Giải pháp thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội tại trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên

Trên cơ sở phân tích, đánh giá những số liệu thu thập được, bài viết đã làm rõ được thực trạng NCKH của cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH, chỉ ra được những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hoạt động NCKH trong lĩnh vực KHXH chưa cao, trong số những nguyên nhân đề cập trong bài viết, thì nguyên nhân cơ bản nhất làm cho hoạt động NCKH KHXH còn thấp chính là xuất phát từ nhận thức của cán bộ, giảng viên về vai trò của NCKH. Bài viết đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy và phát triển hoạt động NCKH của cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực KHXH ở trường ĐHKH trong thời gian tới. Trong số các giải pháp đưa ra, trước mắt Nhà trường, các khoa, và bộ môn trực thuộc cần tập trung nghiên cứu vào các giải pháp bốn, giải pháp năm, giải pháp sáu và giải pháp bảy cùng với đó vẫn tiếp tục làm tốt các giải pháp còn lại.

pdf7 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 317 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội tại trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trần Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 123 - 128 130 GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC – ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN Trần Thị Hồng* Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Nghiên cứu khoa học (NCKH) là hoạt động có ý nghĩa thiết thực, không chỉ góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu của cán bộ, giảng viên, mà còn tạo ra những bước đi ban đầu để sinh viên tiếp cận với những vấn đề khoa học, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, từ đó nâng cao được chất lượng đào tạo trong các trường đại học và cao đẳng. Bài viết đã tập trung làm rõ thực trạng hoạt động NCKH của cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực khoa học xã hội (KHXH) tại trường Đại học Khoa học (ĐHKH), chỉ ra được những nguyên nhân dẫn đến số lượng các công trình nghiên cứu KHXH còn thấp. Đồng thời cũng đã đề xuất được một số giải pháp góp phần thúc đẩy hoạt động NCKH của cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực KHXH ở trường ĐHKH. Từ khóa: Khoa học; nghiên cứu; nghiên cứu khoa học; khoa học xã hội; hiệu quả. ĐẶT VẤN ĐỀ* Khoa học là hệ thống tri thức về mọi loại quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, còn NCKH: “là một hoạt động xã hội, hướng vào việc tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới”[2]. Trong giáo dục đại học, NCKH là một khâu quan trọng để nâng cao năng lực nghiên cứu và giảng dạy cho cán bộ, giảng viên. Bởi tham gia hoạt động NCKH sẽ giúp cán bộ, giảng viên mở rộng, tìm hiểu sâu kiến thức chuyên môn, đồng thời thông qua hoạt động NCKH làm cho trình độ nhận thức của cán bộ, giảng viên ngày càng được nâng cao, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người học, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. NCKH còn là một lĩnh vực rất tốt để cán bộ, giảng viên tự khẳng định mình vì năng lực của giảng viên được thể hiện chủ yếu thông qua giảng dạy và NCKH. Các kết quả của NCKH còn được xem là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng chuyên môn của cán bộ, giảng viên trong các trường đại học và cao đẳng. Trường ĐHKH tuy mới thành lập nhưng quy mô đào tạo ở bậc đại học cũng như sau đại * học đã đạt được những kết quả đáng khích lệ (với 4498 sinh viên chính quy và trên 300 học viên sau đại học). Bên cạnh những kết quả đã đạt được ở hoạt động đào tạo thì kết quả của hoạt động NCKH, đặc biệt là nghiên cứu KHXH vẫn còn nhỏ. Trong giai đoạn 2007 đến năm 2012 số lượng đề tài các cấp; số bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực KHXH luôn chiếm một con số rất khiêm tốn so với lĩnh vực khoa học tự nhiên (KHTN) ở trường ĐHKH có thể thấy ở mục 3.2 trong bài viết. Nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân dẫn đến hoạt động nghiên cứu KHXH chưa cao, từ đó đề xuất những giải pháp để thúc đẩy hoạt động nghiên cứu KHXH nói riêng và NCKH nói chung ở trường ĐHKH là việc làm cần thiết hiện nay. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Nội dung nghiên cứu Thứ nhất: Nghiên cứu thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH. Thứ hai: Đề xuất các giải pháp góp phần thúc đẩy hoạt động NCKH trong lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH. 2. Phương pháp nghiên cứu Để đánh giá được thực trạng hoạt động NCKH của cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH chúng tôi đã sử Trần Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 129 - 135 131 dụng phương pháp nghiên cứu lý luận để phân tích và tổng hợp lý thuyết, phân loại tài liệu, văn bản Và phương pháp nghiên cứu thực tiễn để khảo sát, đánh giá thực trạng và xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động NCKH của cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực KHXH ở trường ĐHKH. 3. Thời gian tiến hành khảo sát số liệu Số liệu sử dụng trong bài viết được khảo sát từ hoạt động nghiên cứu KHXH của trường ĐHKH từ năm 2007 đến năm 2012. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NCKH TRONG LĨNH VỰC KHXH TẠI TRƯỜNG ĐHKH 1. Tình hình về nguồn lực đầu tư cho nghiên cứu KHXH hội ở trường ĐHKH Nguồn lực đầu tư cho công tác NCKH được hiểu là những yếu tố đầu vào đảm bảo cho hoạt động NCKH có thể thực hiện được như: nhân lực, tài lực (tài chính); tin lực (thông tin); vật lực (cơ cở vật chất),... a. Nguồn nhân lực Theo số liệu thống kê của Phòng Hành chính – Tổ chức, trường ĐHKH đến hết tháng 12/2012 tổng số nhân lực thuộc lĩnh vực KHXH ở trường ĐHKH gồm có 89 cán bộ, giảng viên. Trong đó: GS, PGS: 0; Tiến sĩ: 06; Đang học nghiên cứu sinh: 13; Thạc sỹ: 18; Đang học cao học: 34 và Cử nhân: 18. Được thể hiện cụ thể ở bảng 1. Qua bảng số liệu, có thể nhận thấy số lượng nhân lực phục vụ cho công tác nghiên cứu KHXH còn khá khiêm tốn với 89/287/ tổng số nhân lực của trường ĐHKH. Lí do, vì lĩnh vực KHXH mới chính thức đưa đào tạo tại trường ĐHKH cách đây 5 năm và đây cũng là khoảng thời gian trường ĐHKH thực hiện việc tuyển dụng đội ngũ nhân lực này. Về độ tuổi: Nguồn nhân lực thuộc lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH chủ yếu có độ tuổi còn rất trẻ. Cụ thể: Độ tuổi từ 40 – 45 tuổi: 03/89 (chiếm 3.5%); Độ tuổi từ 35 – 40 tuổi: 04/89 (chiếm 4.7%); Độ tuổi từ 30 – 35 tuổi: 18/89 (chiếm 21.2%); Độ tuổi từ 25 – 30 tuổi: 41/89 (chiếm 43.5%); Độ tuổi dưới 25 tuổi: 23/89 (chiếm 27.1%). Có thể thấy, với nguồn nhân lực trẻ, năng động, nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu những tiến bộ của khoa học kĩ thuật, thích ứng nhanh nhạy với sự đổi mới và đây còn là một nguồn nhân lực kế cận tuyệt vời trong tương lai, tuy nhiên, với tuổi đời còn rất trẻ, đồng nghĩa với việc kinh nghiệm về NCKH còn ít. Bảng 1. Trình độ chuyên môn của nhân lực thuộc lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH STT Trình độ, học vị và học hàm Số lượng 1 GS, PGS 0 2 Tiến sĩ 06 3 Đang học NCS 13 4 Thạc sỹ 18 5 Đang học thạc sỹ 34 6 Cử nhân 18 Tổng 89 (Nguồn: Phòng Hành chính – Tổ chức – ĐHKH) Về giới tính: Nhân lực KHXH của trường ĐHKH chủ yếu là nữ, đây cũng làm một đặc trưng cơ bản của lĩnh vực KHXH. Cụ thể: Nữ giới: 72/89 (chiếm 80.9%; nam giới: 17/89 (chiếm 19.1%). Với tỉ lệ nhân lực nữ cao lại đang trong độ tuổi sinh nở nên có ảnh hưởng ít nhiều đến việc thực hiện hoạt động NCKH của nhóm nhân lực này. b. Nguồn lực tài chính Nguồn: Phòng Đào tạo NCKH & QHQT, ĐHKH Biểu đồ 1. Tỷ lệ kinh phí phân bổ cho hoạt động NCKH ở lĩnh vực khoa học xã hội và khoa học tự nhiên tại trường ĐHKH (2007 – 2012) 22.8% 79.3% Trần Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 129 - 135 132 Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy số kinh phí phân bổ cho hoạt động nghiên cứu KHXH (bao gồm đề tài NCKH các cấp) ở trường ĐHKH thường chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so với số kinh phí đầu tư cho hoạt động nghiên cứu KHTN, có thể thấy qua biểu đồ 1. Có sự chênh lệch về sự phân bổ kinh phí như trên là do các đề tài nghiên cứu của KHXH chủ yếu là các đề tài cấp cơ sở, thường có kinh phí khoảng 5 -> 10 triệu đồng/đề tài. c. Các nguồn lực khác Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy cơ sở vật chất của trường ĐHKH nhìn chung cũng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu nghiên cứu của cán bộ, giảng viên và sinh viên. Thư viện của Trường hiện có 14 000 cuốn với 1000 đầu sách, 450 đầu sách giáo trình có liên quan đến các ngành đào tạo của Trường. Cùng với 710 luận văn thạc sĩ và NCKH, 27 đầu sách của cán bộ, giảng viên thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và nhiều tài liệu tham khảo khác. Ngoài ra, trường ĐHKH có vị trí đặt gần với Trung tâm học liệu của Đại học Thái Nguyên - một trong những trung tâm thư viện lớn nhất hiện nay ở khu vực trung du miền núi phía Bắc với trên 50.000 sách và khoảng 20 cơ sở dữ liệu (với trên 100.000 bài báo, tạp chí, báo cáo, luận văn, luận án) và các tài liệu điện tử khác. Các loại ấn phẩm định kỳ như báo, tạp chí; Bộ sưu tập tài liệu tham khảo cho 85 ngành học của Đại học Thái Nguyên (bao gồm cả giáo trình các môn học). Như vậy, có thể thấy các nguồn lực đầu tư cho hoạt động NCKH của ĐHKH đã đáp ứng được phần nào đòi hỏi của nhu cầu nghiên cứu. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi vẫn còn tồn tại một số khó khăn như đã trình bày ở trên có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nghiên cứu KHXH tại trường ĐHKH. 2. Một số kết quả hoạt động NCKH của cán bộ, giảng viên thuộc lĩnh vực KHXH giai đoạn 2007 – 2012 a. Số lượng các đề tài được thực hiện thuộc lĩnh vực KHXH giai đoạn (2007 – 2012) Trường ĐHKH trong những năm qua đã đạt được một số thành tựu nhất định trong công tác NCKH thể hiện ở việc Nhà trường đã triển khai được nhiều đề tài NCKH các cấp ở cả lĩnh vực KHTN và KHXH, trong đó, số lượng đề tài NCKH các cấp thuộc lĩnh vực KHXH có chiều hướng tăng lên, nhưng không đồng đều qua các năm. Chẳng hạn: Đối với đề tài cấp cơ sở từ 01 đề tài năm 2007 lên đến 08 đề tài năm 2011 và năm 2012 giảm xuống còn 05 đề tài. Số đề tài cấp Bộ: năm 2007 có 01 đề tài đến năm 2009 có 03 đề tài và năm 2011 chỉ còn 01 đề tài. Đề tài cấp Đại học, năm 2011 có 02 đề tài đến năm 2012 tăng lên 04 đề tài. Số đề tài cấp Nhà nước, với con số 05 đề tài cấp Nhà nước được thực hiện trong giai đoạn 2007 đến 2012 không có một đề tài nào thuộc lĩnh vực KHXH. Điều đó, được thể hiện ở bảng 2. Nhìn vào số liệu thống kê, có thể thấy đề tài NCKH các cấp của KHXH luôn chiếm một con số rất khiêm tốn so với đề tài NCKH các cấp của KHTN. b. Hướng nghiên cứu chủ yếu của các đề tài NCKH xã hội ở trường ĐHKH Các đề tài NCKH cấp trường thuộc KHXH chủ yếu tập trung vào hai nội dung chính, được thể hiện ở bảng 3. Sở dĩ, các đề tài NCKH cấp cơ sở có nội dung nghiên cứu như trên là vì từ năm học 2008 – 2009, trường ĐHKH chính thức chuyển sang hình thức đào tạo theo tín chỉ. Để đáp ứng nhu cầu của hình thức đào tạo mới này, Nhà trường đã không ngừng khuyến khích các cán bộ, giảng viên tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng đào tạo thông qua việc đăng ký thực hiện các đề tài NCKH cấp trường với nội dung nghiên cứu như chúng tôi đã trình bày ở bảng biểu. Còn các đề tài NCKH cấp Bộ, cấp Đại học chủ yếu hướng đến giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến lĩnh vực KHXH được thể hiện ở bảng 4. Như vậy, có thể thấy tình hình triển khai các đề tài NCKH thuộc lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH chủ yếu theo hai hướng cơ bản: Một là hướng nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo như nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy, nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào giảng dạy, nghiên cứu cải tiến chương trình đào tạo,; Hai là hướng nghiên cứu về vấn đề lý luận thuộc lĩnh vực KHXH. Trần Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 129 - 135 133 Bảng 2. Số lượng các đề tài được thực hiện thuộc lĩnh vực KHXH giai đoạn (2007 – 2011) Năm Tổngsố Đề tài thuộc lĩnh vực KHTN Đề tài thuộc lĩnh vực KHXH 2007 13 11 đề tài 07 đề tài cấp cơ sở 04 đề tài cấp Bộ 02 đề tài 01 đề tài cấp cơ sở 01 đề tài cấp Bộ 2008 20 19 đề tài 12 đề tài cấp cơ sở 07 đề tài cấp Bộ 01 đề tài 0 đề tài cấp cơ sở 01 đề tài cấp Bộ 2009 37 31 đề tài 23 đề tài cấp cơ sở 07 đề tài cấp Bộ 01 đề tài cấp Nhà nước 06 đề tài 03 đề tài cấp cơ sở 03 đề tài cấp Bộ 2010 21 17 đề tài, 09 đề tài cấp cơ sở 8 đề tài câp Bộ 4 đề tài 03 đề tài cấp cơ sở 01 đề tài cấp Bộ 2011 64 54 đề tài 33 đề tài cấp cơ sở 16 đề tài cấp Đại học 02 đề tài cấp Bộ 03 đề tài cấp Nhà nước 10 đề tài, 08 đề tài cấp cơ sở 02 đề tài cấp Đại học 2012 30 21 đề tài 08 đề tài cấp cơ sở 12 đề tài cấp đại học 01 đề tài cấp Nhà nước 09 đề tài 05 đề tài cấp cơ sở 04 đề tài cấp Đại học (Nguồn: Phòng Đào tạo NCKH & QHQT, ĐHKH) Bảng 3. Nội dung nghiên cứu chính của các đề tài cấp trường thuộc khoa KHXH tại trường ĐHKH Năm Xây dựng giáo án điện tử môn học Xây dựng câu hỏi thi trắc nghiệm trên máy tính KHXH KHTN KHXH KHTN 2007 01 05 0 02 2008 0 01 0 11 2009 01 14 02 09 2010 03 0 0 09 2011 0 10 08 23 2012 03 02 0 04 (Nguồn: Phòng Đào tạo NCKH & QHQT, Đại học Khoa học) Bảng 4. Nội dung nghiên cứu chính của các đề tài cấp Bộ và cấp Đại học thuộc KHXH tại trường ĐHKH Năm Cấp đề tài Hướng nghiên cứu 2007 Bộ “Nghiên cứu diễn tiến các loại thể thơ dân tộc thời trung đại” 2008 Bộ “Dấu hiện ngôn hành của các hành động cầu khiến trong tiếng Việt” 2009 Bộ -“Mô hình tiểu thuyết Lê Văn Trương” -“Thơ Chế Lan Viên trước và trong thời kỳ đổi mới của văn học Việt Nam” - “Thực trạng sở hữu ruộng đất tỉnh Thái Nguyên (giai đoạn 1988 – 2008) và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ruộng đất cho nông dân trong giai đoạn hiện nay” Trần Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 129 - 135 134 Năm Cấp đề tài Hướng nghiên cứu 2010 Bộ - “ Chiến tranh du kích trên căn cứ địa Việt Bắc giai đoạn 1939 – 1945” 2011 Đại học - “Khảo sát một số địa danh liên quan đến biểu tượng người khổng lồ của người Tày ở Cao Bằng -“Nghĩ lễ tang ma của người Tày ở huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Cạn” 2012 Đại học -“Kinh tế - xã hội- văn hóa huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên nửa đầu thế kỷ XIX”. -“Nghiên cứu văn hóa Nôm từ thế kỉ X đến thế kỉ XV từ góc độ thể loại”. - “Kết tử nghịch hướng trong lập luận tiếng Việt” - “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI dưới góc độ nữ quyền luận”. (Nguồn: Phòng Đào tạo NCKH & QHQT, Đại học Khoa học) c. Số bài báo đã đăng ở tạp chí trong và ngoài nước Số lượng bài báo khoa học đăng trên các tạp chí trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực KHXH giai đoạn (2007 – 2012), nhìn chung đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, biểu hiện ở chỗ số lượng bài báo khoa học tăng lên hàng năm, nếu năm 2007 có chỉ có 02 bài báo thì đến năm 2012 đã có tới 33 bài báo ðýợc ðãng trên các tạp chí trong nýớc. Có thể thấy ðiều này qua bảng biểu dýới ðây. Bảng 5. Số lượng bài báo khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội đăng trên tạp chí trong và ngoài nước giai đoạn (2007 – 2012) Năm Bài báo đăng tạp chí trong nước Bài báo đăng tạp chí nước ngoài 2007 02 0 2008 01 0 2009 15 0 2010 11 0 2011 20 0 2012 33 0 Tổng 83 0 (Nguồn: Phòng Đào tạo NCKH & QHQT ĐHKH) Tuy nhiên, qua bảng số liệu cũng có thể thấy, từ năm 2007 đến 2012 không có một bài báo thuộc lĩnh vực KHXH nào được đăng trên các tạp chí nước ngoài. Điều này cho thấy chất lượng công trình nghiên cứu của cán bộ, giảng viên còn thấp. Từ thực trạng kết quả NCKH của cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực KHXH giai đoạn (2007 – 2012) tại trường ĐHKH. Có thể rút ra một số nhận xét sau: + Số lượng công trình NCKH cũng như bài báo khoa học được đăng thuộc lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH vẫn còn rất hạn chế so với tiềm lực thực có của đội ngũ cá,n bộ, giảng viên. + Chất lượng của các công trình NCKH chưa cao (không có một bài báo khoa học nào được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế). + Số cán bộ, giảng viên tham gia NCKH cũng chỉ tập trung vào một số người tích cực. Vậy, đâu là nguyên nhân dẫn đến thực trạng nói trên, theo chúng tôi là do một số nguyên nhân cơ bản sau đây: - Về phía trường ĐHKH + ĐHKH là một trường mới được thành lập, cơ sở vật chất, nguồn lực tài chính còn hạn chế, nhất là kinh phí dành cho NCKH, trong khi đó lĩnh vực KHXH cũng mới chỉ đưa vào đào tạo chính thức tại trường từ năm 2007 đến nay. + Chế độ khen thưởng của nhà trường chưa khuyến khích được cán bộ, giảng viên, chưa tạo được phong trào tham gia NCKH trong cán bộ, giảng viên nói chung và cán bộ, giảng viên thuộc lĩnh vực KHXH nói riêng. + Thù lao trả cho NCKH chưa xứng với công sức mà cán bộ, giảng viên bỏ ra. Như đã biết kinh phí cấp cho các đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ hoặc cấp Đại học còn tạm ổn, nhưng với Trần Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 129 - 135 135 các đề tài cấp trường hoặc bài báo thì số kinh phí thường rất thấp (từ 3->5 triệu/đề tài và 100.000đ -> 200.000đ/bài báo, tùy theo tạp chí nhận đăng). + Các hình thức phê bình, kỷ luật đối với những cá nhân, tập thể chưa hoàn thành nhiệm vụ NCKH chưa nghiêm khắc. - Về phía cán bộ, giảng viên + Cán bộ, giảng viên vẫn chưa hiểu đúng tính chất nhiệm vụ NCKH của người giảng viên trong trường đại học, nên đã có những ý kiến, những tư tưởng làm cản trở nhiệt tình NCKH. + Cán bộ, giảng viên chưa biết phát hiện vấn đề nghiên cứu, nếu có vấn đề nghiên cứu nhưng trong quá trình triển khai lại gặp rất nhiều khó khăn do không có kinh nghiệm nghiên cứu. + Phần lớn cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực KHXH là đang tham gia học tập để nâng cao trình độ nên thời gian dành để tham gia NCKH là tương đối ít. Đối với những giảng viên trẻ do mới ra trường nên thường không có kinh nghiệm nghiên cứu. Bên cạnh đó, một số cán bộ, giảng viên tham gia giảng dậy quá nhiều, nên thời gian dành để nghiên cứu khoa học còn hạn chế. + Một số cán bộ, giảng viên có trình độ cao chưa tập hợp, qui tụ các giảng viên trẻ khi triển khai các đề tài, ngược lại, giảng viên trẻ còn e dè, ngại ngùng học hỏi hay tranh thủ sự giúp đỡ của những cán bộ, giảng viên lâu năm, có kinh nghiêm. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG NCKH TRONG LĨNH KHXH Ở TRƯỜNG ĐHKH TRONG THỜI GIAN TỚI Từ những nguyên nhân trên, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động NCKH của cán bộ, giảng viên ở lĩnh vực KHXH ở trường ĐHKH trong thời gian tới: Thứ nhất: Lãnh đạo nhà trường cần chú trọng hơn nữa hoạt động NCKH nói chung và NCKH khoa học xã hội nói riêng, xác định đây là một nhiệm vụ rất quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo, từ đó thực hiện những biện pháp vừa bắt buộc, vừa khuyến khích cán bộ, giảng viên tham gia NCKH. Coi các kết quả của NCKH là một tiêu chí để đánh giá chất lượng chuyên môn của cán bộ, giảng viên, cùng với đó là nhà trường cần có những hình thức phê bình, kỷ luật thật nghiêm khắc với những cá nhân, tập thể không hoàn thành nhiệm vụ NCKH trong năm học. Thứ hai: Từ lãnh đạo nhà trường cho đến lãnh đạo các khoa, các bộ môn trực thuộc cần phải quán triệt sâu sắc hơn nữa đến cán bộ, giảng viên các quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về hoạt động NCKH, cũng như các qui định, qui chế khác liên quan đến hoạt động này để đội ngũ cán bộ, giảng viên có định hướng hoạt động, có ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ NCKH bên cạnh nhiệm vụ giảng dạy. Thứ ba: Nhà trường cần dành một phần kinh phí NCKH hàng năm hợp lý để hỗ trợ cho các khoa, bộ môn tổ chức hội nghị, hội thảo, seminar, sinh hoạt chuyên môn tạo môi trường cho cán bộ, giảng viên chia sẻ những kết quả cũng như kinh nghiệm nghiên cứu. Thứ tư: Ban hành quy định yêu cầu bắt buộc về số bài báo, số đề tài NCKH hàng năm đối với cán bộ giảng dạy theo học hàm, học vị. Yêu cầu tất cả các cán bộ, giảng viên có nhiệm vụ bắt buộc tham gia hoạt động khoa học dưới nhiều hình thức. Thứ năm: Xây dựng một cơ chế để quy đổi giờ NCKH thành giờ giảng với một tỷ lệ nhất định, giúp giảng viên có thể yên tâm hơn khi tham gia nghiên cứu NCKH mà không phải lo thiếu giờ. Trên thực tế cho thấy, có nhiều cán bộ, giảng viên khi quy đổi ra số giờ NCKH thừa rất nhiều so với giờ quy định, nhưng lại không được tính vào giờ giảng dạy nên vẫn bị thiếu giờ. Chính điều này đã không tạo được động lực cho cán bộ, giảng viên tham gia NCKH. Mặt khác còn dẫn đến thực trạng có cán bộ giảng viên chỉ thực hiện cốt cho đủ giờ mà thôi, không quan tâm lắm đến chất lượng công trình mà mình công bố. Thứ sáu: Nhà trường vẫn tiếp tục duy trì chế độ khen thưởng đối với cá nhân, tập thể có nhiều thành tích NCKH nhưng việc khen Trần Thị Hồng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 129 - 135 136 thưởng cần kịp thời hơn nữa. Bên cạnh đó, các khoa, bộ môn nên thành lập quỹ các giải thưởng NCKH cấp khoa, bộ môn với quy mô khác nhau để thu hút, cũng như tạo nên một môi trường khoa học năng động. Thứ bảy: Khoa, bộ môn nên cử giảng viên tham gia các hội thảo khoa học, đi học tập, giao lưu với các đơn vị bạn, các trường, các cơ sở đào tạo khác. Cùng với đó các tổ chức Công đoàn và Chi đoàn giáo viên ở mỗi khoa, bộ môn cần phải phát huy vai trò của mình trong NCKH như tổ chức các câu lạc bộ, tập san khoa học nội bộ, tổ chức các cuộc thi sáng tạo, NCKH, KẾT LUẬN Trên cơ sở phân tích, đánh giá những số liệu thu thập được, bài viết đã làm rõ được thực trạng NCKH của cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH, chỉ ra được những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hoạt động NCKH trong lĩnh vực KHXH chưa cao, trong số những nguyên nhân đề cập trong bài viết, thì nguyên nhân cơ bản nhất làm cho hoạt động NCKH KHXH còn thấp chính là xuất phát từ nhận thức của cán bộ, giảng viên về vai trò của NCKH. Bài viết đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy và phát triển hoạt động NCKH của cán bộ, giảng viên trong lĩnh vực KHXH ở trường ĐHKH trong thời gian tới. Trong số các giải pháp đưa ra, trước mắt Nhà trường, các khoa, và bộ môn trực thuộc cần tập trung nghiên cứu vào các giải pháp bốn, giải pháp năm, giải pháp sáu và giải pháp bảy cùng với đó vẫn tiếp tục làm tốt các giải pháp còn lại. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Quy định chế độ làm việc đối với giảng viên (Ban hành kèm theo Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT Ngày 28 tháng 11 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo); [2]. Vũ Cao Đàm: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, (2003); [3]. Tường Đại học Khoa học: Quyết định số 84/QĐ-ĐHTN ngày 27 tháng 01 năm 2011 Ban hành Quy định về công tác quản lý Khoa học và Công nghệ của Đại học Thái Nguyên, 2001; [4]. Trường Đại học Khoa học: Báo cáo thống kê công bố kết quả nghiên cứu giai đoạn 2007 – 2011; [5]. Trường Đại học Khoa học: Tình hình thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học xã hội và phát triển công nghệ gắn với đào tạo sau đại học giai đoạn 2007 – 2011; [6]. Trường Đại học Khoa học: Báo cáo thống kê công bố cấp phát kinh phí thực nhiệm vụ nghiên cứu khoa học giai đoạn 2007 – 2011. SUMMARY SOLUTIONS TO PROMOTE SOCIAL SCIENCE RESEARCH AT THE UNIVERSITY OF SCIENCE Tran Thi Hong* College of Sciences – TNU Scientific research is a practical activity, not only contributes to improve the research capabilities of faculty and staffs but also creates the first steps to help students reach science issues and apply theory into practice, which improves the education quality in universities and colleges. The article focuses on clarifying the status of scientific research activities by staffs, faculty in the field of social sciences at the University of Science, indicating the cause of the small number of social studies. It also proposes some solutions to promote scientific research activities among faculty and staffs in the field of social Sciences at the University of Science. Key words: Science; research, science research, social science, performance. Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Công Hoàng – Trường ĐH Khoa học - ĐHTN *

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiai_phap_thuc_day_hoat_dong_nghien_cuu_khoa_hoc_xa_hoi_tai.pdf