việc sử dụng
các loại thuốc trừ cỏ còn tiêu diệt các loại cỏ là nguồn cung cấp mật, phấn cho ong, làm giảm năng
suất nghề nuôi ong.
Ở nước ta hiện nay đang sử dụng và khảo nghiệm 351 loại thuốc trừ chuột, cỏ dại, nhện, thuốc
trừ sâu bệnh và tuyến trùng (Trần Quang Hùng 1991). Lượng thuốc hoá học trên không phải lúc nào
cũng được sử dụng một cách hợp lí đã gây tổn hại lớn cho nghề nuôi ong, đặc biệt là ở các tỉnh đồng
bằng vào vụ hoa vải thiều, nhãn.
a. Nguyên nhân.
- Do người sử dụng không thông báo trước cho người nuôi ong thời gian, địa điểm, loại thuốc sử
dụng.
- Phun thuốc trừ sâu vào ban ngày và vào thời kì cây trồng nở hoa.
- Sử dụng các loại thuốc trừ côn trùng như ruồi, muỗi ngay cạnh thùng ong, ở các rãnh nước, cây cỏ
ong đến lấy mật, phấn.
- Do người nuôi ong không biết về tác hại của các loại thuốc và không áp dụng đúng các biện pháp
phòng ngừa.
b. Triệu chứng ngộ độc và tác hại.
• Triệu chứng.
Khi thấy ong chết đột ngột với số lượng lớn trước cửa tổ, trong thùng ong và ở khu vực đặt
ong. Đàn càng mạnh ong chết càng nhiều (do số lượng ong đi làm nhiều). Một số ong bò lết dưới đất,
một số vừa bò nhảy vừa xoay tròn, nhiều con còn mang cả giỏ phấn. Đa số con chết có vòi hút duỗi
dài.
• Tác hại.
Tuỳ theo việc sử dụng các loại thuốc khác nhau thì mức độ hại với ong khác nhau. Nhìn chung
thuốc trừ sâu có độ độc cao hơn thuốc trừ nấm và cỏ. Tuỳ theo mức độ độc của thuốc, người ta chia ra
làm 4 loại:
Nhóm 1: độc tính cao.
Nhóm 2: độc tính trung bình.
Nhóm 3: ít độc.
Nhóm 4: không độc.
Khi ong lấy mật có phun thuốc sâu có độc tính cao, ong sẽ chết ngay hoặc chết trên đường về
tổ. Trong trường hợp này số quân đi làm giảm mạnh nhưng ong và ấu trùng ở tổ không bị ảnh hưởng
trực tiếp của chất độc.
Nếu ong lấy mật có phun thuốc sâu tác động chậm (hoặc phấn bị nhiễm độc) khi bay về tổ nó
truyền cho các con khác và huy động thêm ong lấy mật đến lấy thì sẽ gây chết hàng loạt ong ở các lứa
tuổi. Ong bám trên cầu thưa thớt, ấu trùng, nhộng chết đều do ăn mật có chất độc và thiếu ong nuôi
dưỡng làm cả đàn thiệt hại. Trường hợp phấn bị nhiễm độc thì ong non chết trong thời gian dài.
c. phòng trị ngộ độc hoá học
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..164
Người nuôi ong phải điều tra kĩ tình hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở địa điểm mình
chuẩn bị chuyển ong đến, tránh những vùng, những loại cây trồng thường xuyên sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật.
- Chủ động gặp gỡ bàn bạc với người trồng trọt sử dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp để bảo vệ ong
mật và các côn trùng thụ phấn khác. Nếu phải sử dụng thuốc hoá học thì chọn loại ít độc nhất, phun
vào thời điểm cây không nở hoa vào lúc chiều tối.
- Khi được báo ngày phun thuốc, thuốc có độc tính cao thì tốt nhất là chuyển ong đi khu vực mới,
cách địa điểm cũ 5 km. Nếu thuốc ít độc hơn có thể cách li ong tại chỗ 2 –3 ngày. Nới rộng khoảng
cách các cầu, đóng cửa tổ, mở cửa sổ, bịt các khe hở, đặt ong vào chỗ tối, thỉnh thoảng dội nước mát.
Trường hợp ong bị ngộ độc cũng cần đóng cửa tổ xử lí như trên.
• Xử lí đàn ong bị ngộ độc:
Sau khi chuyển ong đến vùng khác, cần rũ bớt các bánh tổ có mật hoa mới, các cầu phấn. Cho
ong ăn nước đường loãng trong 3- 4 ngày, nhập các đàn thưa quân chết chúa lại. Các đàn bị ngộ độc
nặng đều phải thay chúa.
Mức độ chết do thuốc trừ sâu (với ong A.mellifera). (Theo FAO.Bulletin 1988).
Số lượng ong chết 1 ngày tại cửa tổ Mức độ ngộ độc
100 chết bình thường
200- 400 chết ít
500- 1000 trung bình
> 1000 nặng
d. Ngộ độc do thực vật có mật, phấn độc.
- Ngộ độc mật hoa chè (trà): Từ tháng 9- 11 những đàn ong đặt ở vùng hoa chè vào những ngày nắng
hanh khô thấy nhiều ấu trùng 4 - 5 ngày tuổi ong bị chết. Nguyên nhân là do hoa chè tiết nhiều mật,
phấn. Trong mật và phấn hoa có hàm lượng tanin cao làm chết ấu trùng. Ong ngoại A.mellifera bị ngộ
độc nhiều hơn ong A.cerana.
- Ngộ độc hoa lim (Erythophloeum fordii): Cây lim nở vào cuối tháng 4 đầu tháng 5 là cây cho mật,
phấn. Đặt ong ở vùng có nhiều lim vào vụ hoa nở ong có hiện tượng ngộ độc mật. Một số ong đi làm
về run rẩy, chết trước cửa tổ.
- Một số cây khác cũng gây ngộ độc cho ong như: Thuốc lá, bồ hòn, trúc đào, cà độc dược, đậu ván
dại... Nếu ong bị ngộ độc mật thì thấy nhiều ong mất khả năng bay bị liệt cánh, liệt chân. Nếu ong bị
ngộ độc phấn: bụng trướng to, ruột đầy phấn hoa, chết đầy cửa tổ, ấu trùng bị khô và chết.
Phòng trị: Nếu ong thợ không chết nhiều có thể cho ăn xirô đường có tỷ lệ 1: 1 hoặc 2:1. Nếu
ong chết nhiều, cần nhập các đàn yếu lại với nhau, chuyển ong đến vùng khác. Nếu ngộ độc phấn cần
đặt gạt phấn trước cửa tổ, cho ăn xirô pha nước chanh (1 quả/ lít).
9. 5. Các kí sinh hại ong.
a. Ve ký sinh Varroa jacobsoni (chí lớn).
Thuộc họ Varroidae, có nguồn gốc từ ong châu Á- A.cerana, nhưng gây tác hại rất ít cho loài
ong này. Ve chỉ kí sinh trên nhộng ong đực, rất ít khi thấy kí sinh trên nhộng ong thợ. Do vòng đời
ong thợ ngắn, ấu trùng ong thợ chỉ nằm trong lỗ tổ vít nắp 10 ngày. Mặt khác ong thợ có tập tính tự
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..165
dọn vệ sinh và vệ sinh cho nhau, cắn và tiêu diệt ve (Peng 1987). Khi nhộng ong đực bị ve kí sinh
nhiều thì đàn ong A. cerana bỏ tổ bốc bay để lại các ấu trùng có kí sinh, nên nguồn bệnh còn rất ít. Khi
nhập
ong châu Âu A.mellifera vào
châu Á, loại ve này chuyển
sang kí chủ mới và gây hại rất
lớn.Trừ châu Úc còn tất cả các
châu lục nuôi ong A.mellifera
đều bị nhiễm kí sinh
Varroa.
Hình 3. 9- Ký sinh Varroa trên nhộng ong A.mellifera
b. Ve kí sinh Tropilaelaps clareae (chí nhỏ)
Loài ve này có nguồn gốc từ ong khoái Apis dorsata. Sau đó chuyển sang kí sinh trên ong
A.mellifera, gây thiệt hại lớn hơn cả Varroa. Khác với Varroa (kí sinh trên cả ấu trùng và ong trưởng
thành), ve Tropilaelaps chỉ kí sinh trên ấu trùng. ở nước ta chưa thấy ve Tropilaelaps gây hại cho các
đàn ong nội A.cerana.
c. Chẩn đoán và phòng trị
• Chẩn đoán.
Kiểm tra đàn ong, nếu bị ve kí sinh thường có hiện tượng ong gần vũ hoá bị gắp bỏ ra ngoài
thùng hoặc ong trưởng thành có kích thước nhỏ, cánh xoăn, bị cắn cụt. ẤU trùng bị hại không vít nắp
hoặc nắp vít hơi vàng. Gắp ấu trùng ra khỏi tổ có thể nhìn thấy kí sinh trong lỗ tổ.
• Phòng trị kí sinh.
- Phòng bệnh: Không mua bán ong có ve kí sinh. Khi phát hiện đàn ong có ve kí sinh cần cách li ít
nhất 15 km. Nếu kí sinh xuất hiện lần đầu trên lãnh thổ, cần huỷ đàn ong bị kí sinh.
- Có thể tiêu diệt kí sinh bằng các biện pháp:
- Biện pháp hoá học: Sử dụng folbex, phenothiazine, Amitraz để xông hơi đàn ong vào buổi tối.
Xông 3 đợt, mỗi đợt 3 tối liền cách nhau 8 - 10 ngày. Đáy thùng ong đặt giấy bôi Vazơlin. Kí sinh bị
say thuốc sẽ rơi xuống, dính vào giấy. Sau khi xông thuốc bỏ giấy báo ra đốt, vệ sinh thùng ong, cho
ong ăn đầy đủ. Sau 3 đợt xử lí, tiến hành thay chúa và mang ong đi cách ly.
- Biện pháp vật lí: Nhốt chúa lại, rũ ong trưởng thành vào lồng lưới, đặt vào thùng xử lí ở nhiệt độ 46
- 48oC trong vòng 12 - 15 phút, ve kí sinh bám trên ong sẽ rơi xuống. Đưa lồng ra, đổ ong vào thùng
mới, hôm sau thả chúa ra, cho ong ăn đầy đủ và đem cách li.
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..166
- Biện pháp bẫy ve bằng ấu trùng ong đực: Đối với kí sinh Varroa có thể dùng cầu ấu trùng ong đực
đưa vào đàn ong bị kí sinh để ve tập trung vào cầu này. Khi ấu trùng ong đực vít nắp, đưa ra ngoài huỷ
bỏ. Sau 3 lần làm như vậy có thể làm giảm đáng kể số lượng kí sinh Varoa trong đàn ong.
Theo Wokey (1984), kí sinh Tropilaelaps không thể kí sinh trên ong trưởng thành, không có
khả năng nhịn đói quá 2 ngày. Bằng cách nhốt chúa, tạo cho đàn ong không có ấu trùng trong một thời
gian có thể tiêu diệt được kí sinh Tropilaelaps.
9.6. Các côn trùng và động vật hại ong.
a. Sâu ăn sáp (sâu phá bánh tổ)
Sâu ăn sáp có 2 loại :
Sâu ăn sáp loại lớn Galleria mellonella
Sâu ăn sáp loại nhỏ Achroia grisella.
Sâu phát sinh tự nhiên hoặc do con người đưa vào. Chúng xuất hiện ở hầu hết các vùng nuôi
ong trên thế giới.
Trưởng thành của sâu ăn sáp là một loại ngài thuộc họ ngài đêm (Noctuidae) có màu xám tro.
Ở trưởng thành loại lớn con cái dài 20 mm, con đực dài 15 mm, sải cánh dài 30 - 35 mm, tương tự
như vậy ở loại nhỏ là 10 mm, 13 mm và 23 mm.
Sau khi vũ hoá vài ngày, chúng giao phối vào ban đêm rồi chui vào thùng ong qua cửa tổ
hoặc các khe hở để đẻ trứng. Nó đẻ trứng vào các khe hở hẹp trong thùng hoặc vào các bánh tổ. Mỗi
lần đẻ 50 - 100 trứng. Trứng được dính chặt với nhau và dính vào khe thùng hoặc bánh tổ nhờ lớp keo
dính để ong thợ không dọn đi được. Một con cái đẻ khoảng 500 trứng. Ấu trùng mới nở đã có thể
chạy rất nhanh, phân tán đi
khắp cả tổ. Sâu non ăn các
mẩu sáp, tạo thành các đường
hầm bằng tơ ở vách giữa các
bánh tổ, có đường hầm dài tới
15cm.
Khi đẫy sức, sâu non thường
tìm khe hở hoặc chỗ lõm của
thùng để kéo kén hoá nhộng.
Ở cả 2 loài sâu ăn sáp, nếu
nhiệt độ môi trường cao thì các
giai đoạn vòng đời ngắn.
Chúng có thể hoàn thành vòng
đời trong 4 tuần tuần hoặc kéo
Hình 4. 9- Cầu ong bị sâu ăn sáp phá hại. dài 6 tháng.
Nước ta ở vùng nhiệt đới nên vòng đời cuả sâu là 4- 5 tuần. Sâu non thường thích các bánh
tổ màu tối vì có chứa phấn hoa. Vào mùa thiếu thức ăn, bánh tổ không nuôi ấu trùng sẽ cũ nhanh và
sâu hay xâm nhập.
• Tác hại:
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..167
Khi đào các đường hầm, sâu ăn sáp phá các lỗ tổ đựng phấn, mật và cả các lỗ tổ có ấu trùng
và nhộng, làm cho ấu trùng bị chết. Trên bánh tổ thường thấy có hiện tượng nhộng đã đen mắt bị ong
thợ cắn lớp sáp vít nắp ra gọi là hiện tượng nhộng trần do bị sâu ăn sáp đục lỗ tổ nhộng làm nhộng
chết. Dùng pince gắp con nhộng lên thấy có một số hạt nhỏ màu đen dính vào cuối bụng nhộngvà các
đường hầm. Đấy là phân của sâu ăn sáp. Do sâu đào các đường hầm làm chết ấu trùng và nhộng, đàn
ong mất ổn định dễ dàng bỏ tổ bốc bay. Ở miền Bắc Việt Nam vào đầu vụ hè thu tháng 7 - 8 và vụ
đông xuân tháng 1 - 2 thường bị sâu ăn sáp phá hại. Những cầu bị sâu ăn sáp phá hại thường chỉ thu
được rất ít sáp.
• Phòng trừ.
- Giữ cho đàn ong luôn mạnh, quân phủ đầy các cầu, đủ thức ăn để chúa đẻ thường xuyên. Vào vụ
thiếu thức ăn, cần mạnh dạn loại bỏ các cầu cũ.
- Thường xuyên vệ sinh đáy thùng sạch sẽ, quét sạch sáp vụn, sáp lưỡi mèo, và nắp vít và cạo kĩ các
khe thùng để diệt trứng sâu.
- Thu hẹp cửa tổ, bịt kín các khe hở của thùng ong.
- Các cầu bánh tổ, sáp vụn loại ra cần nấu sáp ngay không để luư cữu trong trại. Tầng chân chưa
dùng, sáp mới nấu phải gói kín bằng nilon hoặc giấy polyethylen.
- Trường hợp muốn lưu trữ bánh tổ để dùng cho vụ sau có thể xông hơi bằng cách đốt bột lưu huỳnh,
ethylen oxit, paradiclobenzen 50g/ 1m3 không gian chứa cầu. Thùng đựng phải kín. Sau 15- 30 ngày
xông lại cầu một lần cho đến khi đưa cầu ra sử dụng (Burges 1978).
- Theo Cantwell và Shich (1981) có thể dùng vi khuẩn Baccillus thuringensis để khống chế Galleria,
hoặc sử dụng máy kích âm của ngài đực, dẫn dụ ngài cái đến để tiêu diệt (Spangler 1984).
b. Kiến.
• Tác hại
Cũng như nhiều nước nhiệt đới khác, nước ta có rất nhiều loài kiến. Chúng thường xuyên gây
hại cho ong. Với số lượng đông, chúng tấn công ồ ạt vào tổ, ăn cả ong sống, ong chết, nhộng, ấu trùng
và cả mật ong. Khi có ít kiến tấn công, chúng làm cho ong trở nên dữ hơn, gây khó khăn cho việc
chăm sóc ong. Khi bị kiến tấn công nhiều làm cho các đàn ong nội A.cerana và một số đàn ong ngoại
A.mellifera yếu bỏ tổ bốc bay. Đôi khi kiến còn tranh nước đường mà người nuôi ong cho ong ăn vào
lúc thiếu hoa và cắn chết nhiều ong thợ. Các loài kiến gây hại nhiều nhất là kiến vống (Oecophylla
smaradina), kiến lửa (Solemy spp), kiến đen (Monomorium indicum).
• Biện pháp phòng chống:
- Dọn sạch cỏ và cây bụi nhỏ trong trại ong. Buộc dẻ tẩm dầu máy thải vào các chân cọc. Nếu gặp
trời mưa phải bôi lại. Trường hợp trong trại ong có nhiều tổ kiến thì phải tìm tổ kiến để tiêu diệt. Có
thể phun Chlordane hoặc Diazinol dưới dạng bột hoặc bột ẩm vào lúc ong không đi làm, và phải cách
thùng ít nhất 20 – 30 cm để đảm bảo an toàn cho ong (Dejong 1978)
- Nếu nuôi ong cố định và số lượng đàn ít, có thể đặt các chân của giá kê thùng ong lên các bát nước
có nhỏ dầu hoả hoặc dầu máy sẽ ngăn kiến rất hiệu quả.
c. Ong bò vẽ Vespa.
• Tác hại
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..168
Các loài ong bò vẽ thường sống thành xã hội hoặc đơn độc là một trong những kẻ thù nguy
hiểm của ong mật. Ở Israen ong bò vẽ (Vespa orientalis) giết chết 3000 đàn ong A.mellifera trong
năm (Crane E. 1989). Ong bò vẽ tấn công và săn lùng ong thợ đi làm trên hoa và ở cửa tổ. Chúng
dùng hàm cứng cắn chết ong mật và tha về tổ. ở các đàn yếu, ong bò vẽ có thể tấn công vào trong đàn
tha cả ấu trùng, ong trưởng thành và mật ong để nuôi ấu trùng của chúng. Khi bị tấn công mạnh, ong
nội sẽ bốc bay, một số đàn ong ngoại yếu sẽ bị tiêu diệt.
Nhìn chung, ong nội có khả năng bảo vệ tốt hơn. Khi ong bò vẽ tấn công, vài chục đến vài
trăm ong thợ sẽ bám lấy và vây quanh con ong bò vẽ thành một cục tròn. Nhiệt độ trong cục ong sẽ
tăng tới 46o Cvà con ong vò bẽ sẽ bị chết nóng trong vòng 20 phút (Ono và cộng sự 1987). Các trại
ong đặt ở vùng đồi núi hoặc gần rừng thường bị phá hoại nặng hơn ở vùng đồng bằng.
Ở nước ta, ong bò vẽ thường phá hại mạnh vào mùa hè thu từ tháng 7- 10.
• Biện pháp phòng trừ:
- Biện pháp thủ công: Dùng chổi đập chết ong bò vẽ ở trước cửa tổ hoặc xung quanh thùng
ong. Tìm các thùng ong bò vẽ trên các cây ở xung quanh trại ong để đốt hoặc phun thuốc tiêu diệt.
- Dùng bẫy bả bằng nước hoa quả đặt trong thùng không, có hom ở cửa tổ để ong bò vẽ vào
nhưng không ra được. Dùng bả độc bằng thức ăn đạm rẻ tiền tẩm thuốc sâu để ong bò vẽ mang thức
ăn có chất độc về tổ. Làm cho ong chúa và ấu trùng bị chết. Các loại thuốc sâu tác động chậm, không
màu, không mùi vị nh Fluroacet amid (0,2% bột), Acepphate (0,2%) thường được dùng. Cần luư ý
các thuốc trên rất độc với người và gia súc.
Vào vụ đông xuân, trong tổ ong bò vẽ chỉ có một mình ong chúa sống sót. Tìm tổ và diệt ong
chúa lúc này rất dễ và có hiệu quả. Một ong chúa đầu xuân bằng cả đàn ong bò vẽ mùa thu.
d. Chuồn chuồn.
• Tác hại
Chuồn chuồn là côn trùng ăn thịt, chúng thường bắt ong khi đang bay. Chúng bắt cả ong thợ,
ong đực và ong chúa. Chúng gây tác hại rõ nhất khi người nuôi ong chỉ có một vài đàn ong đặt biệt
lập. Chuồn chuồn thường xuất hiện vào tháng 5 – 8 ở các tỉnh phía Bắc và vào mùa mưa ở các tỉnh
phía Nam. Chúng làm giảm số lượng ong thợ đi làm, đặc biệt là giảm tỷ lệ ong chúa giao phối thành
công. Trong điều kiện bình thường, tỷ lệ chúa giao phối thành công khoảng 70 - 80%, nhưng khi có
chuồn chuồn, tỷ lệ này giảm xuống còn 10 - 20%.
Có 2 loại gây hại nặng nhất là chuồn chuồn cống (loại to) màu đen vàng và chuồn chuồn ngô
(loại nhỏ, đen).
• Phòng trừ:
- Dùng thuốc, que tiêu diệt chuồn chuồn nhỏ. Dùng nhựa mít gắn vào que nhỏ để dính chuồn
chuồn khi chúng đậu trên cọc.
- Không nên tạo chúa và thay chúa vào mùa nhiều chuồn chuồn.
e. Ngài đầu lâu.
• Tác hại
Ngài đầu lâu Acherontia atropos thuộc họ ngài trời (Sphingidae). Cơ thể ngài dài 50mm, sải
cánh dài 120 - 140 mm. Nó thường bay đến tổ ong và tìm cách chui vào tổ từ lúc chập tối đến 9 – 10 h
đêm, qua các khe hở hoặc cửa ra vào mở rộng để hút mật, Mỗi lần hút từ 5 - 10 g mật ong.
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..169
Tác hại chủ yếu của nó là phát ra âm thanh và vẫy cánh làm đàn ong mất ổn định, dữ tợn hơn.
Ngài đầu lâu thường bị ong thợ đốt chết bên trong tổ.
• Phòng trừ:
Bịt các khe hở thùng, thu hẹp cửa tổ chỉ đủ cho ong chui ra chui vào.
f. Ruồi kí sinh Senotainia sp
Ruồi kí sinh thuộc nhóm ruồi ăn thịt họ Sarcophagidae thường xuất hiện vào tháng 7 - 8 ở các
tỉnh vùng đồi núi như Mộc Châu (Sơn La)
Ruồi kí sinh có kích thước gần bằng ruồi nhà, có màu, tro xanh lá cây và có sọc trắng trên đầu.
Những ngày trời nắng, ruồi cái thường đậu trên nắp thùng ong, bay đuổi theo ong thợ, đẻ 1
trứng lên phần giữa đầu và ngực ong. Sau khi nở, dòi chui vào cơ ngực và hút máu. Sau 2 - 4 ngày
ong bị chết, dòi chui ra xuống đất hoá nhộng rồi thành ruồi trưởng thành sau 7 - 12 ngày.
Một con ruồi có thể đẻ nhiều trứng, diệt nhiều ong đi làm, làm thế đàn ong giảm sút.
• Triệu chứng:
Gần thùng ong có một số con ong vừa bò vừa nhảy, bụng trướng to, khêu ra thấy có dòi. Cả
ong A.cerana và A.mellifera đều bị hại.
• Phòng trừ: Xử lí nắp thùng ong bằng dịch nước tinh bột 1% chứa 0,5% Chlorofooc, đốt
bỏ những con ong bị chết.
g. Một số dịch hại khác.
• Chim ăn ong.
+ Tác hại
Có một số loại chim ăn ong như chim xanh, chim én, chim chèo bẻo thường bắt ong khi ong
bay đi làm, đôi khi đến bắt ong gần cửa tổ. Các trại ong bị thiệt hại nặng khi đặt gần khu vực chim làm
tổ. Đôi khi trên đường di cư, chúng phát hiện ra trại ong và dừng lại vài ngày bắt ong làm thức ăn.
Khi chỉ có vài con thì tác hại không đáng kể vì chim còn bắt cả côn trùng có hại khác. Khi có
nhiều chim thì tác hại rất rõ. Số lượng ong đi làm giảm rất nhiều. Tỷ lệ chúa giao phối thành công rất
thấp.
+ Phòng trừ:
Ngoài ong ra chim còn ăn nhiều sâu hại khác nên người ta không coi chúng là loài có hại. Cần
thận trọng khi sử dụng các biện pháp tiêu diệt chúng bằng súng hơi hay lưới, bẫy. Khi chim quá nhiều
thì biện pháp tốt nhất là di chuyển ong đến địa điểm mới cách xa vùng đó.
• Cóc nhái:
+ Tác hại
Một số loài lưỡng thê như cóc, nhái, chẫu chuộc cũng gây thiệt hại đáng kể cho ong trong
những mùa vụ nhất định. Vào mùa mưa rào, cóc nhái thường xuất hiện trước cửa tổ ong. CHÚNG ăn
ong đậu trước cửa tổ, nhất là vào những đêm trời nóng, ong bò ra ngoài nhiều đậu dưới đáy thùng.
Một đêm 1 con cóc có thể ăn tới 100 con ong làm giảm số lượng ong đi làm rõ rệt. Chúng
thường ăn ong vào ban đêm và sáng sớm nên nhiều khi người nuôi ong không phát hiện được. Có thể
quan sát thấy vỏ xác ong chết thành cục màu đen do cóc bài tiết trước cửa tổ.
+ Biện pháp phòng trừ.
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..170
Kê thùng cao cách mặt đất 40 cm để cóc không bắt được ong. Ban đêm nhất là những đêm
mưa rào, soi đèn đánh cóc đem chôn.
• Một số kẻ thù hại ong khác.
Ở nhiều nơi, người nuôi ong còn gặp một số kẻ thù hại ong khác như: thằn lằn, thạch sùng,
nhện, mối...Thằn lằn thường nằm trên cửa tổ để bắt ong đi làm. Thạch sùng chui vào trong tổ ong bắt
ong thợ đi làm về, đôi khi bắt cả ong chúa gây thiệt hại cho đàn ong. Nhện thường chăng tơ trước
cửa tổ, ong đi làm mắc vào, sẽ bị nhện ăn thịt.
+ Phòng trừ:
Cần bịt kín các khe hở của thùng, mở cửa tổ hẹp đủ để cho ong ra vào. Dọn sạch cỏ trước
thùng ong, tiêu diệt nhện. Nếu bị mối tấn công cần đổi vị trí thùng, tiêu diệt hết mối ở trong thùng
ong.
Câu hỏi ôn tập chương 9.
1.Các loại bệnh thối ấu trùng ong và biện pháp phòng chống.
2.Bệnh Nosema, ngộ độc thuốc bảo vệ thực vật, mật phấn hoa độc và biện pháp phòng
chống.
3. Ve ký sinh, sâu ăn sáp hại ong và biện pháp phòng chống.
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..171
Phụ lục: Danh mục các cây nguồn mật chính ở Việt Nam
Số
thứ
tự
1
Tên Việt Nam
2
Tên khoa học
3
Mật
4
Phấn
5
Thời gian
nở hoa
6
Vùng
trồng
7
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
Actigon
Bạc hà dại
Bạch đàn chanh
Bạch đàn đỏ
Bạch đàn liễu
Bạch đàn trắng
Bí đỏ
Bí xanh
Bưởi
Cà
Cà phê chè
Cà phê mít
Cà phê vối
Cải bẹ
Cải củ
Cam
Cao su
Cây chân chim
Chanh
Chè
Chôm chôm
Cỏ cúc áo
Cỏ lào
Cỏ lá tre
Cốt khí
Cọ phèn
Cúc dại
Dâu da xoan
Antigonum leptopus Hook
Esoltzia cypriani Pavol
Eucalyptus citriodora Hook
Eucaluptus robusta Smith
Eucalyptus exsert muell
Eucalyptus camadulensis D
Cucurbita pero L
Benincasa cerifera Savi
Citrusgrandis Oshek
Solanum melongena L
Coffea arabica L
coffea excelsa Achev
Coffea robusta Lindens
Brassca sp
Raphnus sativus
Citrus sinensis
Hevea brasiliensis Muell
Schefflera octorphylla
Citrus limonia Osbek
Thea sinensis Seem
Nephelium lappaceum L
Bidens pilosa
Eupatorium odoratium L
Panicum montanum Roxb
Tephrosia. candida Dc
Protium serratum Enyl
Dendranthema indicum
Clausena excakata Burn
++
++
++
++
+++
++
+
+
+
+
++
++
++
++
+
+
+++
+++
+
+
+++
+
++
-
+
+++
+
-
-
+
++
++
++
++
++
++
++
+
++
++
++
++
+
++
+
+
++
++
+
+
+
++
++
+
++
++
T5- 10
T10- 12
T12
T8- 9
T5- 6
T4
T2- 5
T2- 4
T2- 3
T3- 4
T11- 3
T9- 10
T11- 2
T11- 12
T10- 11
T2- 3
T2- 5
T11- 12
T1-2
T9- 12
T3- 5
cả năm
T12- 1
T11- 12
T10- 11
T3- 4
T11- 12
T5- 8
Hà Giang
ĐồngNai
_
B-T-N
B-N
N
B- T
B-T-N
B
B
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..172
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
Dưa chuột
Dưa gang
Dưa hấu
Dứa
Dừa
Đay cách
Đỗ tương
Gạo
doi(mận)
Hướng dương dại
(cúc quì)
ích mẫu
Keo dậu
Keo lai tượng
Khoai lang
Kiều mạch
Lúa
Mơ
Mùi
Ngành ngạnh
Ngô
Nhãn
ổi
Ràng ràng
Rau dền gai
Sau sau
Sen
Sòi đất
Sú
Súng
Xoan đào
Xoài
Cucumis sativus L
Cucumis melo L
Citrullus lanatus Mats
Ananas comosus Merr
Cocus nucifera L
Hibiscus canabinus Var
Soya hispida Moeneh
Bombax ceiba
Eugeaianbos
Tithonia diversifolia Gray
Leonurus heterophyllus S
Vites pubenscens
Acasia mangium
Inpomoea batatas Lam
Fagopyrum sagittatum M
Oryzasativa L
Prunus mume Setr
Corianarum sativum L
Cratoxylon prunifolium D
Zea mays L
Euphoria longan steud
Psidium guajava L
Ormosia tonkinensis
Gagnep
Amaran tus gangeticus L
Lipuidambas odientalis.M
Nelumbo nucifera Gaetem
Sapium discolor Muell
Carapa obovata
Nymphaca nouchưali Burm
Aradiracta indica Tussf
+
+
++
++
++
++
++
+
++
+
-
++
++
++
-
+
+
++
-
+++
+
+
+
+
-
+++
++
++
+
+
++
+
++
+
+
+
++
++
+
++
++
+
+
++
++
+
++
+
++
+
++
++
++
++
++
+
+
+
++
+
T3, 10
T3- 4
T4- 5
T4, 10
cả năm
T4- 7
T6-7
T2-3
T12- 3
T4-6
T10- 11
T6- 10
T6- 9
T4- 10
T12- 1
T4- 5
T12
T12- 1
T3- 4
T4- 12
T3- 4
T4,6,10
T5
T5-6
T3- 6
T12
T5-8
T4- 5
T4- 5
T3-6
T4- 5
T12- 3
B-T-N
B-N
B-T-N
B – T - N
B – T - N
N
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..173
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
Táo ta
Tếch
Tràm
Trám trắng
Trẩu
Trinh nữ cao
Trinh nữ lùn
Vải chua
Vải nhỡ
Vải thiều
Vẹt
Vối
Vối rừng
Vừng
Manghifera indica L
Zyziphus mauritiana Lam
Zyziphus jujuba Lam
Tectora grandis L
Melaleuca leucadendron
Canarium copaliferum R
Aleurites montana Loun
Mimosa pudica L
Mimosa invisa L
Litchi.sp
Litchi.sp
Litchi chinensis Sonn
Bruguiera gymnorhiza
Eugenia opeculata
Eugenia jambolana Roxb
Sesamum indicum L
+++
+
+++
++
+
-
-
++
+++
+++
+++
+
++
++
+
++
++
+
+
++
+
+
+
+
++
++
++
+
T9- 10
T10
T1- 4,
T6-8
T4
T4, 8
T10, 11
T7, 9
T2
T2- 3
T3- 4
T6- 7
T5
T4- 5
T5- 8
Ghi chú: +: ít B: miền Bắc
++: trung bình T: miền Trung
+++: nhiều N: miền Nam
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..174
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/. Tài liệu tham khảo phần dâu- tằm
1. TS. Đỗ Thị Châm, Hà Văn Phúc. Cây dâu. Nxb Nông nghiệp 1996.
2. TS. Đỗ Thị Châm, Hà Văn Phúc.Kỹ thuật nuôi tằm. Nxb Nông nghiệp 1996.
3. TS. Nguyễn Văn Long. Giống và sản xuất trứng giống tằm dâu. Nxb Nông nghiệp
1996.
4. Liên hiệp các xí nghiệp Dâu-Tằm-Tơ, Kỹ thuật trồng dâu nuôi tằm, 1989.
5. ThS. Nguyễn Huy Trí. Bệnh ký sinh hại tằm.Nxb Giáo dục & Đào tạo 1997.
2/. Tài liệu tham khảo phần ong
1. Phùng Hữu Chính – Một số bệnh hại ấu trùng ong nội Apis cerana NXB Nông nghiệp 1990.
2. Phùng Hữu Chính – Vũ Văn Luyện – Kỹ thuật nuôi ong nội địa Apis cerana ở Việt nam.
3. Borchert.A. Bệnh và kí sinh trùng ong mật (Trịnh Văn Thịnh dịch) NXB Nông nghiệp. 1980
4. A.X Nuidin – V.P.Vinogarop. Cơ sở nuôi ong. 1982. Phí Văn Ba dịch.
5. Eva Crane. Con ong và nghề nuôi ong – cơ sở khoa học, thực tiễn và nguồn tài nguyên thế
giới. NXB Nông nghiệp 1990. (Trần Công Tá dịch).
6. G.N Kotova – N.L Burenin Sổ tay nuôi ong (Nguyễn Phẩm Hạnh dịch) NXB Nông nghiệp
1985.
7. R. Chauvin. Sinh học ong mật. 1968 (Hồ Sỹ Phấn dịch).
Trường Đại học nông nghiệp Hà Nội --- Giáo trình Dâu tằm – Ong mật ………………..175
môc lôc
Phần A
KỸ THUẬT TRỒNG DÂU-NUÔI TẰM
VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ Ý NGHĨA NGHỀ TRỒNG DÂU NUÔI TẰM
Chương I: KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC DÂU
1.1. Đặc điểm hình thái và vị trí phân loại của cây dâu.
1.2. Ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái đến sinh trưởng phát triển của cây dâu.
1.3. Sinh trưởng và phát triển của cây dâu.
1.4. Nhân giống dâu
1.5. Kü thuËt trång d©u
1.6. Quản lý và chăm sóc vườn dâu.
1.7. Thu häach vµ b¶o qu¶n l¸ d©u
1.8. Một số sâu bệnh chính hại dâu và biện pháp phòng trừ.
Chương II: ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT HỌC VÀ SINH THÁI HỌC TẰM ÂU
2.1. Đặc điểm hình thái các pha phát dục của tằm dâu
2.2. Một số đặc điểm sinh vật học của tằm dâu.
2.3. Sinh thái học tằm dâu (ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái đến quá
trình sinh trưởng phát dục của tằm dâu).
Chương III: KỸ THUẬT NUÔI TẰM.
3.1. Vệ sinh và sát trùng nhà cửa, dụng cụ nuôi tằm.
3.2. Kỹ thuật ấp trứng tằm.
3.3. Kỹ thuật băng tằm.
3.4. Kỹ thuật cho tằm ăn.
3.5. Mật độ nuôi tằm, thay phân và san tằm.
3.6. Chăm sóc tằm khi tằm ngủ.
3.7. Các phương thức nuôi tằm nhỏ.
3.8. Các phương thức nuôi tằm lớn.
3.9. Kỹ thuật cho tằm lên né và thu kén
Chương IV : BỆNH VÀ CÔN TRÙNG HẠI TẰM
4.1. Bệnh bủng và phương pháp phòng chống
4.2. Bệnh vi khuẩn và phương pháp phòng trừ
4.3. Bệnh nấm cứng trắng và phương pháp phòng trừ
4.4. Bệnh tằm gai
4.5. Ruåi ký sinh t»m vµ ph−¬ng ph¸p phßng trõ
1
2
3
7
9
11
13
15
18
20
24
26
28
31
31
32
34
35
37
38
39
40
41
44
44
49
52
55
65
Chương V: KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG TẰM DÂU
5.1. Giới thiệu vài nét về đặc điểm giống tằm và hệ thống giống 3 cấp.
5.2. Kỹ thuật sản xuất trứng giống tằm cấp II
5.3. Kỹ thuật bảo quản trứng giống.
5.4. Xử lý trứng nở nhân tạo.
Phần B
KỸ THUẬT NUÔI ONG
Chương VI: SINH HỌC ONG MẬT
6.1 Ý nghĩa kinh tế của nghề nuôi ong mật.
6.2. Sơ lược lịch sử phát triển.
6.3. Đặc điểm sinh học.
Chương VII: C©Y NGUỒN MẬT PHẤN VÀ SỰ THỤ PHẤN
C©Y TRỒNG BẰNG ONG MẬT
7.1. Vai trò của cây nguồn mật phấn đối với ong.
7.2. Những điều kiện ảnh hưởng đến sự tiết mật của cây.
7.3. Các cây nguồn mật chính ở Việt Nam.
7.4. Xác định số đàn ong nuôi trong một vùng.
7.5. Sử dụng ong mật thụ phấn cho cây trồng.
Chương VIII: KĨ THUẬT NUÔI, TẠO CHÚA, NHÂN ĐÀN VÀ
CHỌN GIỐNG ONG.
8.1 Kĩ thuật nuôi ong.
8.2. Kỹ thuật tạo chúa, nhân đàn ong
8.3 Chọn lọc và lai giống ong.
Ch−¬ng IX: S©U BÖNH Vµ KÎ THï H¹I ONG MËT.
9.1. BÖnh thèi Êu trïng ch©u ¢u ( European foulbrood )
9.2. BÖnh Êu trïng tói (Sacbrood)
9.3. BÖnh Øa ch¶y (Nosema).
9.4. Ngé ®éc hãa häc.
9.5. C¸c kÝ sinh h¹i ong.
9.6. C¸c c«n trïng vµ ®éng vËt h¹i ong.
Phụ lục: Danh mục các cây nguồn mật chính ở Việt Nam
Tµi liÖu tham kh¶o
73
73
75
80
85
91
91
92
113
113
114
115
116
118
121
121
145
154
159
159
161
162
162
164
166
171
173
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Dâu tằm -Ong mật.pdf