FED - Vì sao quan trọng?

Nhất cử nhất động của FED, ngân hàng trung ương Hoa Kỳ, còn được biết đến với tên gọi - Hệ thống dự trữ liên bang (Federal Reserve System), đều tạo ra ảnh hưởng không chỉ với hệ thống tài chính mà toàn bộ nền kinh tế toàn cầu. Trong những ngày nóng bỏng của cuộc chạy đua vào vị trí ông chủ Nhà Trắng 2008, với những tin tức tồi tệ nhất, hậu quả của cuộc khủng hoảng tín dụng bất động sản dưới chuẩn xuất hiện từ cuối 2007 tại Hoa Kỳ, liên tiếp được phát đi từ các trung tâm tài chính quốc tế giới, giới quan sát dồn tất cả tập trung vào những động thái và tín hiệu của FED. Vai trò trọng yếu của FED trong cỗ máy kinh tế thế giới trước tiên được lý giải bằng chức năng ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ, nền kinh tế có giá trị tài sản lớn nhất hành tinh và mức tiêu dùng cao nhất. FED trực tiếp cung cấp nguồn tín dụng cho các tập đoàn đa quốc gia ở trong những ngành công nghiệp chủ chốt hoạt động. Và, gần như mọi ngân hàng trung ương của các quốc gia đều có quan hệ giao dịch với FED.

pdf23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2266 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu FED - Vì sao quan trọng?, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
FED - Vì sao quan trọng? Nhất cử nhất động của FED, ngân hàng trung ương Hoa Kỳ, còn được biết đến với tên gọi - Hệ thống dự trữ liên bang (Federal Reserve System), đều tạo ra ảnh hưởng không chỉ với hệ thống tài chính mà toàn bộ nền kinh tế toàn cầu. Trong những ngày nóng bỏng của cuộc chạy đua vào vị trí ông chủ Nhà Trắng 2008, với những tin tức tồi tệ nhất, hậu quả của cuộc khủng hoảng tín dụng bất động sản dưới chuẩn xuất hiện từ cuối 2007 tại Hoa Kỳ, liên tiếp được phát đi từ các trung tâm tài chính quốc tế giới, giới quan sát dồn tất cả tập trung vào những động thái và tín hiệu của FED. Vai trò trọng yếu của FED trong cỗ máy kinh tế thế giới trước tiên được lý giải bằng chức năng ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ, nền kinh tế có giá trị tài sản lớn nhất hành tinh và mức tiêu dùng cao nhất. FED trực tiếp cung cấp nguồn tín dụng cho các tập đoàn đa quốc gia ở trong những ngành công nghiệp chủ chốt hoạt động. Và, gần như mọi ngân hàng trung ương của các quốc gia đều có quan hệ giao dịch với FED. Ngân hàng trung ương Hoa Kỳ thành lập năm 1913. Đây là năm có rất nhiều sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử nước Mỹ. Kế hoạch thành lập FED là sự tái dựng hoàn hảo kịch bản Ngân hàng Anh dưới bàn tay sắp đặt bậc thầy của đại gia tộc kinh doanh tiền tệ Rothschild. Điều này được khẳng định trong tất cả các ấn phẩm đã công bố (chính thức và chưa chính thức) về sự ra đời, mở rộng và ngự trị của triều đại Rothschild. Trong phần nội dung nội dung mô tả quá trình ra đời và cách thức vận hành của FED, chúng tôi tham khảo rất nhiều tư liệu, quan trọng nhất gồm: The Synagogue of Satan của Andrew Carrington Hitchcock (2007), Rothschild Money Trust của George Armstrong (1940), The Rothschild Dynasty của TS. John Coleman (2006), Web of Debt của nữ luật gia Ellen Hodgson Brown (2008), The creature from Jekyll Island của G. Edward Griffin (1994), How the World Really Works của Alan B. Jones (1996), The Money Manipulators của June Grem (1971), Tradegy and Hope của GS. Carroll Quigley (1966), Non dare to call it conspiracy của Gary Allen và Larra Abraham (1972), The Economics of Money, Banking, and Financial markets của Frederic S. Mishkin (2004), và Vatican Assassins: wounded in the house of my friends của Eric Jon Phelps (2001). Năm 1913 trong lịch sử kinh tế-chính trị Hoa Kỳ có những biến cố trọng đại được Hitchcock ghi lại từ trang 90 đến 93. Ngày 4/3, Woodrow Wilson chính thức trở thành tổng thống thứ 28 của nước Mỹ. Không lâu sau lễ nhậm chức, một vị khách Do Thái có tên Samuel Untermyer, từ Công ty luật Guggenhiem, Untermyer và Marshall đến Nhà Trắng gặp Tổng thống. Tổng thống Wilson nhận được lời đề xuất thanh toán số tiền 40.000 đôla để đổi lại những bằng chứng và sự im lặng có liên quan tới quan hệ với vợ của một giáo sư đồng nghiệp trong thời gian ông giảng dạy tại Đại học Princeton. Tổng thống không có số tiền này. Do đó, Công ty Untermyer đề xuất sẽ thay mặt Tổng thống cho người phụ nữ này và điều kiện Tổng thống hứa sẽ chỉ định ứng cử viên do Untermyer đề xuất vào vị trí còn bỏ trống tại Tòa án Tối Cao Hoa Kỳ. Lời đề nghị được chấp thuận. Ngày 31/3, J.P. Morgan, ông chủ của đế chế ngân hàng Morgan, qua đời. J.P. Morgan được coi là người giầu nhất nước Mỹ, với giá trị tài sản trên 22 tỷ đôla có được từ đầu thế kỷ 20. John Moody, người sáng lập nên hệ thống đánh giá tín nhiệm Moody, gọi J.P. Morgan là ``quyền lực tài chính hùng mạnh nhất trong lịch sử thế giới.'' Tuy nhiên, bản di chúc của J.P. Morgan viết lại rằng ông chỉ sở hữu 19% các công ty nhà Morgan. 81% còn lại thuộc về ai? Theo Hitchcock, đó là phần sở hữu của gia tộc Rothschild. Sự kiện nổi bật nhất trong năm là việc Quốc hội Hoa kỳ thông qua đạo luật thành lập ngân hàng trung ương với tên gọi Hệ thống Dự trữ Liên bang (Federal Reserve System) - viết tắt là FED. FED đã ra đời như thế nào là một bí ẩn không nhiều người biết đến. Nhưng các tranh cãi xung quanh tính cần thiết của Hệ thống Dự trữ Liên bang và hiệu quả của nó trong đảm bảo ổn định và phát triển nền tài chính - tiền tệ Hoa Kỳ cực kỳ sôi nổi và chưa hề dừng lại kể từ ngày FED ra đời. Nhiều học giả cho rằng, hệ thống này chẳng hề có tính chất liên bang và cũng không dự trữ gì. Khi FED được chấp thuận thành lập vào ngày 23/12/1913, nghị sĩ Charles Lindbergh phát biểu: ``Đạo luật đã tạo nên một quỹ tín thác khổng lồ nhất quả đất. Khi Tổng thống hạ bút phê chuẩn nó [điều luật cho phép thành lập FED] một chính phủ vô hình của quyền lực tiền tệ đã được công nhận hợp pháp... Tội ác lớn nhất của mọi thời đại đã được khai sinh bởi đạo luật tiền tệ và ngân hàng này.''-- Hitchcock:2007, trang 92. Trong suốt lịch sử hoạt động, giao dịch của FED chưa bao giờ được công bố. Theo Mishkin (2004) số tiền hàng năm mà FED đóng góp cho ngân khố nước Mỹ vào khoảng 28 tỷ đô-la, nhiều hơn bất kỳ cơ quan nào của chính phủ. Quyền lực này góp phần lý giải vì sao cơ quan kiểm toán của chính phủ không bao giờ có thể thực hiện kiểm toán các giao dịch tiền tệ và ngoại hối của FED. Theo Hitchcock lợi nhuận hàng năm của FED gấp khoảng năm lần con số Mishkin nhắc tới, 150 tỷ đô-la. Và như vậy, số tiền rất lớn đã được chuyển cho các cổ đông tư nhân của FED. Hitchcock liệt kê các nhà ngân hàng có sở hữu tại FED: Ngân hàng Rothschild tại London, Ngân hàng Warburg tại Hamburg, Ngân hàng Rothschild tại Berlin, Lehman Brothers tại New York, Lazard Brothers tại Paris, Ngân hàng Kuhn Loeb tại New York, Ngân hàng Israel Moses Seif tại Italia, Goldman Sachs New York, Ngân hàng Warburg tại Amsterdam, Ngân hàng Chase Manhattan tại New York. Các ngân hàng này đều là tài sản trực tiếp hoặc gián tiếp của đại gia tộc Rothschild. Câu chuyện bí ẩn của FED dần hé lộ với những công bố của các nhà nghiên cứu và học giả lương thiện. Trong số đó, The Creature From Jerkyll Island xuất bản năm 1994 của tác giả G. Edward Griffin được xem như cuốn sách đầy đủ nhất với những nội nhiều thông số và sự kiện cập nhật tới diễn biến hiện đại của thế giới. Để hiểu tường tận về FED, trước tiên cần trở lại với lịch sử hình thành hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ với hai ngân hàng quốc gia đầu tiên được thành lập và hoạt động trong các giai đoạn 1791-1811 và 1816-1836. First Bank of United States (1791-1811) Ngân hàng thương mại đầu tiên ở nước Mỹ cũng được thiết kế trở thành ngân hàng trung ương đầu tiên. Ngân hàng Bắc Mỹ (Bank of North America) được Robert Morris lập ra vào mùa xuân 1781. Morris, một thương nhân giàu có tại Philadenphia và nghị sĩ quốc hội, rất có thế lực trong cuộc chiến giành độc lập của Hoa Kỳ. Là một nhà thầu quân sự, Morris dùng vị trí của mình trong chính phủ để thực hiện nhiều triệu đô la giao dịch cho công ty của mình và các đối tác kinh doanh. Bằng ảnh hưởng cá nhân, Morris nhanh chóng thuyết phục được quốc hội thông qua điều lệ Ngân hàng Bắc Mỹ theo mô hình Ngân hàng Anh. Nước Mỹ có ngân hàng trung ương đầu tiên. Nhưng một năm sau, vai trò chính trị của Morris sụt giảm nhanh chóng nên Ngân hàng Bắc Mỹ nhanh chóng chuyển sang hoạt động như một ngân hàng thương mại thuần túy. Đến năm 1783, các loại chứng khoán chính phủ, chiếm khoảng 5/8 nguồn vốn của ngân hàng, được bán cho các cá nhân và mọi khoản nợ của chính phủ với Ngân hàng Bắc Mỹ được thanh toán hết. Thử nghiệm ngân hàng trung ương đầu tiên tại Hoa Kỳ kết thúc. Đến năm 1791, Alexander Hamilton (Theo Hitchcock, A. Hamilton là người đại diện cho quyền lợi của gia tộc Rothschild, trang 37) trình lên quốc hội phương án thành lập First Bank of the United States để giải quyết tình trạng ``thiếu tiền.'' Chính quyền liên bang nằm quyền sở hữu 1/5 ngân hàng trung ương này. 80% cổ phần còn lại, lẽ dĩ nhiên, thuộc về các đại gia tộc ngân hàng. Ngân hàng mới sẽ có quyền phát hành tiền và đầu tư vào các khoản nợ công và tài trợ tín dụng giá rẻ cho các nhà công nghiệp. Chính quyền liên bang cũng trao cho ngân hàng quyền được lưu ký quĩ và tài sản của chính phủ. Thời gian hoạt động được qui định là 20 năm. Hình A. Hamilton trên tờ 10 đôla First Bank of the United States, BUS được vận hành theo đúng mô hình của Ngân hàng Bắc Mỹ. Thomas Willing, chủ tịch Ngân hàng Bắc Mỹ được mời giữ chức chủ tịch ngân hàng mới. BUS nhanh chóng phát hành nhiều triệu đô-la tiền giấy và khoảng 2 triệu đôla tiền đúc. Tới năm 1796, BUS đã cho chính phủ vay một lượng lớn tiền, 8,2 triệu đô-la. Kết quả là chỉ số giá cả chung tăng gần 72%, từ 85 (1791) lên 146 (1796). Theo sau hoạt động của BUS là làn sóng thành lập các ngân hàng thương mại. Trước khi Hiến pháp được công bố, nước Mỹ có 3 ngân hàng thương mại. Đến thời gian thành lập BUS, số ngân hàng thương mại là 4. Nhưng có tới 8 ngân hàng thương mại nhanh chóng được thành lập trong 2 năm 1791 và 1792, và thêm 10 ngân hàng nữa vào năm 1796. Thomas Jefferson (Tổng thống thứ ba của nước Mỹ), khi này đang là Bộ trưởng Ngoại giao, là người cực lực phản đối hoạt động của ngân hàng trung ương tư hữu. Chứng kiến các khoản nợ vô tiền khoáng hậu của chính phủ, ông cảnh báo: ``Nếu người dân Mỹ còn để cho các ngân hàng kiểm soát việc phát hành tiền tệ, đầu tiên là lạm phát sau đó là thiểu phát, thì các ngân hàng và tập đoàn sẽ ngày càng bành trướng và tước đoạt mọi tài sản của họ, cho đến tận khi nào con cháu của họ không còn nhà cửa ngay trên chính mảnh đất mà cha ông chúng đã khai phá'' -- Brown:2008, trang 76. Jefferson cũng ao ước có cơ hội một lần duy nhất sửa đổi Hiến pháp Hoa Kỳ. Đó là loại bỏ quyền được vay nợ của chính quyền liên bang. Khi Hiến pháp được soạn thảo và thông qua, Jefferson đang thực hiện nhiệm vụ ngoại giao với chính phủ Pháp. Nhưng cho dù có mặt tại nước Mỹ, ông cũng khó lòng thay đổi được quyết định của số đông... Mặc dù những người ủng hộ Jefferson phản đối mạnh mẽ cả mô hình ngân hàng trung ương và ngân hàng thương mại, cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa đều tôn trọng bản điều lệ đã được thông qua và hoạt động của BUS tiếp tục cho tới năm 1811. Số ngân hàng và tổ chức tín dụng tiếp tục tăng lên trong 20 năm này. Năm 1800, nước Mỹ có 28 ngân hàng. Số này tăng gấp 4 lần vào năm 1811: 117 ngân hàng. Khi hết kỳ hạn hoạt động, bản đệ trình xin gia hạn của BUS đã bị bác bỏ do Hạ viện có 65 chiếu chống và 64 phiếu thuận. Nước Mỹ một lần nữa không có ngân hàng trung ương. Hamilton lập ra Ngân hàng New York (Bank of New York) năm 1792, sau này trở thành Ngân hàng Chase Manhattan và sáp nhập với J.P. Morgan thành J.P. Morgan, Chase & Co. Khi các tài sản của BUS được đem bán để giải thể ngân hàng, người ta biết được rằng 18.000 trong tổng số 25.000 cổ phần của ngân hàng thuộc về các nhà ngân hàng Anh và Hà Lan. Second Bank of United States (1816-1836) Thời gian nền kinh tế Mỹ không có ngân hàng trung ương không dài. Năm 1812, cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Anh quốc nổ ra. Theo nghiên cứu của Hitchcock (trang 41) thì với tiền của gia tộc Rothschild và mệnh lệnh trực tiếp từ Nathan Rothschild, quân đội Anh đã được điều động đến nước Mỹ. Chính phủ Hoa Kỳ phải phát hành rất nhiều nợ để tài trợ cho các hoạt động quân sự cực kỳ tốn kém. Đây là cơ hội thuận lợi cho ngành kinh doanh ngân hàng phát triển. Từ 1811 đến 1815, số ngân hàng đã tăng 117 lên 246. Tổng số tiền kim loại các ngân hàng đã phát hành rơi vào khoảng từ 14,9 triệu đô-la (1811) đến 13,5 triệu đô-la (1815). Trong khi đó, tổng lượng tiền giấy và tiền gửi là 42,2 triệu đô-la (1811) đã tăng gần 90% sau 4 năm, đạt con số 79 triệu đô-la (1815). Việc phát hành quá nhiều tiền và tài trợ các khoản chi phí chiến tranh không lồ đẩy các ngân hàng vào tình trạng khó khăn và mất khả năng thanh toán. Chính quyền Hoa Kỳ đã có một quyết định rất khó hiểu là cho phép các ngân hàng có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ thanh toán bằng tiền đúc thay vì chấp nhận phá sản khi không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán. Hiển nhiên, việc này không thể kéo dài mãi. Có hai lựa chọn để giải quyết tình hình. Phe Cộng hòa cho rằng, chính quyền liên bang phải nghiêm khắc bắt buộc các ngân hàng đang phát hành tiền giấy một cách bừa bãi phải thực hiện đổi sang tiền đúc ngay khi có yêu cầu của khách hàng. Nếu điều này gây ra sự phá sản ngân hàng hàng loạt, chính phủ chấp nhận và buộc các ngân hàng phải bán tài sản để thực hiện nghĩa vụ. Bằng cách này, các đồng tiền giấy có giá trị thấp và lạm phát cao sẽ nhanh chóng được thanh toán, tiền đúc đang được tích trữ sẽ quay trở lại và nguồn cung tiền của quốc gia sẽ lưu thông ổn định. Tuy vậy, cuối cùng nước Mỹ một lần nữa lại lựa chọn việc thành lập ngân hàng trung ương. Mô hình lần này cũng giống như First Bank of the United States, chỉ khác một chữ trong tên gọi: Second Bank of the United States. Cuộc chiến Anh- Pháp kết thúc cùng năm 1816. Và 80% sở hữu của ngân hàng trung ương Hoa Kỳ ``mới'' thuộc về gia đình Rothschild và những người đại diện (Hitchcock:2007, trang 48). Ngân hàng này có thời hạn 20 năm để thực hiện các chức năng tạo ra một đồng tiền giấy thống nhất trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ, mua phần lớn nợ của chính phủ, và nhận tiền gửi của Bộ Tài chính. Mục tiêu của việc thành lập ngân hàng trung ương là hỗ trợ chứ không phải ngăn cản hoạt động của ngân hàng ở các bang. Năm 1817, Quốc hội thông qua đạo luật qui định kể từ ngày 20/2/1817, các khoản thu thuế trên nước Mỹ phải được thực hiện duy nhất bằng tiền đúc; các loại giấy bạc Bộ Tài chính, của ngân hàng trung ương, và của ngân hàng các bang phải đổi ra tiền đúc khi có yêu cầu. Nói cách khác, mọi loại tiền giấy không thể qui đổi ra tiền đúc sẽ không được chấp nhận từ sau thời hạn trên. Nếu đạo luật được thực thi triệt để, lựa chọn thứ nhất đã được hiện thực hóa. Các ngân hàng sẽ bị bắt buộc thực hiện đổi tiềng giấy sang tiền đúc, quá trình mở rộng lạm phát dừng lại, và mọi chuyện có thể đã rất khác. Nhưng với tiềm lực tài chính cực mạnh được hỗ trợ từ châu Âu, phố Uôn đã vô hiệu đạo luật này ngay trước khi nó kịp có hiệu lực. Các ông chủ của Second Bank of the United States (BUS2) bắt tay cùng đại diện các ngân hàng lớn ở ngoại ô Boston và thống nhất cung cấp một khoản tín dụng trị giá 6 triệu đô-la bằng tiền đúc tại New York, Philadelphia, Baltimore, và Virginia trước khi phải nhất nhất tuân theo yêu cầu thanh toán bằng tiền đúc với những khoản nợ phải thanh toán cho ngân hàng các bang. Lượng tiền đúc này được tính toán sẽ vượt xa nhu cầu chuyển đổi tiền giấy sang tiền đúc có thể phát sinh khi đạo luật mới được thực thi. Như vậy, các ngân hàng có thể thoải mái phát hành mới tiền giấy mà không lo lắng tới việc vi phạm pháp luật. Nguyên lý rất đơn giản, nhưng để thực hiện cần sức mạnh tiền bạc vô song. Sau khi nhận khoản vay gây lạm phát rất lớn này, ngân hàng tại các bang chấp nhận thực hiện thanh toán bằng tiền đúc. Hơn thế nữa, BUS2 và ngân hàng tại các bang còn thỏa thuận sẽ tương trợ lẫn nhau trong các tình huống khó khăn. Dĩ nhiên, điều này có nghĩa BUS2 hùng mạnh cam kết sẽ yểm trợ các ngân hàng nhỏ ở địa phương. Năng lực tài chính của BUS2 dường như không có giới hạn. Sau năm 1815, gia tộc Rothschild tại Anh đã tích lũy được một tài sản khổng lồ nhờ thất bại của Napoleon trong trận Waterloo. Phiên giao dịch trái phiếu chính phủ Anh một ngày trước khi tin thắng trận về tới nước Anh, Nathan Rothschild đã thu về số tiền lời tương đương 5 triệu đô-la! ``Thương vụ'' giữa BUS2 và ngân hàng tại các bang đã biến qui định phải qui đổi ra tiền đúc để thanh toán chỉ còn mang tính hình thức. Nền kinh tế tiếp tục ở trong tình trạng lạm phát. Đến năm 1819, yêu cầu thanh toán bằng tiền đúc bị dỡ bỏ cùng lúc với khủng hoảng kinh tế trong thời gian 1819-1821. Kể từ khi ra đời, BUS2 không ngừng mở rộng lạm phát tiền tệ và tín dụng. Không tuân thủ chặt chẽ yêu cầu đảm bảo thanh toán bằng tiền đúc, ngân hàng đã không huy động đủ 7 triệu đôla tiền đúc để đảm bảo theo luật định. Trong hai năm 1817 và 1818, ngân hàng chưa bao giờ có quá 2,5 triệu đôla tiền đúc mặc dù theo qui định với lượng tiền đã phát hành, BUS2 phải có lượng tiền đúc đảm bảo là 21,8 triệu đôla. Như vậy, trong một năm rưỡi, BUS2 đã bổ sung vào nguồn cung tiền tệ một lượng tiền nhỏ giọt là 19,3 triệu đôla! BUS2 cũng nỗ lực tạo ra một đồng tiền giấy thống nhất giữa các ngân hàng trên toàn quốc. Nhờ đó, các ngân hàng ở New York và Boston thực hiện nghiêm túc qui định đổi tiền giấy thành tiền đúc, dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ. Cùng lúc, các ngân hàng ở xa hơn tại miền tây gần như thoải mái sử dụng tiền giấy. Ở đây cần hiểu rằng, có một dòng chảy ngầm giữa các ngân hàng, tiền đúc được tập trung chủ yếu ở những nơi chính phủ giám sát xít sao và lạm phát được đẩy lên rất cao ở những vùng xa xôi. Cũng giống như dưới thời kỳ của BUS, số lượng ngân hàng tại các bang tăng nhanh chóng từ 232 năm 1816 lên tới 338 vào năm 1818. Riêng tại vùng Kentucky có 40 ngân hàng ra đời từ 1817-1818. Lượng cung tiền tăng 40,7% từ 67,3 triệu (1816) lên 94,7 triệu đô-la (1818). Từ tháng 7 năm 1818 chính phủ và BUS2 bắt đầu nhận thức được tình thế khó khăn đang gặp phải, sự hào phóng lạm phát tiền tệ và tín dụng, công thêm việc gian lận lan tràn đẩy BUS2 vào vị trí nguy hiểm do vi phạm qui định pháp lý về thanh toán bằng tiền đúc. Trong năm tiếp theo BUS2 bắt đầu triển khai thu hẹp tín dụng trên diện rộng, yêu cầu cắt bỏ nhiều khoản vay, hạn chế tín dụng ở cả miền bắc và miền đông, từ chối cấp tiền cho các chi nhánh hoạt động kém hiệu quả, và cuối cùng, nghiêm chỉnh chấp hành yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đổi tiền giấy với tiền đúc. Những động thái kiên quyết và dũng cảm này đã cứu BUS2 khỏi thảm cảnh nhưng lại đưa nước Mỹ đến với cuộc đại suy thoái tài chính và kinh tế đầu tiên trong lịch sử. Hiện tượng ``tăng trưởng-sụp đổ'' (boom-bust cycle) trên qui mô toàn quốc được ghi nhận. Mở rộng tín dụng và lạm phát cao thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn đầu; sau đó, co rút tiền tệ và tín dụng dẫn tới đổ vỡ hàng loạt của ngân hàng, tổ chức kinh doanh, sản xuất đình trệ, xuất khẩu giảm trầm trọng. Henry Clews, ông chủ chuyên gia nổi tiếng về ngân hàng đã nói rõ (trong cuốn 28 năm ở phố Wall) rằng cuộc khủng hoảng năm 1837 được sắp đặt một cách bí mật bởi BUS2 đã đi lệch hướng. Ngay sau đó, Tổng thống Jackson không chỉ cho rút các quỹ của chính phủ ra khỏi ngân hàng này mà còn đem gửi các quỹ đó (khoảng 10 triệu USD) vào các ngân hàng độc lập hơn với Ngân hàng Anh. Kết quả tức thì sau đó, Clews nhận định, là cả quốc gia bắt đầu được an hưởng sự phồn thịnh. Dòng tiền mặt bất ngờ này đã dẫn đến sự phát triển tức thì của nền kinh tế, tiếp theo đó chính phủ đã thành công trong việc trả nợ và giữ lại được một khoản thặng dư 50 triệu USD cho Bộ Tài chính. Các nhà tài chính châu Âu cũng đã có những hành động đáp trả với hoàn cảnh thực tế lúc đó. Clews nhận xét thêm ``Cơn bấn loạn năm 1837 bị chọc tức và ngày càng thêm trầm trọng khi Ngân hàng Anh một ngày kia đem ném rụp toàn bộ giấy tờ liên quan đến Hoa Kỳ.'' Ngân hàng Anh, tất nhiên, đồng nghĩa với cái tên Nam tước Nathan Mayer Rothschild. Vậy tại sao BoE lại quẳng đi tuốt tuột mọi thứ giấy tờ liên quan đến Hoa Kỳ, điều đó có nghĩa là từ chối nhận hoặc coi thường mọi chứng khoán, trái phiếu hay bất cứ giấy tờ tài chính nào có nguồn gốc Hoa Kỳ ? Câu trả lời thật giản đơn: Mục đích của động thái này chẳng gì hơn chính là để gây ra một cuộc hoảng loạn tài chính ở Hoa Kỳ, nó gây ra một cơn co thắt tín dụng hoàn hảo, ngưng lại toàn bộ các ý định phát hành cổ phiếu, trái phiếu và hủy đi những cái có khả năng biến chứng khoán Hoa Kỳ thành tiền mặt. Trong bối cảnh hoảng loạn ấy, John Pierpont Morgan chào đời. Năm 1828, Andrew Jackson được bầu vào vị trí Tổng thống Hoa Kỳ. Jackson là người tin tưởng vào sự lãnh đạo mạnh mẽ của Tổng thống và có lập trường cứng rắn với các ngân hàng. Trong cái nhìn của Andrew Jackson, hoạt động của ngân hàng chỉ để phục vụ lợi ích của giai cấp thượng lưu với chi phí của tầng lớp lao động. Tận dụng cương vị Tổng thống Hoa Kỳ, Jackson tự đặt mục tiêu cho mình phải triệt hạ hệ thống ngân hàng do nhà Rothschild giật dây ngay khi có cơ hội. Tổng thống bắt đầu hành động với việc loại bỏ tay chân của giới ngân hàng đang làm việc trong bộ máy chính phủ. Trong tổng số 11.000 nhân viên nhà nước, Johnson đã cho nghỉ việc 2.000 người. Năm 1832, BUS2 yêu cầu quốc hội thông qua đề xuất gia hạn thời gian hoạt động 4 năm trước khi hết hạn theo giấy phép đã cấp năm 1816. Quốc hội đã thông qua nhưng Tổng thống Jackson cương quyết không chấp thuận. Trong thông điệp bác bỏ của mình, vị Tổng thống này viết: "Các công dân của chúng ta không phải là những người duy nhất đang những lợi ích mà chính phủ mang lại. Hơn 8 triệu cổ phần của Ngân hàng [Second Bank of United States] đang nằm trong tay những kẻ ngoại quốc... Liệu nền độc lập và sự tự do cbị đe dọa bởi một ngân hàng mà bản chất của nó là trói buộc quốc gia của chúng ta? Kiểm soát tiền tệ của chúng ta, thu tiền của chúng ta, khiến hàng ngàn công dân của chúng ta trở nên lệ thuộc... còn kinh khủng và nguy hiểm hơn bất kỳ sức mạnh quân sự của kẻ thù. Nếu chính phủ tự giới hạn mình trong việc bảo vệ sự công bằng và, thì như mưa do Chúa trời tạo ra, sẽ không có sự phân biệt người ở địa vị cao và người ở địa vị thấp, người giàu và người nghèo. Trong đạo luật ở trước mặt tôi các nguyên tắc cơ bản này dường như ở quá xa và không cần thiết ." -- (Hitchcock:2007, trang 51) Quốc hội không thể thuyết phục Tổng thống Jackson thay đổi quyết định. Tháng 7 năm 1832, Jackson tranh cử cho nhiệm kỳ thứ hai và lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, một ứng viên Tổng thống, cũng là đương kim Tổng thống, trực tiếp trình bày quan điểm của mình với các cổ đông trên đường phố. Khẩu hiệu tranh cử của Jackson là ``Jackson và Không có Ngân hàng!'' Cuối cùng, Jackson đã tái đắc cử, chiến thắng Thượng nghị sĩ Cộng hòa Henry Clay với sự hỗ trợ trị giá hơn 3 triệu đô-la cho chiến dịch tranh cử từ gia tộc Rothschild. Những Tổng thống hiểu rõ rằng cuộc chiến thực sự mới chỉ bắt đầu, trong bài phát biểu sau chiến thắng, Jackson nói ``Con quái vật nhiều đầu mới chỉ bị khống chế, chưa chết!' Tổng thống thứ bảy của Hoa Kỳ Năm 1833, Tổng thống Jackson cho chuyển các khoản tiền gửi của chính phủ tại những ngân hàng do Rothschild kiểm soát sang những ngân hàng độc lập. Vị Bộ trưởng Tài chính khi nhận mệnh lệnh này từ Tổng thống đã từ chối thực hiện. Jackson bổ nhiệm một Bộ trưởng mới. Người này cũng không thực hiện nhiệm vụ được Jackson giao phó. Tổng thống bổ nhiệm vị Bộ trưởng thứ ba. Rốt cuộc, Tổng thống Andrew Jackson đã chiến thắng khi tiền được rút ra khỏi các ngân hàng của nhà Rothschild. Điều này khiến nhà Rothschild nổi giận. Họ sử dụng vũ khí tối thượng của mình. Cung tiền bị thắt chặt và kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. Jackson biết điều gì đang diễn ra, ``Các người là những tên trộm bất lương, và ta muốn đánh cho các ngươi tan tác, và được Thượng đế ban phước, ta sẽ khiến các ngươi tan tác.'' Ngày 30/1/1835, Richard Lawrence đã cố gắng hạ sát Tổng thống Jackson. Điều kỳ diệu đã xảy ra. Cả hai khẩu súng của kẻ sát thủ đều bị hóc đạn. Richard Lawrence đã không bị kết án với kết luận hắn là kẻ có bệnh tâm thần. Jackson sau đó cáo buộc nhà Rothschild đứng sau tổ chức vụ ám sát. Còn Lawrence thì khoe khoang rằng hắn được những người có thế lực ở châu Âu thuê giết Tổng thống Mỹ và cam kết sẽ bảo hệ hắn trong trường hợp bị bắt. Cũng trong tháng 1/1835, với những nỗ lực không mệt mỏi, Tổng thống Andrew Jackson (đã trả nốt khoản vay cuối cùng của chính phủ cho BUS2. Đây là điều mà không một đời Tổng thống Hoa Kỳ nào trước đó và về sau thực hiện hiện được: đưa nợ quốc gia về không và thậm chí còn có thặng dư! Jackson đã đánh bại ngân hàng. Thư ký riêng của ông, Nicholas Trist gọi đó là ``thắng lợi hoàn hảo nhất trong cuộc đời của Andrew Jackson và là công trạng quan trọng nhất ông làm được cho đất nước.'' Tờ Boston Post so sánh sự kiện này với việc chúa Jesus đuổi những kẻ cho vay nặng lãi ra khỏi giáo đường. Ngân hàng đã cố giết ông nhưng ông đã giết được ngân hàng. Sau khi qua đời, trên bia mộ của Andrew Jackson có dòng chữ ``Tôi đã giết được ngân hàng (I killed the bank).'' Có những vị Tổng thống Mỹ khác không có may mắn như Jackson... Năm 1936, Second Bank of United States giải tán sau khi điều lệ của ngân hàng không được gia hạn. Tổng thống Jackson đã đuổi được ngân hàng ra khỏi nước Mỹ. Nhưng các thế lực ngân hàng không bỏ cuộc. Sau nhiều năm nội chiến của nước Mỹ, gia tộc Rothschild đã quay trở lại và lần thứ ba xác lập mô hình ngân hàng trung ương ở nước Mỹ- Hệ thống Dự trữ Liên bang, vào năm 1913. Bí mật đảo Jekyll Kế hoạch thành lập ngân hàng trung ương Hoa Kỳ lần thứ ba được một nhóm các nhà ngân hàng bí mật bàn bạc và thông qua vào tháng 11 năm 1910 sau chín ngày hội họp tại đảo Jekyll, tài sản của nhà Morgan tại vùng bờ biển bang Georgia. Bảy thành viên tham dự cuộc họp này gồm có: 1. Thượng nghị sĩ đảng Cộng hòa, Nelson W. Adrich, Chủ tịch Ủy ban Tiền tệ Quốc gia, đối tác kinh doanh của J.P. Morgan và là cha vợ của John D. Rockefeller; 2. Abraham Piatt Andrew, trợ lý Bộ trưởng Tài chính; 3. Frank A. Vanderlip, Chủ tịch National City Bank of New York, ngân hàng quyền lực nhất vào thời điểm đó, đại diện cho William Rockefeller và Ngân hàng đầu tư Kuhn, Loeb & Company; 4. Henry P. Davison, đối tác cao cấp trong J.P. Morgan Company; 5. Charles D. Norton, Chủ tịch First National Bank of New York của nhà Morgan; 6. Benjamin Strong, đứng đầu Bankers Trust Company của nhà Morgan; và, 7. Paul M. Warburg, đối tác của Kuhn, Leob & Company, đại diện cho đế chế ngân hàng Rothschild tại Anh và Pháp, người anh em của Max Warburg- người đứng đầu hệ thống ngân hàng nhà Warburg tại Đức và Hà Lan. Vanderlip kể về chuyến đi tới đảo Jekyll như sau. ``Chúng tôi được chỉ dẫn tới từng người một và càng kín đáo càng tốt tại một ga xe lửa... xe của Thượng nghị sĩ Aldrich đã sẵn sàng ở đó... Bất kỳ sự tiết lộ nào cũng không thể xảy ra... Nếu thông tin về việc chúng tôi đang làm, chuẩn bị một đạo luật ngân hàng, được tiết lộ với công chúng, đạo luật đó chắc chắn sẽ không được Quốc hội phê chuẩn vì bất kỳ lý do nào... Mặc dù đạo luật về Dự trữ liên bang của Aldrich đã thất bại nhưng những điểm chính của nó vẫn được giữ lại trong bản kế hoạch về sau đã được Quốc hội phê chuẩn.'' Các nhà ngân hàng này sở hữu một phần tư tài sản của toàn thế giới vào đầu thế kỷ 20. Mặc dù người chủ trì cuộc hội kiến là Thượng nghị sĩ Aldrich, nhưng nhân vật quan trọng nhất lại là Paul Warburg, người đại diện cho các hoạt động ngân hàng của gia tộc Rothschild trong thời kỳ nội chiến ở Mỹ. Warburg là người duy nhất trên đảo Jekyll đầy đủ hiểu biết sâu sắc về cấu trúc, chính sách, và cơ chế hoạt động của các ngân hàng trung ương tại châu Âu. Paul Warburg được gia đình Rothschild cử tới cuộc họp và trình bày ``bản thiết kế'' của cái gọi là Hệ thống Dự trữ Liên bang (Federal Reserve System). Theo thiết kế này, nhà Morgan sẽ đóng vai trò chủ chốt. Dù hai nhà Morgan và Rockefeller luôn là những đối thủ cạnh tranh, nhưng trong cuộc họp kín này, trò chơi được bày ra mang lại lợi ích cho cả hai. Mục tiêu của kế hoạch này là hình thành một hệ thống ngân hàng độc quyền để tăng lợi nhuận cho hoạt động kinh doanh ngân hàng thông qua loại bỏ cạnh tranh. Một nguyên tắc kinh doanh cực kỳ phù hợp với cá tính và phong cách của Morgan và Rockefeller. Đồng thời, sức mạnh của hệ thống ngân hàng sẽ được vận dụng để chế ngự quyền kiểm soát của chính phủ. Các nhà lập kế hoạch biết rõ rằng, giải pháp là tạo ra một bản sao của mô hình ngân hàng trung ương châu Âu tại nước Mỹ. Vấn đề khiến họ băn khoăn là các ngân hàng lớn của họ đang nhanh chóng mất đi những thị phần đáng kể do sự cạnh tranh từ các ngân hàng nhỏ tại từng khu vực và những khoản tài trợ cho các công ty họ đang thực hiện có xu hướng không tạo ra lợi nhuận thay vì những khoản trả lãi cao như trước kia. Cấu trúc của hệ thống mới phải cho phép các nguồn dự trữ tập trung về những ngân hàng lớn nằm trong hệ thống độc quyền. Từ đó, các ngân hàng này được phép cho thực hiện an toàn các khoản vay lớn gấp nhiều lần lượng tài sản bằng kim loại quý mà vẫn tránh được tình trạng người gửi tiền và chủ nợ đồng loạt kéo đến rút tiền (bank run). Nhờ thế, những ngân hàng này sẽ có khả năng cung cấp khoản vay với lãi suất thấp hơn các đối thủ cạnh tranh nhỏ. Sau khi cân nhắc mọi khả năng, bản dự luật Hệ thống Dự trữ Liên bang được thống nhất với năm mục tiêu: 1. Giảm số lượng các ngân hàng cạnh tranh nhỏ; 2. Tạo ra cung tiền có ``độ co giãn'' tốt hơn bằng việc cung cấp những khoản vay ít phụ thuộc vào lượng vàng dự trữ. Điều này nghĩa là cho phép tạo ra tiền từ ``không gì cả'' và cho vay với lãi suất thấp hơn; 3. Tập trung và kiểm soát các ngân hàng thành viên của hệ thống dự trữ để giảm rủi ro phá sản khi một ngân hàng thực hiện việc cho vay quá bất cẩn hoặc phạm luật; 4. Để bản kế hoạch có thể được Quốc hội thông qua, những mục tiêu được trình bày và thuyết phục công chúng sẽ duy nhất là giảm lãi suất, tài trợ tốt hơn cho tăng trưởng công nghiệp, và bảo vệ nền kinh tế cùng đông đảo dân cư bằng việc xóa bỏ chu kỳ ``tăng trưởng - suy thoái'' và việc để xảy ra phá sản với các ngân hàng (nếu có) là do sự thiếu trách nhiệm của các ngân hàng tư nhân. Trong những năm sau khi FED đi vào hoạt động, nền kinh tế Hoa Kỳ không nhận được gì ngoài sự ổn định. trogn khi đó, những mục đích bí mật của FED được hiện thực hóa cực kỳ thành công. Hệ thống Dự trữ Liên bang, theo Griffin (trang 21), ``không có năng lực để đạt được các mục tiêu đã tuyên bố'' bởi ``đó chưa bao giờ là mục tiêu thực sự.'' Trên thực tế, FED ``thuần túy là một ngân hàng độc quyền (cartel) với bề ngoài của một tổ chức thuộc chính phủ,'' và bất cứ khi nào lợi ích của FED đối nghịch với lợi ích của các công dân đang đóng thuế, ``công chúng sẽ được hy sinh.'' Trong cuộc khủng hoảng tín dụng bất động sản dưới chuẩn, công chúng có dịp chứng kiến rất rõ các động thái của FED được thực hiện với định hướng lợi ích dành cho ai. FED được thiết kế với một cơ chế vận hành cực kỳ tinh vi nhằm đảm bảo các khoản nợ mà FED cung cấp sẽ không bao giờ được trả hết. Và con nợ, dù có là ai, có cố gắng tới mức nào cũng không thoát khỏi cái thòng lọng tín dụng giăng sẵn. Khi một ngân hàng thành viên gặp phải vấn đề với những khoản nợ xấu (non- performing loan), FED áp dụng một một qui trình 8 bước. 1. Nếu một khách hàng vay nợ quan trọng không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán phần gốc của khoản vay khi đến hạn, ngân hàng sẽ rất vui vẻ cung cấp tiếp một khoản vay mới thay thế khoản vay cũ. Xin đừng ngạc nhiên! Khách hàng sẽ dùng số tiền mới vay được để trả cho phần gốc của khoản vay cũ và tiếp tục trả lãi cho khoản vay mới. Cách làm này được sử dụng rất nhiều lần với những khoản vay mà các nước phát triển và các tổ chức tài chính đa phương dành cho các nước đang phát triển. 2. Khi khách hàng vay nợ không thể trả ngay cả lãi suất tiền vay, ngân hàng cung cấp một khoản vay mới đủ để trả lãi suất của khoản vay cũ và khoản vay mới. 3. Khi khách hàng một lần nữa tuyen bố không thể trả nợ, cung cấp tiếp một khoản vay mới, nhưng lần này ngọt ngào hơn bằng cách cộng thêm một khoản tiền phát sinh dựa trên nhu cầu thanh toán tất cả các lãi suất. Như vậy, khách hàng sẽ có thể sử dụng một phần tiền cho công việc kinh doanh của mình, ví dụ như tiếp tục triển khai dự án sớm tạo ra doanh thu để thoát khỏi tình trạng cùng quẫn về tài chính. 4. Khi khách hàng nhận thấy việc tiếp tục vay nợ chỉ làm gia tăng mức độ thua lỗ và dù không thể trả được nợ nhưng khách hàng vẫn quyết định không nhận thêm khoản vay mới, ngân hàng sẽ đề xuất được gia hạn khoản vay cũ với kỳ hạn dài hơn và nhờ đó, số tiền phải thanh toán trong mỗi kỳ sẽ ít hơn. Khoản vay, khi này sẽ trở thành có thể trả được (performing) thêm một thời gian nữa. 5. Khi khách hàng nhận thấy không thể trả nổi dù là khoản tiền ít hơn và bắt đầu có quan hệ xấu với ngân hàng, ngân hàng sẽ tới gặp Quốc hội và viện mọi lý lẽ vì lợi ích của quốc gia để quốc hội cung cấp khoản tiền cần thiết cứu trợ người vay. Những người đóng thuế không cần phải quan tâm tới điều này bởi FED có thể tạo ra tiền ``không từ gì cả,'' và công chúng không bao giờ biết được vì sao giá cả hàng hóa mỗi ngày lại tăng thêm một chút. 6. Nếu mọi thủ đoạn trên đều không hiệu quả. Ngân hàng có thể thuyết phục Quốc hội bảo lãnh việc thanh toán cho ngân hàng trong trường hợp người vay phá sản. Lúc này World Bank, IMF... có vai trò như ống dẫn các khoản trợ cấp, cho vay phát triển, tài trợ quốc tế... để dòng tiền chạy tới những khách hàng đang lâm nguy, giúp họ thoát khỏi tình trạng vỡ nợ. Những người đóng thuế hào hiệp sẽ không bao giờ có đủ thời gian để theo dõi và kiểm tra các chi tiết này. 7. Nếu Quốc hội từ chối giúp đỡ, ngân hàng vẫn còn cơ hội với FED: đề nghị FED, với tư cách người cho vay cuối cùng (lender of last resort), mua lại chính ngân hàng và các khoản nợ không thu hồi được. Do FED có quyền lực tạo ra lượng tiền đủ lớn để đáp ứng nhu cầu của bất kỳ ai ``không từ gì cả'' FED sẽ rất vui vẻ chấp thuận và truyền cho ngân hàng niềm hy vọng vào khả năng sống sót. Những nếu ngân hàng không thuộc vào nhóm TBTF (Too Big Too Fail, quá lớn để sụp đổ), FED sẽ trả lời rằng ``Đừng gọi cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ gọi lại.'' 8. Nếu tất cả những nỗ lực trên đều thất bại, thì đó là lúc người chủ ngân hàng và các cộng sự càn bán toàn bộ cổ phần của mình tại ngân hàng trước khi công chúng và các cổ đông khác biết được rằng các khoản nợ xấu đang nhấn chìm ngân hàng. Sau đó, ngân hàng tuyên bố phá sản. FDIC (Federal Deposit Insurance Corporation) có trách nhiệm bảo hiểm các khoản tiền gửi của khách hàng. Nếu FDIC không có đủ tiền, Quốc hội, lo sợ trước hiệu ứng sụp đổ dây chuyền, sẽ cấp đủ số tiền cần thiết cho FDIC. Tất nhiên, nguồn tiền sẽ được FED tạo ra ``không từ gì cả.'' Những người đóng thuế sẽ không thể hiểu tại sao mọi thứ đều tăng giá. Một khi đã sa vào lưới nhện của nợ nần, con nợ (hay con mồi) có muốn chết cũng không được, sống cũng không xong. Cái thòng lòng tín dụng cứ từ từ, dần dần thắt chặt vào cổ, càng vẫy vùng sẽ càng đau đớn. Andrew Jackson quả thực đã làm được một việc phi thường. FED thuộc về ai? Các nhà thiết kế trên đảo Jekyll vô cùng sáng suốt. Hiểu rõ phản ứng của Quốc hội và người dân Mỹ đối với cái gọi là ngân hàng trung ương hay ngân hàng quốc gia qua lịch sử của First Bank of United States và Second Bank of United States, trong lần chinh phục thứ ba này, không hề xuất hiện bóng dáng của ngân hàng. Sinh vật trở về từ đảo Jekyll có tên gọi Hệ thống Dự trữ Liên bang. Từ ``ngân hàng'' đáng sợ được thay bằng cụm từ ``hệ thống dự trữ.'' Và mặc dù có cấu trúc sở hữu tư nhân, giống như hai ngân hàng trung ước trước của nước Mỹ, hệ thống này thể hiện tính chất phục vụ lợi ích liên bang ngay trong tên gọi. Lưu ý rằng, những người Liên bang trong Quốc hội Mỹ là những người chống đối mạnh mẽ nhất hoạt động của ngân hàng, tiêu biểu có Andrew Jackson hay Abraham Lihcon. Để thể hiện rõ hình thức của một cơ quan chính phủ, FED đặt trụ sở chính tại Thủ đô Washington, trung tâm chính trị, trong khi trung tâm tài chính của Hoa Kỳ nằm tại phố Uôn ở New York. Điều này không cản trở gì tới vai trò thống lĩnh thị trường tài chính của FED. Đơn giản vì hệ thống này được tổ chức bởi 12 ngân hàng dự trữ thành viên đặt trụ sở tại các vùng khác nhau. Trong số đó, Ngân hàng Dự trữ New York (Federal Reserve Bank of New York) có địa vị quan trọng nhất. Theo Mishkin (2004) có ba lý do giải thích vị trí quan trọng của Ngân hàng Dự trữ New Yorrk. Trước tiên, ngân hàng này hoạt động tai khu vực có hội sở của các ngân hàng thương mại lớn nhất nước Mỹ: Phố Uôn, New York. An toàn và sức mạnh của các ngân hàng thương mại này quyết định trạng thái của hệ thống tài chính Hoa Kỳ. Ngân hàng Dự trữ New York thực hiện chức năng giám sát hoạt động mọi tổ chức tài chính trong khu vực. Bộ phận giám sát tại New York có số lượng nhân sự lớn nhất trong các bộ phận giám sát của hệ thống FED . Ngân hàng Dự trữ New York cũng là tổ chức duy nhất trong hệ thống FED tham gia các giao dịch trái phiếu và ngoại hối trên thị trường quốc tế. Ngân hàng này cũng tổ chức thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở (mua và bán trái phiếu) quyết định mức dự trữ của hệ thống ngân hàng. Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ New York cùng với Chủ tịch Hội đồng Thống đốc (Board of Governors) của FED tham dự các kỳ họp định kỳ hàng tháng của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS). Sở dĩ như vậy là vì Ngân hàng Dự trữ New York là thành viên duy nhất của FED có tư cách thành viên BIS. Nói cách khác, Ngân hàng Dự trữ New York đại diện cho hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ trong các giao dịch quốc tế. Ngoài ra, ngân hàng này còn giữ hơn 100 tỷ đô-la vàng của thế giới, do các ngân hàng trung ương ở nhiều quốc gia gửi vào. 12 ngân hàng dự trữ khu vực đều sở hữu cổ phần của FED tỷ lệ với qui mô hoạt động của mình. Ngân hàng Dữ trữ New York có 53% cổ phần tại FED. Cùng với vị trí quan trọng như đã trình bày ở trên, rõ ràng, những người chủ Ngân hàng Dự trữ New York sẽ điều khiển được FED. Họ là ai? Cổ đông lớn nhất của Ngân hàng Dự trữ New York là các ngân hàng thương mại lớn nhất New York. Năm 1997, ngân hàng này công bố ba cổ đông lớn nhất của mình gồm: Chase Manhattan Bank và Citibank của nhà Rockefeller, và Morgan Guaranty Trust Company. Năm 2000, JP Morgan và Chase Manhattan sáp nhập thành JP Morgan Chase Co.- tổ hợp ngân hàng sở hữu lượng tài sản trị giá 668 tỷ đô-la. Morgan và Rockefeller đều là những ông trùm tài chính và công nghiệp Hoa Kỳ. Nhưng chúng ta đã biết, sức mạnh thực sự đứng trên cả các ông trùm chính là đế chế ngân hàng đang cai quan hệ thống kinh tế toàn cầu từ châu Âu. Tính độc lập của FED Mặc dù Chính phủ giữ quyền thông qua đạo luật cho ra đời Hệ thống Dự trữ Liên bang, FED hoạt động rất độc lập. Chi tiết các giao dịch của FED chưa bao giờ được công bố. Quốc hội và Bộ Tài chính chỉ biết chính xác số tiền mà FED nộp hàng năm vào ngân sách quốc gia. Một con số lớn. Doanh thu thực sự của FED vẫn luôn là ẩn số. Chủ tịch Hội đồng Thống đốc, hay còn gọi là Chủ tịch FED, có nhiệm kỳ 7 năm và không thể bãi miễn, so le với các nhiệm kỳ Tổng thống. Do vậy, Tổng thống Hoa Kỳ vẫn phải chấp nhận làm việc với Chủ tịch FED do Tổng thống đời trước bổ nhiệm. Tượng đài tài chính Alan Greenspan được Tổng thống Ronald Reagan bổ nhiệm vào vị trí chủ tịch FED năm 1987. Sau đó, Tổng thống đảng Cộng hòa George Bush (cha) tái bổ nhiệm Greenspan thêm một nhiệm kỳ nữa. Khi Tổng thống đảng Dân chủ Bill Clinton đắc cử năm 1993, Greenspan chỉ còn lại ít năm trong nhiệm kỳ của mình. Tổng thống Clinton đã phải chịu áp lực rất lơn trước việc có tiếp tục trao quyền chủ tịch FED cho Alan Greenspan hay không. Cuối cùng, Greenspan hai lần được bổ nhiệm làm chủ tịch FED trong các năm 1996 và 2000, mặc dù, ông là người của đảng Cộng hòa. Alan Greenspan Chủ tịch FED, 1987-2006 Trước khi trở thành Chủ tịch của FED, Alan Greenspan (sinh 1926), một người Do Thái gốc Hungary, đảm nhận vị trí điều hành trong nhiều công ty tư nhân như Aluminum Company of America (Alcoa); Automatic Data Processing, Inc.; Capital Cities/ABC, Inc.; General Foods, Inc.; J.P. Morgan & Co., Inc.; Morgan Guaranty Trust Company of New York; Mobil Corporation; và The Pittston Company. Greenspan cũng là giám đốc chính sách quốc tế của Ủy ban Quan hệ Quốc tế (Council on Foreign Relations) từ năm 1982 đến 1988. Trường hợp tương tự thế là Henry Paulson, trưởng một bộ phận của Goldman Sachs cũng đã chuyển sang làm việc cho Chính phủ Hoa Kỳ kể từ tháng 6 năm 2006, giữ vị trí Bộ trưởng Tài chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfFED - Vì sao quan trọng.pdf