Tóm tắt: Bài viết này giúp bạn khởi đầu bằng việc phát triển một ứng dụng đơn
giản, HelloDocument, với FileNet® P8 Content API (API Nội dung FileNet P8)
của IBM®. Thông qua một chuỗi các hoạt động đơn giản, hãy tìm hiểu cách sử
dụng các mô hình mã hóa để thực hiện một loạt các hoạt động riêng của bạn. Các
API P8 có thể mở rộng và để biết cách khởi đầu cần có một chút khéo léo với
những người mới bắt đầu. Bài viết này cung cấp cho bạn sự khởi đầu đó: một định
hướng và bệ phóng mà từ đó bạn có thể dễ dàng xây dựng các ứng dụng riêng của
mình. Thậm chí nếu bạn đã quen với việc phát triển P8, chắc chắn bạn sẽ tìm thấy
thông tin có ích trong bài viết này và các bài viết tiếp theo trong loạt bài này. Các
bài viết trong sắp tới trong loạt bài này đi sâu hơn về các chủ đề cụ thể trong cả hai
API quy trình và API nội dung.
31 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2016 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Viết mã thú vị với các API FileNet P8 của IBM - Phần 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Viết mã thú vị với các API FileNet P8 của IBM, Phần 1: Hello, Document!
Bắt đầu với chương trình FileNet P8 đầu tiên của bạn
Bill Carpenter, Kiến trúc sư phần mềm ECM, IBM
Tóm tắt: Bài viết này giúp bạn khởi đầu bằng việc phát triển một ứng dụng đơn
giản, HelloDocument, với FileNet® P8 Content API (API Nội dung FileNet P8)
của IBM®. Thông qua một chuỗi các hoạt động đơn giản, hãy tìm hiểu cách sử
dụng các mô hình mã hóa để thực hiện một loạt các hoạt động riêng của bạn. Các
API P8 có thể mở rộng và để biết cách khởi đầu cần có một chút khéo léo với
những người mới bắt đầu. Bài viết này cung cấp cho bạn sự khởi đầu đó: một định
hướng và bệ phóng mà từ đó bạn có thể dễ dàng xây dựng các ứng dụng riêng của
mình. Thậm chí nếu bạn đã quen với việc phát triển P8, chắc chắn bạn sẽ tìm thấy
thông tin có ích trong bài viết này và các bài viết tiếp theo trong loạt bài này. Các
bài viết trong sắp tới trong loạt bài này đi sâu hơn về các chủ đề cụ thể trong cả hai
API quy trình và API nội dung.
Hãy làm quen với HelloDocument
Bộ e-kit (dụng cụ-điện tử) DB2 của IBM cho các người chuyên nghề cơ sở dữ
liệu
Tìm hiểu cách dễ dàng để được đào tạo và được cấp chứng chỉ với DB2 cho
Linux, UNIX và Windows với bộ e-kit DB2 của IBM cho những người chuyên
nghề cơ sở dữ liệu. Hãy đăng ký ngay bây giờ và mở rộng danh mục các kỹ năng
của bạn hoặc mở rộng sự hỗ trợ của nhà cung cấp DBMS của bạn để bao gồm cả
DB2.
Bài viết này cung cấp cho bạn một tổng quan về một ứng dụng FileNet P8 của
IBM đầy đủ, độc lập. P8 là một nền tảng của IBM về Quản lý nội dung doanh
nghiệp (ECM-Enterprise Content Management). Mặc dù hầu hết các chương trình
P8 trong thế giới thực là một phần của một khung công tác lớn hơn như J2EE hay
.Net, là một nhà phát triển, nhiều khả năng điểm bắt đầu có thể của bạn là một
chương trình độc lập. Bằng cách sử dụng một chương trình độc lập, bạn có thể tập
trung vào các chi tiết P8 mà không cần phải tập trung vào sự phức tạp của khung
công tác lớn hơn.
Ứng dụng ví dụ HelloDocument thực hiện một số nhiệm vụ, một số trong đó bạn
có thể không cần biết về nó, tuy nhiên, bạn có thể muốn làm một điều riêng biệt
nào đó trong ứng dụng đó. Ngoài ra, bạn có thể sử dụng các kỹ thuật được minh
họa trong mã này và mở rộng chúng để làm những việc phù hợp hơn với các
trường hợp sử dụng của mình. Có lẽ cũng quan trọng không kém, một khi bạn có
HelloDocument đang chạy, bạn có thể tự tin rằng môi trường của bạn được cấu
hình đúng. Điều này cho phép bạn sau đó tập trung vào các chi tiết ứng dụng của
mình mà không còn vương vấn nghi ngờ về môi trường của bạn nữa.
Để hiểu bài viết này, bạn cần có một sự hiểu biết cơ bản về Java™ và có thể làm
theo các mô tả của mã nguồn Java. Bài viết này không mô tả tất cả các dòng mã
của HelloDocument.java mà, thay vào đó, đi vào những điểm nổi bật để minh họa
các quan điểm API của Máy nội dung (CE-Content Engine). Mã này có rất nhiều
chú thích và nếu bạn thích phiêu lưu, bạn có thể bỏ qua bài viết này và đi ngay vào
chính mã nguồn của nó (xem phần Tài nguyên).
HelloDocument được cấu trúc như một tệp nguồn Java duy nhất có 400-500 dòng.
Thậm chí khi tính đến nhiều chú thích trong mã nguồn, vẫn còn rất nhiều dòng chỉ
để làm quen. Có một số thứ trong HelloDocument.java mà bạn muốn di chuyển
vào các lớp hoặc các tệp nguồn riêng biệt . Chúng được trình bày tất cả ở một chỗ
duy nhất để cho bạn có thể chắc chắn là bạn có mọi thứ. Ví dụ, chuỗi đăng nhập
Dịch vụ xác thực và ủy quyền Java (JAAS) đầy đủ, bao gồm một lớp bên trong xử
lý các cuộc gọi lại, được bao gồm trong tệp nguồn HelloDocument.java. Điều đó
chắc chắn sẽ là một sự lựa chọn khác thường với một ứng dụng thực tế. Lớp
HelloDocument triển khai thực hiện giao diện PrivilegedAction và gói hầu hết
logic nghiệp vụ của mình bên trong một phương thức chạy chỉ để dễ dàng minh
họa mô hình đăng nhập JAAS rõ ràng. Logic nghiệp vụ cho HelloDocument hóa
ra không quá 50 -100 dòng.
Bài viết này được viết khi bản phát hành hiện tại trong lĩnh vực này đã là P8 4.0.1
và P8 4.5.0 đã đến cuối chu kỳ phát triển của nó. Mã này chạy được trong cả hai
bản phát hành. (Bài viết này và các bài viết khác trong loạt bài này không dành
nhiều thời gian cho các API từ P8 3.x. Trong một số trường hợp, các API này là
hoàn toàn khác nhau). Vì các lớp API và các phương thức được dùng làm lõi cho
các API, chúng rất ổn định. Nhiều khả năng là HelloDocument sẽ chạy mà không
cần thay đổi gì trong một số chu kỳ phát hành P8 sắp tới. HelloDocument được
viết bằng Java. Vì API của Content Java P8 khác với API của Content .Net P8 chủ
yếu trong quy ước đặt tên và các lý do phụ khác, nên để viết lại HelloDocument
bằng một ngôn ngữ .Net giống như C# sẽ chỉ là một việc chuyển chữ đơn giản.
(Trong lĩnh vực xác thực có sự không giống nhau giữa hai API. Mặc dù bài viết
này bàn về xác thực Java cho HelloDocument, nhưng việc thảo luận chung về xác
thực nằm ngoài phạm vi của bài viết này.)
Vậy thì, HelloDocument thực sự làm cái gì? Nó tạo ra một tài liệu, tải nội dung từ
một tệp lên, kiểm tra tệp và đặt tệp đó trong một thư mục. Sau đó nó đọc lại tệp đó
và so sánh nội dung được tải về với nội dung tệp gốc. Theo tùy chọn, bạn có thể
cấu hình ứng dụng để bỏ qua một phần của tệp trong quá trình tải về và so sánh.
Mặc dù việc tạo và lưu các tài liệu thành tệp là phổ biến cho nhiều trường hợp sử
dụng, nhưng lại không có các bước so sánh. Trong thực tế, bạn chưa bao giờ phải
kiểm tra nội dung mà bạn đã tải lên. Các phần bổ xung trong khi tải về chỉ có
nghĩa minh họa một số khía cạnh viết mã API. HelloDocument được thiết kế để
cho bạn không phải làm bất kỳ thiết lập cụ thể nào trong Máy nội dung (CE) trước
khi bạn chạy nó (ngoài việc bảo đảm chắc chắn rằng bạn có các quyền truy cập để
tạo các thư mục và các tài liệu mới). Một khi bạn có nó đang chạy trong môi
trường của mình, bạn có thể chạy nó nhiều lần mà không bị lỗi.
Cấu hình
Cấu hình nhúng
Một số các mục trong cấu hình điều khiển HelloDocument, chẳng hạn như URI
(Uniform Resource Identifier-Trình nhận dạng tài nguyên thống nhất) của kết nối
Máy nội dung (CE), là chung cho hầu hết các ứng dụng P8. Những mục khác là
dành riêng cho ví dụ HelloDocument. Trong một ứng dụng thực tế, bạn sẽ gần như
chắc chắn không mã hóa cứng các mục cấu hình này. Bạn sẽ sử dụng các đối số
dòng lệnh, một tệp cấu hình hoặc một số cơ chế khác để tách cấu hình ra khỏi mã
của chính ứng dụng. Để cho thuận tiện, HelloDocument định nghĩa tất cả các mục
cấu hình đó như là các hằng số trong một lớp bên trong tĩnh tên là ConfigInfo,
được hiển thị dưới dạng viết tắt trong Liệt kê 1. Ở đây bạn thấy các tham chiếu tới
ConfigInfo.SOME_VALUE rải rác trong mã đó, chúng đang tham chiếu đến các
hằng số này.
Liệt kê 1. Lớp bên trong tĩnh ConfigInfo
private static final class ConfigInfo
{
// . . .
/**
* This URI tells us how to find the CE and what protocol to use.
*/
static String CE_URI = "";
/**
* This ObjectStore must already exist.
*/
static String OBJECT_STORE_NAME = "MyObjectStore";
// . . .
}
Mỗi mục trong ConfigInfo có các chú thích giải thích cách sử dụng nó. Bạn nên
xem xét từng mục và đặt nó tới một giá trị thích hợp cho môi trường của bạn.
ConfigInfo
Các mục cấu hình khác
Vì đây là một bài viết về cách viết mã, nó không đi sâu vào nhiều chi tiết về cách
thiết lập đường dẫn lớp Java và các mục cấu hình bên ngoài khác của bạn. Tài liệu
về nền tảng P8 mô tả cách thiết lập một môi trường khách không rõ ràng. Nó là
khác với mỗi nhánh của máy chủ ứng dụng J2EE. Phần tương tự của tài liệu đó
cũng mô tả cách cấu hình các giá trị cài đặt JAAS của bạn. Các ví dụ và các hướng
dẫn trong phần còn lại của bài viết này dựa trên điều kiện mọi giá trị ấy được cấu
hình đúng.
Nhận hay tìm nạp?
Một đối tượng Java trong API không phải là thứ giống hệt như một đối tượng
trong một kho lưu trữ CE. Nó chỉ đại diện cho một tham chiếu đến đối tượng CE
qua đó bạn có thể kiểm tra các giá trị đặc tính, chuyển hướng bằng cách đi theo
các đặc tính do đối tượng định giá (các OVP) và thực hiện nhiều kiểu cập nhật. Sự
phối hợp thực sự giữa đối tượng API và đối tượng CE xảy ra khi API thực hiện
một chuyến đi khứ hồi (truyền dữ liệu khứ hồi) đến máy chủ. Số các chuyến đi
khứ hồi đến máy chủ nhiều lần là yếu tố chi phối hiệu năng của một ứng dụng, vì
vậy API cung cấp việc kiểm soát chặt chẽ hơn khi các chuyến đi khứ hồi thực sự
xảy ra và dữ liệu nào truyền trên dây cho mỗi chuyến đi khứ hồi ấy.
HelloDocument khá cẩn thận về giảm thiểu các chuyến đi khứ hồi, nhưng nó đặc
biệt không lưu ý về việc giảm thiểu số lượng dữ liệu liên quan đến các yêu cầu
hoặc các đáp ứng. Bạn có thể điều chỉnh các kích cỡ tải đó thông qua các bộ lọc
đặc tính và các cơ chế khác. Các bộ lọc đặc tính này được thảo luận chi tiết hơn
trong một bài viết sắp tới của loạt bài này. Bây giờ, tất cả mọi thứ mà bạn thực sự
cần biết là API được thiết kế để làm việc mà nếu bạn không sử dụng các bộ lọc
đặc tính thì cũng chẳng có gì bất ngờ cả. Một khi bạn có được một sự hiểu biết cơ
bản về API, chắc chắn bạn sẽ muốn sử dụng các bộ lọc đặc tính vì chúng có thể
cải thiện đáng kể hiệu năng, cả hai vừa bằng cách giảm kích cỡ tải trọng và vừa
bằng cách kết hợp một số chuyến đi khứ hồi.
Khi bạn đang tạo một đối tượng Java, API có một quy ước có ích. Các tên của các
phương thức factory (nhà máy) (và một số các kiểu phương thức khác) sử dụng
tiền tố get (nhận) để biểu thị một hoạt động cục bộ và tiền tố fetch (tìm nạp) để
biểu thị rằng một chuyến đi khứ hồi sẽ được thực hiện với máy chủ CE. (Cũng có
một động từ thứ ba nữa: create (tạo) được sử dụng khi ý định của bạn không chỉ là
tạo một đối tượng Java, mà còn là tạo một đối tượng CE mới trong một kho lưu trữ
hoặc ở nơi nào đó khác). Trong biệt ngữ API, việc tạo một đối tượng Java mà
không có một chuyến đi khứ hồi đến máy chủ được gọi là fetchless instantiation
(tạo đối tượng không tìm nạp). Vì vậy, ví dụ, conn =
Factory.Connection.getConnection(ConfigInfo.CE_URI) là cục bộ. Ở nhiều vị trí
trong mã nguồn HelloDocument, một chú thích no R/T được sử dụng để nhấn
mạnh đến việc tạo đối tượng không tìm nạp hoặc hoạt động khác mà một người
nào đó có thể ngây thơ nghĩ rằng cần có một chuyến đi khứ hồi. Lưu ý rằng các
phương thức get được sử dụng bất cứ nơi nào có thể.
Một điều kỳ lạ có thể xảy ra khi bạn sử dụng việc tạo đối tượng không tìm nạp.
API tin rằng các đối tượng CE mà bạn tham chiếu thực sự tồn tại. Nếu bạn thích
nó, bạn có thể nói dối hoàn toàn với API biết, mặc dù điều này thường không có
ích. Sự tính toán này chỉ cần đến khi một chuyến đi khứ hồi xảy ra liên quan đến
đối tượng đó. Tại thời điểm đó, máy chủ CE chấp nhận một cách có phương thức
các tham chiếu đối tượng của bạn với các đối tượng CE thực tế. Đương nhiên, việc
tạo ra một đối tượng CE là một trường hợp đặc biệt được xử lý theo cách bạn
mong đợi. Có một số trường hợp khác (nằm ngoài phạm vi của bài viết này), ở đó
có thể có ích để tham chiếu các đối tượng CE không tồn tại; chúng đơn thuần phải
tồn tại vào lúc CE nghe về chúng.
Điểm mấu chốt là bạn có được một cải tiến hiệu năng bằng cách sử dụng việc tạo
đối tượng không tìm nạp, nhưng các giá tương ứng phải trả là việc xử lý lỗi của
ứng dụng của bạn có thể phải đối phó với việc thiếu các đối tượng ở giai đoạn sau.
Trên thực tế, giá phải trả cho việc xử lý lỗi đó không quá nghiêm trọng.
Bắt đầu ObjectStore
Phương thức HelloDocument.run là nơi diễn ra logic nghiệp vụ chính từ trên
xuống. Việc bắt đầu của phương thức này, cùng với biến cá thể cho một
Connection (kết nối), minh họa một mô hình mã hóa rất phổ biến (xem Liệt kê 2).
Không nghi ngờ gì, hầu hết các ứng dụng nội dung chỉ xử lý các đối tượng bên
trong các kho lưu trữ CE và hầu hết trong số chúng chỉ xử lý một kho lưu trữ duy
nhất.
Liệt kê 2. HelloDocument.run và bạn bè
/**
* All interaction with the server will make use of this Connection object.
* Connections are actually stateless, so you don't have to worry about
* holding open some CE resource.
*
* no R/T
*/
private Connection conn =
Factory.Connection.getConnection(ConfigInfo.CE_URI);
// ...
/**
* This method contains the actual business logic. Authentication has
* already happened by the time we get here.
*/
public Object run()
{
// Standard Connection -> Domain -> ObjectStore
//no R/T
Domain dom = Factory.Domain.getInstance(conn, null);
//no R/T
ObjectStore os = Factory.ObjectStore.getInstance(dom,
ConfigInfo.OBJECT_STORE_NAME);
String containmentName = createAndFileDocument(dom, os);
File f = new File(ConfigInfo.LOCAL_FILE_NAME);
long fileSize = f.length();
System.out.println("Local content size is " + fileSize + " for file "
+ ConfigInfo.LOCAL_FILE_NAME);
long skipPoint = 0L;
if (ConfigInfo.USE_SKIP)
{
long midPoint = fileSize / 2;
// pick a random point in the second half of the content
skipPoint = midPoint + (long)Math.floor((Math.random() * midPoint));
}
System.out.println("Will skip to " + skipPoint + " of " + fileSize);
readAndCompareContent(os, containmentName, skipPoint);
return null;
}
Mô hình mã hóa để bắt đầu một ObjectStore như sau:
ObjectStore
1. Nhận một đối tượng Connection.
2. Nhận một đối tượng Domain.
3. Nhận một đối tượng ObjectStore.
Một đối tượng Connection là một lớp khá nhẹ. Nó nói cho API cách kết nối với
máy chủ CE. Vì các tương tác giữa API và máy chủ CE là không trạng thái theo
quan điểm của máy chủ CE, nên đối tượng Connection không duy trì mở bất kỳ tài
nguyên phía máy chủ đắt giá nào. Mục thông tin chính được duy trì trong đối
tượng Connection là URI được sử dụng. API suy diễn cả hai phương thức để nối
và định vị CE từ URI. Cụ thể là, bạn nên lưu ý đối tượng Connection không giữ
thông tin người dùng. Có thể thiết lập các tham số cấu hình bổ sung cho một đối
tượng Connection, nhưng cơ chế đó không được mô tả trong bài viết này.
Domain (miền) là một đối tượng giữ tài nguyên P8 ở mức ObjectStore hoặc trên
mức này. Để tạo một đối tượng Domain của Java, bạn cần một đối tượng
Connection và một tên miền. Hiện nay, một bản cài đặt P8 chỉ có một miền duy
nhất, do đó, API cho phép bạn chuyển một giá trị bằng không cho tên miền vào
phương thức Factory. Tên của miền được thiết lập trong thời gian cài đặt P8 và
nếu có lúc nào bạn muốn tìm hiểu về nó, thì bạn có thể xem xét giá trị đặc tính
Name của đối tượng Domain.
Một đối tượng ObjectStore biểu diễn một kho lưu trữ CE. Lưu ý rằng phương thức
Factory để tạo ra một đối tượng ObjectStore không lấy một đối tượng Connection.
Thay vào đó, nó lấy một đối tượng Domain. (Thật đúng khi nói rằng một đối
tượng Domain điều khiển một đối tượng ObjectStore, nhưng bài viết này không
nói nhiều hơn về các mục đích này). Ở bên trong, API sử dụng cùng một đối tượng
Connection cho đối tượng Domain và các đối tượng được tạo từ nó. Sau đó, khi
chính ObjectStore được sử dụng để tạo các đối tượng, đối tượng Connection sẽ tự
động được chuyển đi cùng với chúng trong các API.
Phần mã này cũng là một nơi thích hợp để lưu ý đến việc sử dụng các phương thức
factory nói chung. API của CE có một số lượng lớn các lớp factory (nhà máy): ước
chừng có một lớp factory cho mỗi lớp CE. Các lớp này được sắp xếp cho thuận
tiện vào các lớp lồng nhau bên trong lớp com.filenet.api.core.Factory. Để tìm ra
lớp factory cho bất kỳ lớp CE đặc biệt nào, hãy tìm kiếm bên trong Factory một
lớp bên trong có tên là Document (Tài liệu) hoặc Folder (Thư mục) hoặc bất cứ
lớp CE nào mà bạn đang tìm kiếm. Trong phạm vi lớp bên trong ấy, bạn sẽ tìm
thấy chỉ có một ít phương thức thích hợp để khởi tạo các đối tượng Java cho lớp
CE đó. Thật dễ dàng để tìm ra những tham số nào dành cho các phương thức nhà
máy này. Các phương thức nhà máy là an toàn-kiểu theo nghĩa là chúng trả về các
kiểu cụ thể. Ví dụ, các phương thức Factory.Folder mỗi phương thức trả về một
đối tượng kiểu Folder. Ý tưởng đằng sau các phương thức nhà máy và an toàn-
kiểu nói chung là để giảm các khả năng mắc lỗi lập trình. Vì bạn không phải phải
ép kiểu, có nhiều khả năng là trình biên dịch sẽ bắt được bất kỳ vấn đề nào. Điều
đó thích hợp hơn cho việc kiểm tra-kiểu thời gian chạy.
Có một họ các phương thức khác, nhỏ hơn (không được sử dụng nhiều trong
HelloDocument) đó là không an toàn-kiểu. Trong biệt ngữ API, đây là các phương
thức tiện nghi (commodity methods). Một ví dụ là phương thức
ObjectStore.getObject, có thể trả về các đối tượng của hầu như bất kỳ lớp CE độc
lập nào. Ý định của phương thức tiện nghi là để sử dụng trong các mô hình mã hóa
ứng dụng cụ thể xử lý nhiều kiểu theo một mẫu chung. Thường không có nhiều lý
do về việc sử dụng các phương thức tiện nghi khi bạn đang xử lý các kiểu cụ thể
được biết trước.
Tạo một cá thể Document mới
Tập hợp các dòng đầu tiên bên trong phương thức
HelloDocument.createAndFileDocument đặt nền móng cho việc tạo ra một tài liệu
mới có nội dung (xem Liệt kê 3). Ở cuối các dòng mã đó, cá thể Document Java
được chuẩn bị với hầu hết các hành động mà bạn muốn có, nhưng cá thể
Document của CE vẫn chưa được tạo ra (vì bạn vẫn chưa thực hiện chuyến đi khứ
hồi cần thiết tới máy chủ).
Liệt kê 3. Bên trong HelloDocument.createAndFileDocument, Phần 1
//no R/T
ContentTransfer ct = Factory.ContentTransfer.createInstance();
ct.setCaptureSource(fis);
// optional
ct.set_RetrievalName(ConfigInfo.LOCAL_FILE_NAME);
// optional
ct.set_ContentType("application/octet-stream");
ContentElementList cel = Factory.ContentElement.createList();
cel.add(ct);
//no R/T
Document doc = Factory.Document.createInstance(os, null);
//not required
doc.getProperties().putValue("DocumentTitle",
ConfigInfo.DOCUMENT_TITLE);
doc.set_ContentElements(cel);
//no R/T
doc.checkin(AutoClassify.DO_NOT_AUTO_CLASSIFY,
CheckinType.MAJOR_VERSION);
Chuỗi các hoạt động trong Liệt kê 3 có vẻ hơi khó hiểu cho đến khi bạn bắt đầu
biết mô hình đối tượng CE, đặc biệt là mối quan hệ giữa một cá thể Document và
nội dung của nó. Một đoạn nội dung duy nhất (ví dụ, một bảng tính hoặc một tài
liệu văn bản) nằm trong một đối tượng gọi là một content element (phần tử nội
dung). Cụ thể hơn, vì nội dung được lưu trữ trong kho lưu trữ với Document, nên
bạn sử dụng lớp con của phần tử nội dung gọi là ContentTransfer. (Lớp con khác,
ContentReference, được sử dụng khi các bit thực tế được lưu trữ ở một nơi khác).
Một Document có thể có số lượng phần tử nội dung bất kỳ và vì chúng là các đối
tượng phụ thuộc theo biệt ngữ của CE (chúng không thể tồn tại một mình; chúng
cần một Document chứa đựng), đặc tính Document ContentElements là kiểu
ContentElementList.
Bây giờ, hy vọng rằng, mọi thứ rõ ràng hơn một chút. Bạn sử dụng các phương
thức factory để tạo ra một đối tượng ContentTransfer, một đối tượng
ContentElementList, và một đối tượng Document. Bạn thêm đối tượng
ContentTransfer vào đối tượng ContentElementList, rồi bạn thiết lập giá trị đặc
tính ContentElements của Document từ ContentElementList. Có một chút linh
hoạt về trình tự làm những việc này, vì thế bạn có thể sắp xếp lại chúng trong ứng
dụng riêng của mình sao cho có ý nghĩa hơn.
Mã này là một minh chứng tốt về việc sử dụng các phương thức người truy cập
(accessor) của đặc tính an toàn-kiểu. Ví dụ, khi đặt tên truy tìm cho các phần tử
nội dung (một đặc tính tùy chọn dùng như là một tên tệp gợi ý cho các ứng dụng
sau đó tải về nội dung), bạn gọi
ct.set_RetrievalName(ConfigInfo.LOCAL_FILE_NAME). Phương thức đó chỉ
chấp nhận một đối số chuỗi ký tự, do đó, sẽ có một lỗi thời gian-biên dịch nếu bạn
cố sử dụng một số nguyên. Phương thức getter tương ứng,
ContentTransfer.get_RetrievalName, cũng an toàn-kiểu và trả về một giá trị chuỗi
ký tự. Quy ước đặt tên API Java của set_ và get_ (với một dấu gạch dưới) có tác
dụng như một tín hiệu để báo cho bạn biết bạn đang xử lý một đặc tính theo nghĩa
kho lưu trữ CE chứ không chỉ đơn thuần là một trường đối tượng Java điển hình.
Mỗi đặc tính do hệ thống định nghĩa trên mỗi lớp CE có các phương thức người
truy cập an toàn-kiểu. Đối với các đặc tính vốn dĩ chỉ đọc, không có phương thức
setter an toàn-kiểu nào.
Thiết lập về đặc tính DocumentTitle trông hơi khác một chút so với các cuộc gọi
phương thức setter khác: doc.getProperties().putValue("DocumentTitle",
ConfigInfo.DOCUMENT_TITLE). Điều gì đang xảy ra ở đây? Nhiều người
không nhận ra rằng DocumentTitle không phải là một đặc tính do hệ thống định
nghĩa (theo quan điểm máy chủ CE, ở đó có một đặc tính do hệ thống định nghĩa
là một đặc tính mà máy chủ CE tạo một giá trị cho nó hoặc nó có ảnh hưởng đến
hành vi của máy chủ CE hoặc cả hai). Thay vào đó, DocumentTitle được định
nghĩa thông qua một AddOn lúc tạo ObjectStore và bạn ít khi thấy một
ObjectStore không có đặc tính DocumentTitle.Tuy nhiên, vì nó không phải là một
đặc tính do hệ thống định nghĩa, không có phương thức người truy cập an toàn-
kiểu nào cho nó trong các API. Thay vào đó, bạn phải thiết lập giá trị của nó thông
qua một phương thức tiện nghi.
Phương thức Document.getProperties trả về một đối tượng Properties (Các đặc
tính) biểu diễn các giá trị đặc tính được lưu trữ trong bộ nhớ nhanh cục bộ cho
Document này và lớp Properties chứa các phương thức tiện nghi để nhận và thiết
lập các giá trị đặc tính. Trong bất kỳ ứng dụng thực tế nào, bạn chắc chắn sẽ xử lý
các thuộc tính tùy chỉnh, vì vậy bạn nên chắc chắn rằng bạn hiểu mô hình để truy
cập giá trị đặc tính tiện nghi.
Như đã đề cập ở trên, kể cả sau khi gọi phương thức checkin (đăng nhập),
Document vẫn chưa được tạo ra trong kho lưu trữ CE. Thay vào đó, nó được cho
là có một hoặc nhiều hành động đang treo. Một hành động đang treo là việc gắn
thẻ bên trong một đối tượng với một hoạt động cần được thực hiện trên máy chủ.
(Có các phương tiện trong API để xem xét các hành động đang treo, nhưng bạn sẽ
có thể chẳng bao giờ cần phải làm điều đó). Khi bạn gọi là phương thức factory để
tạo đối tượng Document của Java, nó sẽ tự động được gắn thẻ cho mình với hành
động đang treo Create (Tạo). Khi bạn đã gọi phương thức checkin, nó thêm hành
động đang treo Checkin. Đôi khi mọi người ngạc nhiên khi nhận thấy rằng đối với
tất cả các lớp trong toàn bộ API, chỉ có mười tám kiểu hành động đang treo. Con
số này là quá thấp vì các hoạt động trong CE thực sự bao gồm các hoạt động thông
thường CRUD (tạo, lấy ra, cập nhật, xóa) trên các đối tượng và các đặc tính. Việc
cập nhật một giá trị đặc tính, bất kể đặc tính hoặc lớp có liên quan, luôn được thực
hiện thông qua một hành động đang treo Update (Cập nhật) hoặc như là một phụ
trợ cho một số loại hành động đang treo khác. Bạn có thể nghĩ về các hành động
đang treo như là các tập lệnh cho các máy chủ CE; chúng ra lệnh cho máy chủ CE
phải làm gì với một đối tượng khi nó đến ở phía máy chủ.
Bây giờ hãy xem xét kỹ hơn một chút nữa về cuộc gọi phương thức checkin:
doc.checkin(AutoClassify.DO_NOT_AUTO_CLASSIFY,
CheckinType.MAJOR_VERSION). Nó nhận hai đối số được định nghĩa trong các
lớp hằng số riêng. Các lớp hằng số này với các giá trị tham số được mã hoá bằng
một mô hình bảng liệt kê an toàn-kiểu. Vì ban đầu API đã được viết cho một môi
trường 1.4 của Java và vẫn có thể hoạt động trong môi trường này, nên không có
sẵn các enum (bảng liệt kê) của ngôn ngữ Java. Các enum an toàn-kiểu bảo đảm
an toàn-kiểu của chúng bằng cách buộc bạn sử dụng các hằng số từ một danh sách
các lựa chọn thích hợp. Ví dụ, trình biên dịch Java không cho phép bạn vô tình
đảo ngược thứ tự của hai đối số cho phương thức checkin. Nó sẽ dẫn đến một lỗi
thời gian biên dịch thay vì một lỗi thời gian chạy. Nếu thiếu an toàn kiểu này, bạn
có thể nhận được hành vi không đúng và không có báo lỗi.
Lưu Document thành tệp
Lúc này, bài viết này quay lại việc tạo Folder, nhưng bây giờ chúng ta hãy xem
cách lưu Document thành tệp vào Folder đó. Có các phương thức trong API có tên
là Folder.file and Folder.unfile. Nhiều người đều ngạc nhiên rằng các phương thức
này thực sự là các phương thức của trình trợ giúp chứ không phải nguyên tắc cơ
bản với các API. Chắc chắn, quan niệm về việc lưu dữ liệu thành tệp trong các thư
mục là một tính năng CE cơ bản, nhưng hành động lưu dữ liệu thành tệp thực sự là
việc tạo ra một đối tượng quan hệ để liên kết Folder và thùng chứa với nhau. Dù vì
bất cứ lý do nào, thì ý tưởng này cùng mang lại cho nhiều người mới bắt đầu một
lý do để tạm dừng, vì vậy Liệt kê 4 cho thấy cách lưu Document thành tệp mà
không cần gọi phương thức Folder.file.
Liệt kê 4. Bên trong HelloDocument.createAndFileDocument, Phần 2
Folder folder = instantiateFolder(os);
//no R/T
DynamicReferentialContainmentRelationship rcr =
Factory.DynamicReferentialContainmentRelationship.createInstance(os, null,
AutoUniqueName.AUTO_UNIQUE,
DefineSecurityParentage.DO_NOT_DEFINE_SECURITY_PARENTAGE);
rcr.set_Tail(folder);
rcr.set_Head(doc);
rcr.set_ContainmentName(ConfigInfo.CONTAINMENT_NAME);
Lớp DynamicReferentialContainmentRelationship (DRCR) có một tên dài, nhưng
việc tạo ra nó lại dễ dàng. Nó liên kết một thư mục với một tài liệu được chứa
trong đó. Nếu bạn nghĩ về một hình ảnh đồ họa của mối quan hệ đó như là một
mũi tên trỏ từ Folder tới Document, bạn có thể thấy lý do tại sao OVP của mối
quan hệ đó liên kết với Folder có tên là Tail và OVP của mối quan hệ đó liên kết
với Document có tên là Head.
DRCR là động vì đặc tính Head của nó được cập nhật tự động khi Document đích
được tạo phiên bản. Để tạo DRCR, hãy gọi phương thức factory thích hợp,
phương thức này tạo ra một cá thể Java với một hành động đang treo Create rồi
thiết lập một vài thuộc tính hệ thống. Trong trường hợp này, hãy sử dụng
AutoUniqueName.AUTO_UNIQUE để ra lệnh cho máy chủ CE chỉnh sửa tên
thùng chứa trong trường hợp có xung đột (các tên thùng chứa phải là duy nhất
trong một Folder cụ thể). Một cách thay thế khác dành cho hoạt động có lỗi với
một ngoại lệ.
DRCR là lớp con tạo được, vì vậy một ngày nào đó bạn có thể thấy thật có ích để
tạo ra một lớp con và thêm một số đặc tính siêu dữ liệu riêng của bạn. Hãy nhớ
rằng DRCR vẫn chưa được tạo ra trong kho lưu trữ CE (và cả Document đích
cũng vậy).
Lưu vào kho lưu trữ
Cuối cùng, bây giờ là lúc để thực sự viết các thứ vào kho lưu trữ CE. Để gọi
phương thức lưu trữ trên Document và DRCR sẽ là chuyện đơn giản, nhưng để
cho phù hợp với chủ đích giảm thiểu các chuyến đi khứ hồi, hãy lưu lại cả hai
thông qua một UpdatingBatch (xem Liệt kê 5).
Liệt kê 5. Bên trong HelloDocument.createAndFileDocument, Phần 3
UpdatingBatch ub = UpdatingBatch.createUpdatingBatchInstance(dom,
RefreshMode.REFRESH);
ub.add(doc, null);
ub.add(rcr, null);
System.out.println("Doing updates via UpdatingBatch");
ub.updateBatch();
Việc sử dụng một UpdatingBatch theo khái niệm là đơn giản nếu bạn nghĩ về nó
như một cái thùng để mang những thứ này đến máy chủ CE. Bạn tạo cá thể
UpdatingBatch, thêm các đối tượng vào nó, rồi gọi phương thức updateBatch để
gửi tất cả mọi thứ đến máy chủ. Tất nhiên, việc được lưu trong kho lưu trữ CE chỉ
có nghĩa là thêm các đối tượng có thay đổi. Bên cạnh việc giảm thiểu các chuyến
đi khứ hồi, UpdatingBatch cũng có đặc tính quan trọng khác. Mọi thứ trong một
UpdatingBatch xảy ra như là một giao dịch nguyên tử trên máy chủ. Hoặc là tất cả
thành công hay tất cả thất bại. Điều đó không quan trọng với HelloDocument,
nhưng thật bình thường để tìm các trường hợp sử dụng thực sự cần có hành vi giao
dịch đó. UpdatingBatch là một cách tốt để có được điều này với chi phí hiệu năng
hợp lý.
Khi chúng ta đã tạo ra UpdatingBatch, chúng ta đã cung cấp một đối số để nói cho
API trả về các cá thể đối tượng được làm mới từ một chuyến đi khứ hồi đến máy
chủ. Thông thường, bạn sẽ không cần phải làm mới các đối tượng (hoặc bạn sẽ sử
dụng các bộ lọc đặc tính để hạn chế kích cỡ của việc làm mới), nhưng trong
trường hợp này chúng ta đã muốn sử dụng tên thùng chứa để minh họa cho một
cái gì đó khác trong HelloDocument. Vì chúng ta đã ra lệnh cho máy chủ tự động
chọn một tên thùng chứa duy nhất, nó có thể là khác với một tên mà chúng ta đã
sử dụng với DRCR. Giá trị đặc tính được làm mới cho chúng ta biết máy chủ CE
thực tế đã sử dụng cái gì.
Tạo Folder
Chúng ta đã bỏ qua việc tạo đối tượng Folder, do đó, bây giờ chúng ta hãy quay lại
điều đó. Liệt kê 6 cho thấy HelloDocument.instatiateFolder.
Liệt kê 6. HelloDocument.instantiateFolder
private Folder instantiateFolder(ObjectStore os)
{
Folder folder = null;
try
{
//no R/T
folder = Factory.Folder.createInstance(os, null);
//no R/T
Folder rootFolder = Factory.Folder.getInstance(os, null, "/");
folder.set_Parent(rootFolder);
folder.set_FolderName(ConfigInfo.FOLDER_NAME);
//R/T
folder.save(RefreshMode.NO_REFRESH);
}
catch (EngineRuntimeException ere)
{
// Create failed. See if it's because the folder exists.
ExceptionCode code = ere.getExceptionCode();
if (code != ExceptionCode.E_NOT_UNIQUE)
{
throw ere;
}
System.out.println("Folder already exists: /" +
ConfigInfo.FOLDER_NAME);
//no R/T
folder = Factory.Folder.getInstance(os, null, "/" +
ConfigInfo.FOLDER_NAME);
}
return folder;
}
Việc thực hiện phương thức instantiateFolder hơi nhân tạo một chút vì chúng ta
muốn làm cho việc chạy HelloDocument nhiều lần không có sự cố và không cần
bất kỳ sự thiết lập sẵn nào. Lựa chọn mà chúng ta đã làm là cố gắng để tạo ra
Folder và quay trở lại việc tạo không tìm nạp nếu điều đó thất bại. Bạn có thể
không làm điều đó trong một ứng dụng thực tế bởi vì cách làm này hầu như luôn
không hiệu quả. Một cách làm khác là bạn thực sự có thể thực hiện tìm nạp Folder
và quay lại để tạo nó nếu nó chưa tồn tại. Cách làm này vẫn đòi hỏi một chuyến đi
khứ hồi để kiểm tra sự tồn tại của Folder (mà ứng dụng của bạn có thể biết nó tồn
tại trong phần lớn thời gian). Vì vậy, có lẽ giải pháp tốt nhất, về mặt hiệu năng, là
tạo Folder theo cách không tìm nạp với giả định rằng nó đã tồn tại trong kho lưu
trữ. Điều đó có nghĩa là bạn sẽ cần phải điều chỉnh việc xử lý lỗi trong đoạn mã
tiếp sau tính đến khả năng là nó thực sự không tồn tại. (Chúng ta không muốn làm
hỗn loạn ví dụ này với sự phức tạp trong mã xử lý lỗi.)
Đọc nội dung
Bài viết này không dành nhiều thời gian mô tả việc đọc nội dung từ kho lưu trữ do
hầu hết logic chỉ là việc xử lý luồng theo kiểu Java. Thay vào đó, chúng ta sẽ chỉ
làm nổi bật một vài điểm bắt đầu với Liệt kê 7.
Liệt kê 7. Bên trong HelloDocument.readAndCompareContent
String fullPath = "/" + ConfigInfo.FOLDER_NAME + "/" + containmentName;
System.out.println("Document: " + fullPath);
//no R/T
Document doc = Factory.Document.getInstance(os, null, fullPath);
//R/T
doc.refresh(new String[] {PropertyNames.CONTENT_ELEMENTS});
InputStream str = doc.accessContentStream(0);
Chỉ cần cho thấy có thể làm được việc này, một đường dẫn đầy đủ tới Document
được xây dựng từ các giá trị cấu hình và tên thùng chứa thực sự được trả về từ
máy chủ CE. Đúng là bạn có thể dễ dàng nhận được giá trị mã định danh ID cho
Document được tạo ra từ việc làm mới và sử dụng ID đó để tạo Document. (Sử
dụng ID hiệu quả hơn một chút so với sử dụng đường dẫn vì dù thế nào đi nữa
máy chủ CE phải chuyển đổi đường dẫn thành một ID.)
Document này được tạo không tìm nạp thông qua một phương thức nhà máy và
sau đó một phương thức làm mới được gọi ngay để thu được giá trị của đặc tính
ContentElements. Trong trường hợp này, nó được thực hiện chủ yếu để hiển thị
cuộc gọi làm mới. Việc tạo Document thông qua một fetchInstance (cá thể tìm
nạp) tạo ra hiệu quả hiệu năng như nhau, nhất là khi một bộ lọc đặc tính thích hợp
được sử dụng để hạn chế dữ liệu đã tìm nạp. Phương thức
Document.accessContentStream là một phương thức thuận tiện để gọi
accessContentStream trên đối tượng phụ thuộc ContentTransfer thích hợp.
Xác thực
Phần này quay lại một đoạn trước đây của HelloDocument đã được che đi. Mặc dù
bài viết này không đi sâu vào chi tiết về xác thực, nhưng nó mô tả mã xác thực
trong HelloDocument đang làm cái gì.
Trong mô hình CE, việc xác thực hoàn toàn được giao cho JAAS. Điều đó có
nghĩa rằng bạn không bao giờ thực sự đăng nhập vào API của CE hoặc CE. Thay
vào đó, API của CE trông đợi bạn đã thực hiện một chuỗi đăng nhập JAAS trước
khi bạn thực hiện bất kỳ cuộc gọi CE nào. Một lợi thế của cách tiếp cận này là API
của CE không cần mã hoá vào trong nó các phương thức khác nhau mà bạn có thể
sử dụng để xác thực. Với kiến trúc cắm được của JAAS, bạn có thể sử dụng các
lược đồ mã định danh người dùng/mật khẩu truyền thống, các trình đọc dấu vân
tay, các thiết bị xác thực cầm tay và nhiều kỹ thuật khác. Bất kể bạn xác thực thế
nào, mã ứng dụng CE API của bạn vẫn giữ nguyên.
Xác thực với các phương thức trình trợ giúp API của CE
Hãy xem Liệt kê 8 và lưu ý mã liên quan đến xác thực mức cao nhất từ
HelloDocument.main. Bài viết quay lại chủ đề về phương thức loginAndRun,
nhưng bây giờ hãy xem mệnh đề else.
Lớp UserContext API của CE có một vài phương thức tiện lợi liên quan đến xác
thực. Các phương thức này được cung cấp chỉ để làm cho nó dễ dàng thực hiện
xác thực trong một hệ thống di sản bị hạn chế theo một lược đồ xác thực bằng mã
định danh người dùng/mật khẩu truyền thống. Sử dụng phương thức
UserContext.createSubject để tạo ra một cá thể của một Subject của JAAS. Đối
tượng UserContext cũng có thể duy trì một ngăn xếp của các Subject của JAAS, ở
đó Subject ở đỉnh ngăn xếp thực sự được sử dụng cho các chuyến đi khứ hồi của
CE. Các phương thức UserContext.pushSubject và popSubject triển khai thực hiện
một mô hình ngăn xếp tiêu chuẩn. Chính ngăn xếp được lưu trong bộ lưu trữ luồng
nội bộ, có nghĩa là nó được gắn với một luồng thực hiện cụ thể. Lưu ý rằng cuộc
gọi popSubject ở bên trong một khối finally để bảo đảm rằng nó được gọi dù có
bất kỳ điều gì khác xảy ra. Điều đó rất quan trọng. Mặc dù nó không thành vấn đề
lắm với ứng dụng HelloDocument độc lập, nhưng nó lại quan trọng trong các ứng
dụng J2EE ở đó nhóm luồng thường được sử dụng cho các yêu cầu dịch vụ. Bạn
không bao giờ biết được bạn sẽ chấm dứt việc dùng lại mã ở đâu, vì thế bạn nên có
thói quen mã hóa nó một cách chính xác. Bạn muốn xóa sạch ngữ cảnh xác thực
cho một luồng sau khi bạn đã thực hiện được cuộc gọi CE.
Liệt kê 8. Các phương thức xác thực HelloDocument
public static void main(String[] args) throws LoginException
{
System.out.println("CE is at " + ConfigInfo.CE_URI);
System.out.println("ObjectStore is " + ConfigInfo.OBJECT_STORE_NAME);
HelloDocument fd = new HelloDocument();
if (ConfigInfo.USE_EXPLICIT_JAAS_LOGIN)
{
loginAndRun(fd, ConfigInfo.USERID, ConfigInfo.PASSWORD);
}
else
{
// This is the standard Subject push/pop model for the helper methods.
Subject subject = UserContext.createSubject(fd.conn, ConfigInfo.USERID,
ConfigInfo.PASSWORD,
ConfigInfo.JAAS_STANZA_NAME);
UserContext.get().pushSubject(subject);
try
{
fd.run();
}
finally
{
UserContext.get().popSubject();
}
}
}
Xác thực JAAS chuẩn
Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không sử dụng UserContext.pushSubject để kích hoạt
một Subject để sử dụng trong chuyến đi khứ hồi của CE? Trong trường hợp đó,
đặc tính API của CE tìm kiếm một Subject của JAAS ở xung quanh . Thuật ngữ ở
xung quanh ở đây có nghĩa là một Subject đã được liên kết với luồng bằng các cơ
chế JAAS chuẩn. Ví dụ, trong một ứng dụng web bạn có thể tiến hành đăng nhập
vào thùng chứa trang web J2EE. Trong HelloDocument, việc đăng nhập được thực
hiện một cách rõ ràng như là một phần của phương thức loginAndRun.
Liệt kê 9. loginAndRun
private static final void loginAndRun(HelloDocument fd, String userid,
String password) throws LoginException
{
LoginContext lc = new LoginContext(ConfigInfo.JAAS_STANZA_NAME,
new HelloDocument.CallbackHandler(userid, password));
lc.login();
Subject subject = lc.getSubject();
Subject.doAs(subject, fd);
}
Như bạn thấy trong Liệt kê 9, phương thức loginAndRun khá đơn giản. Nó triển
khai thực hiện một chuỗi đăng nhập JAAS chuẩn, mặc dù liệt kê này không cho
thấy việc thực hiện lớp bên trong HelloDocument.CallbackHandler vì nó cũng là
lộ phí JAAS chuẩn. Thật không may, có một mánh khóe lừa dối trong sự đơn giản
này. Việc gọi phương thức Subject.doAs ở dòng cuối cùng của Liệt kê 9 hóa ra là
đặc trưng riêng cho từng máy chủ ứng dụng J2EE. Nó là một chi tiết không được
giải quyết đầy đủ trong các đặc tả J2EE, do đó, mỗi nhà cung cấp đã phải triển
khai thực hiện nó khi họ thấy phù hợp. Có khả năng là các đặc tả J2EE cuối cùng
sẽ giải quyết điều này để cho bạn sẽ không luôn cần có logic đặc trưng của nhà
cung cấp trong các cuộc gọi đăng nhập của bạn. Tất nhiên, với một máy khách
J2EE đúng nghĩa thay vì một máy khách không rõ, nhiều khả năng hơn là bạn sẽ
thực hiện xác thực của mình với một thùng chứa J2EE và để cho thùng chứa xử lý
các chi tiết.
Kết luận
Bài viết này dẫn bạn qua toàn bộ ứng dụng HelloDocument. Bạn đã thấy cách kết
nối với một ObjectStore, cách tạo ObjectStore, cách tạo Folder, Document và các
kiểu đối tượng khác, cách đọc và thiết lập các giá trị đặc tính và cách tải lên và tải
về nội dung. Mặc dù những thứ này cùng với nhau vẫn chỉ tạo ra một ứng dụng
khá đơn giản, nhưng chúng đưa vào các mô hình mã hóa có thể được dùng cho rất
nhiều thứ.
Nếu bạn vừa mới bắt đầu viết mã P8, bạn có thể sử dụng HelloDocument như là
một điểm khởi đầu. Tệp mã nguồn hoàn chỉnh có sẵn để tải về thông qua một liên
kết đi kèm với bài viết này. Bạn có thể thử nghiệm bằng cách thay đổi nó để thử
những điều khác nhau. Trong thực tế, nếu bạn có suy nghĩ về một ứng dụng nhỏ
mà bạn muốn làm ra nhanh chóng, bạn sẽ không phải là người đầu tiên xây dựng
nó trên một bản sao đã sửa đổi của HelloDocument.java. Hãy thử xem!
Chúc vui vẻ và theo sát với nhiều bài viết hơn trong loạt bài này!
MỤC LỤC
Hãy làm quen với HelloDocument
Cấu hình
Nhận hay tìm nạp?
Bắt đầu ObjectStore
Tạo một cá thể Document mới
Lưu Document thành tệp
Save to the repository
Tạo Folder
Đọc nội dung
Xác thực
Kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Viết mã thú vị với các API FileNet P8 của IBM, Phần 1.pdf