4. Nhu cầu nghiên cứu
Cho đến nay, việc vận dụng khái niệm
dịch vụ sinh thái và các vấn đề liên quan
(như tiếp cận dịch vụ sinh thái, định giá và
chi trả dịch vụ sinh thái) vào công tác quản
lý môi trường biển ở Việt Nam vẫn còn mới.
Bên cạnh những trường hợp nêu trên, vấn đề
nghiên cứu chi trả dịch vụ sinh thái đối với các
hoạt động nuôi biển, khai thác hải sản, cần
được đặt ra. Tuy nhiên, có thể nhìn thấy đây
là vấn đề phức tạp đòi hỏi kiến thức đa ngành
và kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu và
cũng như những nhà quản lý. Theo đó, yêu
cầu nghiên cứu liên ngành có tầm quan trọng
để xây dựng phương pháp luận trong việc hỗ
trợ đưa ra các quyết định nhằm khai thác bền
vững các hệ sinh thái biển.
8 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dịch vụ hệ sinh thái – Một tiếp cận kết hợp trong quản lý môi trường biển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 87
VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI
DỊCH VỤ HỆ SINH THÁI – MỘT TIẾP CẬN KẾT HỢP
TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BIỂN
ECOSYSTEM SERVICES - AN INTEGRATED APPROACH
IN MARINE ENVIRONMENT MANAGEMENT
Nguyễn Văn Quỳnh Bôi1
Ngày nhận bài: 21/8/2017; Ngày phản biện thông qua: 23/9/2017; Ngày duyệt đăng: 25/9/2017
TÓM TẮT
Dịch vụ hệ sinh thái là các cấu trúc và những tiến trình mà thông qua đó các hệ sinh thái hỗ trợ và đáp
ứng đời sống con người trực tiếp hoặc gián tiếp dựa trên hoạt động chức năng của hệ. Các can thiệp vào hệ
sinh thái gắn liền với mức “chi trả” của các dịch vụ hệ sinh thái khác. Do vậy, việc đánh giá điều kiện của các
hệ sinh thái, khả năng cung ứng các dịch vụ, và mối tương quan của chúng với đời sống của con người đòi
hỏi một cách tiếp cận tổng hợp. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (Payments for Ecosystems Services-PES) hay còn
gọi là chi trả dịch vụ môi trường (Payments for Environment Services-PES) là một công cụ kinh tế, sử dụng để
những người được hưởng lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái chi trả cho những người tham gia duy trì, bảo vệ và
phát triển các chức năng của hệ sinh thái đó. Cho đến nay, việc vận dụng khái niệm dịch vụ sinh thái và các
vấn đề liên quan vào công tác quản lý môi trường biển ở Việt Nam vẫn còn mới. Theo đó, vấn đề nghiên cứu
chi trả dịch vụ sinh thái đối với các hoạt động nuôi biển và khai thác hải sản cần được đặt ra.
Từ khóa: Dịch vụ hệ sinh thái, Chi trả dịch vụ hệ sinh thái - chi trả dịch vụ môi trường, công cụ kinh tế,
tiếp cận tổng hợp.
ABSTRACT
Ecosystem services are the structures and processes through which ecosystems support and provide for
human well-being directly and indirectly based on functional activities of the systems. The interventions in
ecosystems are associated with the cost of other ecosystem services. Thus, assessing ecosystem conditions,
ability of providing services, and their relationship to human well-being requires integrated approach. Payments
for Ecosystems Services (PES), known as Payments for Environment Services (PES), are an economic tool,
used to force benefi ciaries from ecosystem services to pay people that involve in maintaining, protecting and
developing functions of the ecosystem. Up to date, applying concept of ecosystem services and related issues
to marine environment management in Viet Nam is still rather new. Therefore, studies on PES for marine
aquaculture and fi shing should be proposed.
Keywords: Ecosystem services, Payments for Ecosystems Services - Payments for Environment Services,
economic tool, integrated approach
1 Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
88 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
I. MỞ ĐẦU
Trái đất là một phức hệ năng động của
các quần xã động-thực vật và vi sinh vật và
môi trường vô sinh, tương tác qua lại với tính
chất là một “đơn vị”. Và, con người là bộ phận
không thể tách rời của trái đất. Về mặt bản
chất, có thể xem trái đất là một hệ sinh thái
– hệ sinh thái toàn cầu, gồm nhiều hệ sinh
thái tiểu phần. Để duy trì đời sống, con người
luôn tìm kiếm các cung ứng khác nhau từ
những hệ sinh thái này và do vậy nhận lại
các hệ sinh thái ở những trạng thái liên
quan đến khả năng của chúng trong việc
cung cấp các cung ứng được mong đợi.
Theo đó, khái nhiệm “dịch vụ hệ sinh thái”
đã được đề xuất vào khoảng những năm
đầu của thập kỷ 1980 [8] nhằm giúp hiểu rõ
hơn về việc sử dụng và quản lý môi trường
tự nhiên.
Cho đến nay, đã có nhiều công bố liên
quan đến “dịch vụ sinh thái” trên thế giới.
Tuy nhiên, vấn đề này ở Việt Nam vẫn còn
tương đối mới. Bài viết này giới thiệu về
khái niệm dịch vụ hệ sinh thái và một số ví
dụ vận dụng liên quan đến dịch vụ hệ sinh
thái biển ở Việt Nam.
II. NỘI DUNG
1. Dịch vụ hệ sinh thái - một phương
thức tiếp cận đa lĩnh vực trong quản lý
môi trường tự nhiên
Các định nghĩa của Wallace (2007) và
Fisher và Turner (2008) cho thấy dịch vụ
hệ sinh thái được tiếp cận theo nhiều cách
khác nhau. Tổng quát, dịch vụ sinh thái
là những lợi ích con người đạt được từ
hệ sinh thái [5] hoặc dịch vụ sinh thái
là những lợi ích của tự nhiên đối với các
hộ gia đình, cộng đồng và ngành kinh
tế [11]. Về mặt bản chất, có thể hiểu các
dịch vụ hệ sinh thái là những điều kiện
và các tiến trình mà thông qua đó các hệ
sinh thái hỗ trợ và đáp ứng đời sống con
người trực tiếp hoặc gián tiếp dựa trên hoạt
động chức năng của hệ. Các hệ sinh thái
cung ứng một “dòng chảy” các “hàng hóa”
và “dịch vụ” có tính thiết yếu đối với sự sống
và các lợi ích khác của xã hội loài người.
Bất chấp điều đó, các dịch vụ hệ sinh thái
có xung hướng bị đánh giá thấp bởi xã hội.
Những lý do bao gồm thiếu thông tin đầy đủ
và kiến thức thỏa đáng về các chức năng
của hệ sinh thái cũng như những lợi ích
chúng tạo ra cho xã hội, và không tồn tại
bất kỳ thị trường chính thức nào đối với các
dịch vụ hệ sinh thái [14]. Trong khi việc khai
thác các dịch vụ sinh thái được thực hiện ở
nhiều quy mô khác nhau (địa phương, khu
vực và toàn cầu) cho nhiều nhóm khác nhau
(các cá nhân, công ty thương mại và lĩnh
vực công cộng) [1].
Cũng có thể xem các dịch vụ sinh thái
là những tiến trình mà nhờ đó môi trường
tự nhiên tạo ra các tài nguyên và lợi ích
được sử dụng bởi con người. Dựa theo
đó, Alcamo và cộng sự (2003) chỉ ra rằng
những dịch vụ hệ sinh thái bao gồm các
nhóm dịch vụ cung ứng, điều phối, văn hóa
và hỗ trợ (provisioning, regulating, cultural
and suppoting services) được tóm tắt theo
bảng dưới đây:
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 89
Theo khía cạnh quản lý môi trường, việc
đánh giá điều kiện của các hệ sinh thái, khả
năng cung ứng các dịch vụ, và mối tương
quan của chúng với đời sống của con người
đòi hỏi một cách tiếp cận tổng hợp. Thống
nhất với quan điểm phát triển bền vững, điều
này cho phép tiến trình ra quyết định để xác
định dịch vụ nào hoặc tập hợp những dịch vụ
nào được đánh giá cao nhất và làm thế nào
phát triển các phương thức tiếp cận nhằm
duy trì các dịch vụ bằng cách quản lý tính bền
vững của hệ thống.
Mọi bộ phận của trái đất đều có khả năng
tạo ra hàng loạt các dịch vụ hệ sinh thái. Tuy
nhiên, chính sự can thiệp của con người có thể
làm tăng một số dịch vụ hệ sinh thái nào đó,
thông thường với mức “chi trả” của các dịch
vụ hệ sinh thái khác. Ví dụ, các can thiệp của
con người đã gia tăng một cách kịch tính các
dịch vụ cung cấp thực phẩm thông qua việc
áp dụng các kỹ thuật/công nghệ sản xuất nông
nghiệp mặc dù điều này đã đưa đến những
thay đổi đối với các dịch vụ khác cụ thể như là
điều hòa lượng nước trên hành tinh [5].
Mặc dù có nhiều đặc trưng về động học hệ
sinh thái (như là tính chống chịu, tính nhạy cảm,
tính bền vững,), báo cáo “Đánh giá Hệ sinh
thái thiên niên kỷ phạm vi toàn cầu” (the global
Millennium Ecosystem Assessment - MA)
chỉ ra rằng có 3 đặc trưng của các dịch vụ hệ
sinh thái có tính chất quan trọng trong việc đánh
giá khả năng khai thác những dịch vụ này, đó
là sự thay đổi (variability), khả năng phục hồi
(resilience) và ngưỡng giới hạn (threshold).
Trong khi các mục tiêu quản lý thường được
nhìn nhận theo nghĩa nguồn cung cấp nguyên
liệu (stocks) hoặc “dòng chảy” (fl ow) năng
lượng – vật chất, việc làm giảm sự thay đổi của
hệ thống và cải thiện khả năng dự báo thường
được xem là những bộ phận chủ chốt của các
chiến lược quản lý. Mặt khác, “chi phí” dành
cho các lợi ích của con người từ việc khai thác
các hệ sinh thái thường rất nghiêm trọng. Do
vậy, con người phải khảo sát không chỉ mức
độ nguồn cung cấp nguyên liệu (stocks) hoặc
“dòng chảy” năng lượng – vật chất của (các)
hệ sinh thái mà còn khả năng ổn định của
chúng (dẫn theo [5]).
Bảng 1. Phân loại các dịch vụ sinh thái
Các dịch vụ cung ứng
Những sản phẩm thu được
từ các hệ sinh thái
- Thực phẩm
- Nước ngọt
- Củi đốt/than củi
- Tơ sợi
- Các chất có hoạt tính sinh học
- Tài nguyên di truyền/Nguồn gen
Các dịch vụ điều hòa/kiểm soát
Những lợi ích đạt được từ sự điều
phối các tiến trình sinh thái
- Điều hòa khí hậu
- Kiểm soát dịch bệnh
- Điều tiết nước
- Tinh lọc nước
- Thụ phấn
Các dịch vụ văn hóa
Những lợi ích phi vật chất
đạt được từ các hệ sinh thái
- Tinh thần và đức tin
- Giải trí và du lịch sinh thái
- Thẩm mỹ
- Truyền/tạo cảm hứng
- Giáo dục
- Cảm giác/ý nghĩa về nơi chốn
- Di sản văn hóa
Các dịch vụ hỗ trợ
Những dịch vụ cần thiết đối với việc tạo nên tất cả các dịch vụ sinh thái khác
- Hình thành đất
- Thực hiện các chu trình dinh dưỡng
- Sản xuất sơ cấp
*Nguồn: [5]
90 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
Để khai thác những lợi ích từ các hệ sinh
thái, con người đã đưa ra các sự lựa chọn hay
quyết định về quản lý liên quan đến những hệ
sinh thái. Do đó, các quyết định hay sự lựa
chọn về quản lý thường làm thay đổi chức
năng và dịch vụ mà hệ sinh thái cung cấp [4].
Theo đó, thuật ngữ “đánh đổi dịch vụ hệ sinh
thái” dần trở nên phổ biến trên thế giới và Việt
Nam. Trong thực tế, nhiều sự thay thế mang
tính khả dụng đối với các dịch vụ hệ sinh thái,
tuy nhiên thông thường chi phí của một thay
thế mang tính công nghệ sẽ rất cao và có thể
không thay thế được tất cả các dịch vụ bị mất
mát [5]. Ví dụ, những nhà máy xử lý nước hiện
nay có thể thay thế các hệ sinh thái trong việc
cung cấp nước sạch mặc dù điều này có thể
đắt và không khắc phục được những tác động
của ô nhiễm nước đối với những hợp phần
khác của hệ sinh thái và các dịch vụ mà nó
cung ứng. Một “kết quả” khác của việc thay thế
là thông thường các cá nhân đạt được lợi ích
không phải là những người thụ hưởng ban đầu
từ các dịch vụ hệ sinh thái [14]. Trong bối cảnh
đó, các quyết định mang tính đôi bên cùng
Hình 1. Minh họa việc phân tích các dịch vụ hệ sinh thái
(Nguồn: Mô phỏng [5])
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 91
có lợi được áp dụng phổ biến mang tính thỏa
hiệp và lý tưởng hóa các quyết định khó khăn.
Tuy nhiên, cách tiếp cận thỏa hiệp này đã và
đang dẫn đến nhiều hệ lụy và thách thức cho
nhà quản lý và đòi hỏi một sự nhìn nhận thấu
đáo từ nhiều khía cạnh trong quá trình ra quyết
định [4]. Do vậy, một đánh giá đầy đủ về các hệ
sinh thái và những dịch vụ của nó phải xem xét
những vấn đề sau đây [5]:
- Thông tin về chi phí của việc thay thế,
- Chi phí cơ hội của việc duy trì dịch vụ,
- Các chi phí và tác động qua lại của các
dịch vụ, và
- Các tác động mang tính phân bổ của bất
kỳ sự thay thế nào.
Hiện nay một thuật ngữ được sử dụng
trong việc quản lý và khai thác các hệ sinh thái
là “tiếp cận dịch vụ hệ sinh thái”. “Tiếp cận dịch
vụ hệ sinh thái” được định nghĩa là sự lồng
ghép dịch vụ hệ sinh thái trong việc ra quyết
định bằng cách sử dụng các công cụ đánh giá
khoa học để xem xét sự phụ thuộc và tác động
của con người tới dịch vụ hệ sinh thái và lồng
ghép các giá trị dịch vụ hệ sinh thái vào việc ra
quyết định [4].
2. Định giá các dịch vụ sinh thái
Cho đến nay vấn đề định giá các dịch vụ
sinh thái vẫn đang được phát triển. Groot và
cộng sự (2010) đề xuất rằng tổng các giá trị sử
dụng và không sử dụng gắn liền với một loại tài
nguyên hoặc một khía cạnh môi trường được
gọi là Tổng giá trị kinh tế (Total Economic value
– TEV) [13]. Tuy nhiên, giá trị tài chính (tính
thành tiền) chỉ thể hiện một phần giá trị thật
hoặc tổng giá trị của những dịch vụ hệ sinh thái
này. Theo các tác giả, có nhiều phương thức
chuyển đổi giá trị kinh tế và một số giá trị văn
hóa – xã hội thành giá trị tài chính (tính thành
tiền). Điển hình là giá thị trường (giá trị biên tế
- marginal values) tồn tại đối với nhiều dịch vụ
hệ sinh thái, đặc biệt đối với việc cung cấp các
“dịch vụ cung ứng” như là thủy sản và những
sản phẩm chiết xuất từ thủy sản hoặc gỗ và các
sản phẩm rừng khác,... Giá trị của những dịch vụ
khác cũng thường được thể hiện qua thị
trường nhưng theo phương thức gián tiếp mà
chúng có thể được đo lường thông qua những
phương pháp khác, ví dụ phương pháp chi phí
tổn thất (damage cost methods – đối với các
dịch vụ điều hòa/kiểm soát), và các phương
pháp xác định giá ẩn (giá bóng – hedonic
pricing) và chi phí du hành (travel cost) đối với
một số dịch vụ văn hóa như là các cảnh quan
thưởng ngoạn. Việc định giá phát sinh (định
giá ngẫu nhiên – contingent valuation, ví dụ
đánh giá sự ưa thích dựa trên bộ câu hỏi) và
chuyển dạng lợi ích (benefi t transfer, ví dụ sử
dụng dữ liệu từ các nghiên cứu so sánh) cung
cấp những lựa chọn khác trong việc định giá
các dịch vụ sinh thái. Mỗi một phương pháp
có những thuận lợi và bất thuận lợi riêng và
mặc dù kiến thức dựa trên giá trị tài chính
đang được cải thiện; vẫn còn những khoảng
trống về dữ liệu đòi hỏi các khung hoạt động
(framework), mô hình (model) và cơ sở dữ liệu
tốt hơn để tính toán Tổng giá trị kinh tế của các
hệ sinh thái toàn vẹn và toàn bộ các dịch vụ mà
chúng cung ứng [13].
Một ví dụ điển hình của nghiên cứu phát
triển việc định giá các dịch vụ sinh thái là
công bố gần đây của Sumarga và cộng sự
(2015). Các tác giả đã áp dụng hai cách tiếp
cận định giá chủ yếu đối với các dịch vụ hệ
sinh thái trong nghiên cứu cụ thể tại Central
Kalimantan, Indonesia. Theo đó, việc phân
tích những dịch vụ cung ứng và giải trí dựa
trên nguồn tài nguyên cho thuê, và việc định
giá các dịch vụ điều hòa là đồng hóa carbon
(carbon sequestration) và sinh cảnh của nhóm
linh trưởng địa phương được dựa trên tiếp
cận dựa vào chi phí. Cụ thể, việc định giá các
dịch vụ cung ứng được tính dựa trên nguồn
tài nguyên cho thuê theo công thức sau:
RR = TR – (IC + LC + UCF) với: RR (Resource
Rent): Nguồn tài nguyên cho thuê, TR (Total
revenue): Tổng doanh thu, IC (Intermediate
consumption): Chi phí trung gian, LC (Labour
cost = wages): Chi phí lao động (tiền công),
UCF (User cost of fi xed assets): Khấu hao
92 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
tài sản cố định. Đối với dịch vụ điều hòa – kiểm
soát là đồng hóa carbon, các tác giả đã áp dụng
giá trị chi phí xã hội về carbon (Social cost of
carbon – SCC) năm 2010 là 32 USD/tấn CO2
để tính toán. Về nhóm các dịch vụ văn hóa, giá
trị giải trí tự nhiên được đánh giá dựa trên phí
đầu vào của du khách và doanh thu của ngành
du lịch sinh thái địa phương. Về khía cạnh đa
dạng sinh học, cụ thể trong nghiên cứu là sinh
cảnh của nhóm linh trưởng, các tác giả đã áp
dụng “phương pháp định giá theo chuỗi thời
gian” (following valuation method) bằng cách
phân tích những chi phí liên quan đến phục hồi
sinh cảnh của quần thể sinh vật được bảo tồn.
3. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái – thực tiễn áp
dụng đối với quản lý môi trường biển
Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (Payments
for Ecosystems Services-PES) hay còn gọi
là chi trả dịch vụ môi trường (Payments for
Environment Services-PES) là một công cụ
kinh tế, sử dụng để những người được hưởng
lợi từ các dịch vụ hệ sinh thái chi trả cho những
người tham gia duy trì, bảo vệ và phát triển
các chức năng của hệ sinh thái đó [1], [3]. Chi
trả dịch vụ hệ sinh thái được xem là cơ chế
nhằm thúc đẩy việc tạo ra và sử dụng các dịch
vụ sinh thái bằng cách kết nối người cung cấp
dịch vụ và người sử dụng dịch vụ hệ sinh thái.
Hình 2. Khái niệm về những kết nối giữa cấu trúc và các chức năng của hệ sinh thái, dịch vụ hệ sinh thái,
sản phẩm – hàng hóa, áp lực và chính sách
Nguồn: [6] (phỏng theo Haines –Young và Potschin, 2010)
*: - Marine Strategy Framework Directive (MFSD): Hướng dẫn khung hoạt động chiến lược về biển
- Water Framework Directive (WFD): Hướng dẫn khung hoạt động về nước
- Baltic Sea Action Plan (BSAP): Kế hoạch hành động biển Baltic
Theo Huỳnh Thị Mai (2008) bốn loại dịch
vụ là bảo vệ đầu nguồn, bảo tồn đa dạng
sinh học, du lịch sinh thái và hấp thụ carbon
bước đầu được thực hiện trong một số dự án
nghiên cứu, đánh giá tiềm năng và thí điểm
các mô hình PES ở Việt Nam [3]. Theo đó, Việt
Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể
về việc áp dụng PES ở môi trường trên cạn
thông qua các mô hình và điểm trình diễn.
Đối tượng phải chi trả là: Chính phủ trả cho
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 93
dịch vụ công (trồng rừng, rừng ngập mặn ven
biển, rừng chắn sóng ven biển); các nhà
máy điện, công ty sử dụng nước, người sử
dụng dịch vụ do hệ sinh thái mang lại Có hai
hình thức chi trả dịch vụ hệ sinh thái bao gồm:
Chi trả trực tiếp (chi trả bằng tiền cho bên cung
cấp dịch vụ, ví dụ: phí sử dụng nước, phí du
lịch sinh thái, trả cho cộng đồng tham gia.)
và Chi trả gián tiếp (không trả bằng tiền mặt
mà tạo quyền sở hữu đất, xây dựng cơ sở hạ
tầng) [1]. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa tìm
thấy nhiều công bố đề cập cụ thể đến vấn đề
định giá các dịch vụ hệ sinh thái ở Việt Nam.
Về mặt lý thuyết, có thể vận dụng các chỉ báo
tiềm năng được nêu trong công bố của Groot
và cộng sự (2010) để định giá những dịch vụ
sinh thái theo giá thị trường; ví dụ giá trị dịch
vụ cung ứng thực phẩm được tính toán dựa
trên tổng số hoặc trung bình lượng nguyên liệu
tính theo kg/ha được xác định dựa trên năng
suất thật (năng suất nguyên - Net productivity)
(kg/ha/năm hoặc tính theo đơn vị khác), giá
trị dịch vụ cung ứng nước được tính dựa trên
lượng nước được khai thác tối đa (m3/ha/
năm), hay các sản phẩm hóa sinh chiết xuất
và nguồn dược liệu cũng như nguồn nguyên
liệu di truyền (nguồn gen đề kháng mầm bệnh)
được xác định theo lượng thu hoạch bền vững
tối đa tính theo tổng sinh khối/diện tích/thời
gian (kg/ha/năm),
Đối với việc áp dụng PES biển, trên phạm
vi thế giới chỉ có một số dịch vụ hệ sinh thái
biển chủ đạo được xem xét bao gồm duy trì
và ổn định đường bờ, bãi biển; cung cấp các
bãi giống, bãi đẻ hải sản ven biển; hấp thụ
carbon; duy trì chất lượng nước; bảo tồn đa
dạng sinh học biển [2]. Theo các tác giả, hiện
nay, ở Việt Nam hình thức phổ biến nhất là thu
phí dịch vụ tham quan đối với các khu bảo tồn
biển (Nha Trang, vườn quốc gia Côn Đảo, vịnh
Hạ Long). Bên cạnh đó, một vài địa phương
(ở Bến Tre, Nam Định, ) đang xây dựng
những thương hiệu xanh đối với các thủy hải
sản được nuôi trồng bằng các biện pháp kỹ
thuật thân thiện với môi trường. Giá bán trên
thị trường của các sản phẩm này đã bao gồm
một phần phí để chi trả cho công tác bảo tồn
tài nguyên sinh vật biển. Trong thực tế, việc
áp dụng PES biển ở Việt Nam còn hạn chế về
phạm vi và đối tượng áp dụng [3].
4. Nhu cầu nghiên cứu
Cho đến nay, việc vận dụng khái niệm
dịch vụ sinh thái và các vấn đề liên quan
(như tiếp cận dịch vụ sinh thái, định giá và
chi trả dịch vụ sinh thái) vào công tác quản
lý môi trường biển ở Việt Nam vẫn còn mới.
Bên cạnh những trường hợp nêu trên, vấn đề
nghiên cứu chi trả dịch vụ sinh thái đối với các
hoạt động nuôi biển, khai thác hải sản, cần
được đặt ra. Tuy nhiên, có thể nhìn thấy đây
là vấn đề phức tạp đòi hỏi kiến thức đa ngành
và kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu và
cũng như những nhà quản lý. Theo đó, yêu
cầu nghiên cứu liên ngành có tầm quan trọng
để xây dựng phương pháp luận trong việc hỗ
trợ đưa ra các quyết định nhằm khai thác bền
vững các hệ sinh thái biển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Văn Hưng, 2013. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái và khả năng áp dụng tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Phát
triển 2013, tập 11, số 3: 337-344. (J. Sci. & Devel., Vol. 11, No. 3: 337-344)
2. Nguyễn Thị Hương Liên, Nguyễn Văn Quân, 2014. Hướng tới phát triển công cụ chi trả dịch vụ hệ sinh thái biển
ở Việt Nam. Tạp chí Môi trường, số 6-2014.
94 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 3/2017
3. Huỳnh Thị Mai, 2008. Chi trả dịch vụ hệ sinh thái - Giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học. Ban Quản lý tài nguyên
và đa dạng sinh học. Viện Chiến lược, chính sách và môi trường (Institute of Strategy and Policy on Natural
resources and environment).
4. Hoàng Văn Thắng, Trần Chí Trung, 2012. Tiếp cận dịch vụ hệ sinh thái và đánh đổi giữa các dịch vụ hệ sinh thái
hướng tới phát triển bền vững. Trung tâm Nghiên cứu Tài Nguyên và Môi trường - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tiếng Anh
5. Alcamo J. et al. 2003. Ecosystem and Human well-being: A frame work for assessment (Millennium Ecosysem
Assessment Series). Island Press.
6. Berit Hasler, Heini Ahtiainen, Linus Hasselström, Anna�Stiina Heiskanen, Åsa Soutukorva and Louise
Martinsen, 2016. Marine Ecosystem Service - Marine ecosystem services in Nordic marine waters and the Baltic
Sea – possibilities for valuation. Nordic Council of Ministers. ISSN 0908-6692
7. Brendan Fisher, R. Kerry Turner, 2008. Ecosystem services: Classifi cation for valuation. Biological conservation
141 (2008) 1167 – 1169. Elsevier.
8. Brendan Fisher, R. Kerry Turner, Paul Morling, 2009. Defi ning and classifying ecosystem services for decision
making. Ecological Economics (2009) 643– 653. Elsevier.
9. Elham Sumarga, Las Hein, Bram Edens, Aritta Suwarno; 2015. Mapping monetary values of ecosystem services
in support of of developing ecosystem accounts. Ecosystem services 12 (2015) 71 – 83. Elsevier.
10. José Sarukhán and Anne Whyte (co-chairs) and MA Board of Review Editors, 2005. Ecosystem and Human
well-being – General Synthesis - A Report of the Millennium Ecosystem Assessment. Island Press.
11. Jame Boyd and Spencer Benzahf, 2007. Analysis – What are ecosystem services? The need for environmental
accounting units. Ecological economics (2007) 616 – 625.
12. Ken J. Wallace, 2007. Review – Classifi cation of ecosystem services: Problems and solutions. Biological
conservation 139 (2007) 235 – 246. Elsevier.
13. R. S. de Groot, R. Alkemade, L. Braat, L. Hein, L. Willemen; 2010. Challenges in integrating the concept of
ecosystem services and values in landscape planning, management and decision making. Ecological Complexity
7 (2010) 260–272. Elsevier.
14. Stephen R. Carpenter, Harold A. Mooney, John Agard, Doris Capistrano, Ruth S. DeFries, Sandra Díaz, Thomas
Dietz, Anantha K. Duraiappah, Alfred Oteng-Yeboah, Henrique Miguel Pereira, Charles Perrings, Walter V.
Reid, José Sarukhan, Robert J. Scholes and Anne Whyte; 2009. Science for managing ecosystem services:
Beyond the Millennium Ecosystem Assessment. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United
States of America. doi: 10.1073/pnas.0808772106
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dich_vu_he_sinh_thai_mot_tiep_can_ket_hop_trong_quan_ly_moi.pdf