Điện thoại được nhà khoa học người Mỹ Alexander Graham Bell phát minh từ
năm 1876. Tuy nhiên, phải khoảng từ năm 1890 mạng điện thoại mới bắt đầu được
triển khai tương đối rộng rãi. Cùng với sự xuất hiện của mạng thoại công cộng PSTN
là sự đột phá của các phương tiện thông tin liên lạc thời bấy giờ. Như vậy, có thể coi
mạng truy nhập ra đời vào khoảng năm 1890. Trong suốt nhiều thập kỷ đầu thế kỷ 20
mạng truy nhập không có sự thay đổi đáng kể nào, mặc dù mạng chuyển mạch đã thực
hiện bước tiến dài từ tổng đài nhân công đến các tổng đài cơ điện và tổng đài điện tử.
CHƯƠNG I : MẠNG TRUY NHẬP
CHƯƠNG II : NHIỄU
CHƯƠNG III : CÔNG NGHỆ ADSL
.
CHƯƠNG IV : CẤU TRÚC CỦA CHƯƠNG TRÌNH MÔ PHỎNG HỆ THỐNG ADSL
CHƯƠNG V : THỰC TẾ TRIỂN KHAI ADSL TẠI VIỆT NAM
CHƯƠNG VI : THAM KHẢO
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
86 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2832 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lỗi được phát hiện, sử dụng
tại chức năng bảo dưỡng mức độ cao hơn để chẩn đoán hoặc thiếp lập lại đường
truyền DSL. Các mã kiểm tra CRC này nằm ngoài mã hóa RS và do vậy phát hiện các
lỗi không được hiệu chỉnh bởi mã RS.
Mã kiểm tra CRC ở mức bit dựa trên các mã nhị phân tuần hoàn, chuỗi các bytes
bản tin được xử lý như là một chuỗi bit và đa thức nhị phân được lập để biểu diễn bản
tin như sau:
m(Z) = m0Zk-1 + m1Zk-2 +…..+ mk-1
thông thường r = 8,12,16 bit (1Æ2 bytes ) được thêm vào bản tin dạng đa thức kiểm
tra nhị phân c(Z) = c0Zr-1 + c1Zr-2 +.... + cr-2*Z + cr-1 bằng phép cộng nhị phân
m(Z)*Z(r) + c(Z)
Đa thức kiểm tra được xác định là phần dư của phép chia m(Z) cho g(Z), là đa thức
nhị phân mô tả mã CRC :
c(Z) = m(Z) mod g(Z)
Ở đầu thu phép chia được lặp lại và các phần dư sẽ được so sánh. Nếu các phần dư
không khớp, xung đột CRC được thông báo, và chắc chắn là lỗi xảy ra trên đường
truyền. Chỉ có một số mẫu lỗi rất đặc biệt trong kênh truyền làm cho có cùng số dư, và
tạo ra các lỗi không phát hiện được. Các mẫu đặc biệt này tương ứng với các từ mã
dạng mã tuần hoàn nhị phân.
Bit đầu tiên được truyền là m0 và các bit thông tin tiếp theo tới mk-1, sau đó là các
bit kiểm tra. Các phần tử trễ ban đầu được đặt bằng không và chứa phần dư / các bit
kiểm tra sau khi K bit thông tin được chuyển qua mạch. Một mạch giống hệt như vậy
ở đầu thu kiểm tra phần dư theo các bit kiểm tra đầu ra của bộ tách ADSL.
Để xác định xác suất xảy ra các lỗi bị bộ kiểm tra CRC bỏ qua, cần chú ý :
1. Tất cả các lỗi bit đơn đều được phát hiện vì đa thức lỗi với một số đơn
không thể chia hết cho g(Z).
2. Tất cả các lỗi bit kép đều được phát hiện (bởi vì g(Z) có một hệ số là đa thức
nguyên thủy, hệ số không thể chia thành đa thức hai số hạng bất kỳ trừ các
lỗi được cách bởi 2r-1-1 bit, nó nhằm ở giới hạn trên của chiều dài đa thức
thông tin mà thực tế không thể vượt qua được ).
3. Tất cả các số lẻ lỗi bit được phát hiện (vì hệ số 1+Z trong g(D)g(Z) không
chia hết đa thức lỗi bất kỳ với số lẻ 1 trong nó.) trong trường hợp trạng thái
ổn định của ADSL, điều này không được bảo đảm.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 55 -
4. Các lỗi với chiều dài nhỏ hơn hoặc bằng r (vì phần dư sau khi chia sẽ là bội
số của g(Z) trừ khi nó cùng bậc)
5. Phần lớn các lỗi xung dài hơn
Rõ ràng là các kiểm tra CRC sẽ xác định nhanh chóng ADSL, nhưng không thể chỉ
dựa vào CRC để đảm bảo là tất cả dữ liệu luôn được truyền đúng. Do đó các sự cố
CRC thường được báo về cho thiết bị bảo dưỡng cho ADSL để thực hiện sửa chữa
hoặc thay thế thiết bị ADSL nếu nhận được vài lỗi. ADSL sử dụng kiểm tra CRC 8 bit
4.2.2 NGẪU NHIÊN HOÁ (SCRAMBLER)
Hình IV.11 (Theo thứ tự từ trên xuống)Đồ thị (1):Dạng sóng ban đầu; Đồ
thị(2):Dạng sóng sau khi ngẫu nhiên hoá; Đồ thị(3):Dạng sóng sau khi được giải
ngẫu nhiên hoá.
Các bộ tạo ngẫu nhiên trong truyền dẫn số được sử dụng với mục đích làm ngẫu
nhiên hoá dòng bit đầu vào .Vì các chuỗi toàn số 0 hoặc số 1 có thể xuất hiện trong
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 56 -
truyền số liệu thực tế thường xuyên hơn các chuỗi khác(điều này trái với các giả thiết
về bản tin được truyền độc lập sử dụng trong các DSL nói chung),người ta mong muốn
hạn chế các tình huống này . Các bộ tạo ngẫu nhiên biến đổi các bit đầu vào thành tập
hợp các bit tương đương thật sự là các bit độc lập trên thực tế.
Các bộ cân bằng , bộ triệt tiếng vọng , các phương pháp hoán đổi bit , phương pháp
nhận dạng kênh đều có lợi nếu sử dụng bộ tạo ngẫu nhiên.
Ý tưởng cơ bản là sắp xếp chuỗi các bit đầu vào thành tập hợp các bit ngẫu nhiên
thông qua bộ tạo ngẫu nhiên sau đó sắp xếp lại các bit ở đầu thu . Tất cả các DSL đều
sử dụng bộ giả ngẫu nhiên tự đồng bộ . Chiều lên và xuống của ASDL sử dụng bộ giả
ngẫu nhiên tự đồng bộ 23 bit.
Hinh IV.12 Bộ giả ngẫu nhiên tự đồng bộ 23 bit
SCRAMBLER:
Chuỗi bit nhị phân được ngẫu nhiên bằng cách sử dụng thuật toán sau:
dn = Dn ⊕ dn-18 ⊕ dn-23
Với Dn : là đầu vào thứ n vào bộ ngẫu nhiên
dn: đầu ra thứ n của bộ ngẫu nhiên .
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 57 -
4.2.3 FEC (FORWARD ERROR CODING):
Hình IV.13 (Theo thứ tự từ trên xuống)Đồ thị(1):Dạng sóng ban đầu; Đồ
thị(2):Dạng sóng sau khi giải mã RS; Đồ thị(3):Dạng sóng sau khi mã hóa RS.
4.2.3.1 MÃ RS(N,K) (Reed_Solomon) :
Mã BCH là mã khối vòng tuyến tính cho phép sửa nhiều lỗi. Mã RS là 1 lớp con
không nhị phân đặc biệt, đạt được mã có kích thước lớn nhất với khoảng cách nhỏ
nhất. Đối với mã không nhị phân, ta có thể xác định khoảng cách giữa 2 codeword là
số kí hiệu không nhị phân khác nhau giữa chúng.
Mã RS được chỉ rõ là mã RS (n,k),với n là số ký hiệu /block tại ngõ ra bộ mã hoá,
k là số ký hiệu thông tin tại đầu vào bộ mã hoá, n-k= 2t là số ký hiệu parity mà bộ mã
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 58 -
hoá cộng thêm cho mỗi khối, t=(n-k)/2 là số lỗi ký hiệu sai tối đa mà mã RS có thể sửa
tại mỗi khối và khoảng cách nhỏ nhất dMIN= n – k +1.
Mã RS là mã đại số mà những đa thức thông qua trường GF(2m) mô tả thông tin
được mã hoá và codeword đã được mã hóa. Những thông tin vào và ra bao gồm những
ký hiệu là thành phần của GF(2m)(0,1,α , α 2,và những thông số khác).Những ký hiệu
này được sắp xếp như là hệ số của đa thức và số mũ của biến X chỉ thứ tự mà bộ mã
hoá và bộ giải mã nhận và xuất ra những ký hiệu liên quan.
4.2.3.2 MÃ HÓA RS(n,k):
Phương trình chính để xác định hoạt động mã hoá hệ thống cho Mã RS là:
c(X)=i(X)Xn-k + [i(X)Xn-k] mod g(X) (1)
với c(X): đa thức bậc n,
i(X) là đa thức thông tin bậc k-1,
i(X)Xn-k mod g(X) là đathức parity bậc n-k-1,và g(X) là đa thức chung bậc n-k.
Mã hoá hệ thống có nghĩa là sau khi mã hoá, code word nhận được có các ký hiệu
thông tin nguyên thuỷ được chèn tại các hệ số thứ tự cao hơn của codewords và sau đó
chọn ký hiệu parity để tạo ra một codeword hợp lệ c(X).
Trong trường hợp tổng quát, đa thức g(X) cho mã RS (n,k) là :
))...()(()( 121 −++ −−−= tjjj XXXXg ααα
Nếu như j = 1:
g(X) = gn-kXn-k + gn-k-1Xn-k-1 +...+ g2X2 + g1X + g0
Ta có thể chọn bất cứ giá trị nguyên nào cho j, tuy nhiên thường ta chọn j = 1 vì
đôi lúc ta có thể giảm được chi phí phần cứng. Chú ý rằng tất cả các đa thức ở trên bao
gồm cả g(X) là đa thức trong trường GF(2m).
Để có thể hình dung được phần cứng mà thực hiện phương trình (1), ta phải hiểu
cách hoạt động của i(X)Xn-k và i(X)Xn-k modg(X). Như đã đề cập trước cho mã hóa hệ
thống, ta thay những ký hiệu thông tin bằng những hệ số có số mũ cao hơn. Vì thế
i(X)Xn-k có nghĩa là ta phải dịch các ký hiệu thông tin nhằm đạt được hàm mũ cao hơn
của X, từ n-1 xuống n-k. Ta điền vào những vị trí còn lại từ mũ n-k-1 đến 0 bằng zeros
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 59 -
Ví dụ như : ta có
632)( ααα ++= XXXi
nhân phương trình trên với X4 ta được :
0000)( 23465364 ++++++= XXXXXXXXi ααα
phần hai của phương trình (1), i(X)Xn-k mod g(X) , là phần còn lại khi ta chia đa thức
i(X)Xn-k cho g(X). Vì thế ta phải thiết kế mạch có hai chức năng : chia và dịch đến số
mũ cao hơn của X. Những thanh ghi dịch hồi tiếp tuyến tính cho phép ta dễ dàng thực
hiện hai phép toán trên. Hình 2 là sơ đồ chung của mã hóa RS (n,k). Nhiệm vụ chung
của thiết kế là thực hiện mạch nhân và cộng GF(2m) , nhớ rằng ta có thể cộng hai
thành phần của trường GF(2m) bằng cách cộng Modulo 2 những ký hiệu hiệu nhị phân
của chúng , điều này tương tự như cộng xor vì vậy bộ cộng của ta đơn giản chỉ gồm
những cổng xor. Ví dụ một bộ cộng GF(24) cần 4 cổng xor (có hai đầu vào ) để cộng
hai tín hiệu của trường tín hiệu GF(24). Ta có thể dể dàng định vị các phương trình cho
hoạt động của xor vào cấu trúc LUT (look_up_table) của FPGA.
* Ta có thể hiểu đơn giản hơn như sau :
Mã hoá RS được thực hiện nhằm cho việc sửa lỗi ở đầu thu.Mã hoá RS gắn R
bytes dư thừa RS FEC vào mỗi khung dữ liệu.
R và S có thể định trước. R lấy các giá trị từ {0,4,8,16},S lấy các giá trị từ
{1,2,4,8,16}.R /S phải là số nguyên.
R bytes dư c0,c1,....cR-1 được gắn vào K*S bytes(K là số bytes thông tin trên 1
frame) dữ liệu sử dụng quy luật sau :
C(D) = M(D)DR mod G(D)
G(D) là đa thức chung.
M(D) là đa thức thông tin(dữ liệu).
4.2.3.3 GIẢI MÃ RS(n,k) :
Cho dù ta sử dụng các kỹ thuật thông thường để giải mã các mã vòng BCH, nhiều
thuật toán giải mã tốt hơn được phát triển. Sự giải mã dựa trên thuật toán giải mã
Peterson-Gorenstein-Zierler.Thuật toán này yêu cầu ma trận đảo,mà có thể nó rất phức
tạp nếu ta thiết kế một mạch giải mã sửa lỗi .Vì thế, các kỹ thuật khác đã được phát
triển. Elwyn Berlekamp đã tìm thấy 1 kỹ thuật tương tự bằng cách lợi dụng những cấu
trúc đã được tổ chức của mã hóa trận đã được đề cập. Ta có thể sử dụng kỹ thuật
Berlekamp để giải quyết phương trình chính (để tìm ra những đa thức định vị lỗi)
trong quá trình giải mã.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 60 -
Thủ tục giải mã cho mã hoá RS liên quan đến việc quyết định các vị trí và độ lớn
các lỗi trong đa thức r(X).Các vị trí là các bậc của X (X2,X3, …) trong những đa thức
nhận được mà hệ số của nó có chứa lỗi. Độ lớn là những ký hiệu mà ta thêm vào ký
hiệu bị hư để tìm ra những ký hiệu mã hoá gốc. Những vị trí và độ lớn này tạo thành
cái được gọi là đa thức lỗi. Ngoài ra, nếu bạn xây dựng 1 mạch giải mã để hỗ trợ giải
mã erasure, để sau đó ta cũng phải tìm đa thức erasure. Một ‘erasure ’ là 1 lỗi mà vị trí
đã được biết. Vì thế nhiệm vụ của ta là tìm ra độ lớn của các erasure. Một mã RS(n,k)
có thể sửa lỗi thành công nhiều như là các erasure 2t=n-k, nếu không có lỗi nào xuất
hiện .Với cả các lỗi và erasure xuất hiện, mạch giải mã có thể giải mã thành công nếu
n-k = 2v+f (với v: số lỗi ; f: số erasure.).
Đa thức r(X) nhận được là :
r(X) = r n-1X n-1+rn-2Xn-2+…+r2X2+r1X+r0
Bậc của đa thức r(X) là n-1,mà cũng tương tự c(X).Phương trình sau đây cho thấy
thủ tục giải mã và việc thực hiện phần cứng của các phương trình chính.
Giả thiết rằng vector r(X) nhận được có f erasure và các vị trí của erasure là :
11 jY α= , 22 jY α= , …, jffY α=
Tại mạch nhận /giải điều chế cung cấp các vị trí của erasure. Ta giải mã các đa
thức nhận được theo các bước sau:
1. Tính toán đa thức định vị erasure theo phương trình sau:
∏
=
−=Γ
f
l
XYX
1
1 )1()(
2. Thay thế các erasured coordinates(symbols) bằng các zero và tính toán 2t
syndromes. Ta tìm các syndrome đánh giá các đa thức r(X) nhận được (với các vị trí
của erasure đã được điền các ký hiệu 0) tại 2t nghiệm của đa thức chung g(X):
tjrS jj 2...2,1);( == α
3. Tính toán cho các đa thức syndrome bổ sung theo phương trình sau:
12mod)1)](1)[(()( +−+Γ=Ξ tXXSXX (2)
với S(X) là đa thức syndrome được định nghĩa :
∑
=
+++==
t
j
t
t
j
j XSXSXSXSXS
2
1
2
2
2
21 ...)( (3)
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 61 -
4. Để giải các phương trình chính(để tìm ra các vị trí lỗi) áp dụng thuật toán
Berlekamp. Làm như thế sẽ cho ta đa thức định vị lỗi )(XΛ . Hình IV.14 là lưu đồ
thực hiện thuật toán Berlekamp cho cả lỗi và erasure.
Hình IV.14 Lưu đồ thuật toán Berlekamp
5.Tìm nghiệm của )(XΛ chính là tìm ra vị trí của các lỗi( Xk-1 và Xk) .
6. Xác định các đa thức lỗi/erasure sử dụng phương trình sau:
)()()( XXX ΓΛ=Ψ (4)
7. Xác định đa thức độ lớn lỗi sử dụng
12mod)](1)[()( +Ξ+Λ=Ω tXXXX (5)
8. Xác định độ lớn lỗi và độ lớn erasure sử dụng thuật toán Forney .
)(
)(
)(
)(
1
1
1
1
k
kk
k
k
kk
k
Y
YYf
X
XXe
Ψ
Ω=
Ψ
Ω=
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 62 -
Đạo hàm của bất kỳ đa thức nào trên GF(2m) được cho bởi:
u(X)=uvXv+uv-1Xv-1+…+u2X2+u1X+u0
u(X) là đa thức bậc thứ v, ta có thể định nghĩa u’(X) như sau:
u’(X) = vuvXv-1+(v-1)uv-1Xv-2+...+u5X4+u3X2+u1=∑
=
−v
j
j
j Xju
0
1)( (6)
với juj=0 khi j lẻ và juj=uj khi j chẵn.
VD: cho đa thức
1)('
)(
22
52324
+=
++++=
XXu
XXXXXu
α
αααα
9. Bằng cách kết hợp vị trí , độ lớn của lỗi (erasure), ta có thể tạo ra đa thức
lỗi(erasure) và cộng chúng vào r(X) để nhận được codeword.
4.2.4 PHƯƠNG PHÁP CHÈN:
Chèn là việc sắp xếp lại các byte được truyền trên khối L từ mã sao cho các bytes
cạnh nhau của chuỗi dữ liệu được truyền không nằm trên cùng một từ mã. Các bytes
được sắp xếp lại tại máy thu . Các lỗi gây bởi nhiễu xung trong ADSL chủ yếu dưới
dạng cụm bit/ byte lỗi . Độ dài của cụm lỗi có thể vượt quá số lượng lỗi có thể hiệu
chỉnh được của mã . Chèn phân phối các bit/byte lỗi trên khoảng thời gian dài hơn . Cụ
thể với việc chèn tốt bộ tách ở đầu thu sẽ đưa ra các đoạn dữ liệu được tách không
chứa quá số lỗi có thể hiệu chỉnh . Do các nhiễu xung có xuyên nhiễu giữa các ký hiệu
hướng xuất hiện với khoảng thời gian tương đối dài , các lỗi trong cụm lỗi có thể phân
chia cho các từ mã liền kề không bị các lỗi đó , phân phối đều hiệu quả việc sửa lỗi
giữa các mã .
Có 2 phương pháp chèn : chèn khối và chèn xoắn .
4.2.4.1 PHƯƠNG PHÁP CHÈN KHỐI :
Chèn khối là phương pháp chèn đơn giản nhất. Mỗi một từ mã kế tiếp được ghi
trong thanh ghi tương ứng/hàng(dòng) của bộ chèn. Số lượng từ mã được lưu được gọi
là độ sâu L của bộ chèn. Nếu một từ mã có N bytes và chiều sâu bộ chèn là L thì tổng
số bytes NL phải được lưu trong hai bộ nhớ truyền thông của bộ xen khối. Như trong
hình với N=4, L=3. Khi N=4 bytes được ghi đồng thời lên mỗi dòng của bộ nhớ đệm
truyền, L=3 bytes trên mỗi cột được đọc. Các bytes xuất hiện theo chu kỳ T’ giây, tạo
nhịp đồng hồ bytes 1/T’. Đồng hồ đầu vào của bộ chèn có nhịp là 1/N nhịp của đồng
hồ byte. Do đó, một từ mã với N=4 bytes được ghi lên mỗi hàng của bộ đệm ghi. Theo
chu kỳ NL=12 bytes, bộ đệm ghi sẽ đầy. Đồng hồ đầu ra bộ đệm trưyền có nhịp 1/L
của đồng hồ byte. Bộ đệm đọc đọc L=3 bytes từ mỗi cột trong mỗi chu kỳ của đồng hồ
đầu ra bộ chèn. Bộ chèn bắt đầu/kết thúc ghi vào bộ đệm ghi đúng vào các thời điểm
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 63 -
khi nó bắt đầu/kết thúc đọc ở bộ đệm đọc. Theo chu kỳ NL bytes, các bộ nhớ đọc và
ghi được hoán đổi.
Bộ tách ở đầu thu nhận các bytes từ bộ giải mã và ghi lần lược N bytes trên một
cột kế tiếp nhau. Sau khi cả NL bytes được ghi, các từ mã được đọc theo chiều ngang
(theo hàng ). Cũng giống như trên hai bộ nhớ được sử dụng, với một bộ được ghi trong
khi bộ nhớ kia được đọc. Độ trễ giữa phát-thu là (không hơn) 2NL bytes lần và tương
ứng cần có 4NL ô nhớ RAM (ở đầu phát và đầu thu), một nửa ở đầu thu và một nửa ở
đầu phát.
Một cụm đột biến B bytes lỗi được phân phối tương đối đều trên L từ mã qua quá
trình giải mã ở đầu thu. Nếu đây là cụm bytes lỗi duy nhất trong tổng số NL bytes
nhận, bộ thu FEC có thể sửa thêm khoảng L lần bytes nữa. Nếu số bytes lỗi lớn hơn L
có nghĩa là thêm bộ nhớ và độ trễ, nhưng yêu cầu năng lực FEC lớn hơn và chùm lỡi
thứ hai không xuất hiện trong cùng NL bytes. Do vậy khoảng cách tối thiểu của mã về
cơ bản được nhân với L khi các lỗi xuất hiện không quá thường xuyên. Các cụm lỗi
tương ứng chính xác với các cụm tạp âm trong các DSL.
Phương pháp chèn khối dù dễ hiểu và dễ mô tả, không được hiệu quả lắm trong
việc sử dụng bộ nhớ và độ trễ mà nó tạo ra.
4.2.4.2 PHƯƠNG PHÁP CHÈN XOẮN :
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 64 -
Hình IV.14 Đồ thị(1) :Dạng sóng ban đầu ;Đồ thị(2) :Dạng sóng sau khi được
chèn xoắn ; Đồ thị(3) :Dạng sóng sau khi được giải chèn.
Trong ADSL , chỉ sử dụng phương pháp chèn xoắn bởi vì phương pháp này giảm
một nửa độ trễ và giảm bộ nhớ từ 2 đến 4 lần với cùng phân bố của các lỗi .
Mô tả : các bytes trong một từ mã được đánh thứ tự từ i=0 ,….,N-1 . Cụm các lỗi
được phân bố trên L(độ sâu chèn) từ mã, và mỗi từ mã được đánh thứ tự l=0 , …,L-1 .
Để mỗi cụm lỗi được phân bố trên L từ mã, N và L phải là số đồng nguyên tố. Nếu các
số N và L không đồng nguyên tố , ADSL sẽ chèn thêm các bytes giả .
VD: với L=2d và N có thể là chẵn , khi đó 1 byte giả sẽ được chèn vào để đưa
chiều dài từ mã thành N+1 là số đồng nguyên tố với L(byte giả không cần phải truyền
đi và không ảnh hưởng đến tốc độ dữ liệu nhưng máy thu phải biết để chèn lại nó).
Trong phương pháp chèn xoắn, byte thứ i của từ mã luôn được làm trễ Ìi = i(L-1).
Do vậy , byte đầu tiên i=0 trong từ mã không bị làm trễ , trong khi đó byte cuối trễ
(N-1)(L-1) .Bộ nhớ cần thiết để sử dụng cho bộ chèn và bộ tách theo phương pháp
chèn xoắn là đủ để lưu L từ mã độ dài N bytes . Do vậy phương pháp chèn xoắn yêu
cầu không quá nửa bộ nhớ , hơn nữa có độ trễ nhỏ hơn một nửa .
Với tất cả các lý do trên, ADSL sử dụng Fec đều dùng phương pháp chèn xoắn,
chèn khối không được dùng.
Trong ADSL phương pháp xoắn được sử dụng khi chọn chiều sâu chèn từ L=0 tới
64(số lượng bytes chèn, số lượng bytes chẵn lẽ và tốc độ dữ liệu (số các bytes thông
tin ) được tính toán khi khởi tạo ban đầu.) Khi số các bytes thông tin K là lẻ, độ sâu
chèn L và N = 2t + K là đồng nguyên tố và do đó các lỗi có thể nhận được phân tán.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 65 -
Khi L chẵn, byte giả được thêm vào phần cuối của mỗi từ mã để thực hiện xen tại đầu
phát nhằm tạo K lẻ (byte giả không được truyền nhưng được chèn lại ở máy thu để giải
mã). Trong ADSL , một tham số phụ S được xác định, đây là số ký hiệu DMT/ 1 từ
mã. S được giới hạn bằng một nửa hoặc mộ trong các số nguyên 1,2,4,8 hoặc 16 như
tính toán khi truyền trong ADSL.
ADSL cũng sử dụng bộ trễ kép. Có hai tuyến FEC khác nhau qua Modem, cả hai
sử dụng chung mã RS nhưng có thể với số lượng bytes kiểm tra và kích thước từ mã
khác nhau. Tuyến chèn được chèn với độ sâu chèn lập trình trước, trong khi tuyến
nhanh không chèn(S=1). Tuyế nhanh bảo đảm độ trể phát-thu nhỏ hơn 2 ms nhưng
không có khả năng hiệu chỉnh tạp âm và các chùm lỗi khác.
ADSL tính 4 giá trị khi truyền (hoặc truyền lại) giữa ATU-C và ATU-R : Rf, Ri, S,
và L.
Rf là số bytes chẵn lẻ trong bộ đệm nhanh .
Ri là số bytes chẵn lẻ trong bộ đệm chèn .
S : là số lượng của các ký hiệu 250 us trên từ mã trong tín hiệu DMT.
L là độ sâu chèn.
Bốn giá trị này làm tăng thêm các tốc độ dũ liệu được biểu hiện bởi :
Bf : số bytes thông tin /ký hiệu trong bộ đệm nhanh .
Bi : số bytes thông tin/ ký hiệu trong bộ đệm chèn.
Bỏ qua các bytes phụ phần đầu được chèn vào thì độ dài từ mã sẽ là :
Nf = Bf + Rf cho bộ đệm nhanh.
và Ni = Bi S + Ri cho bộ đệm chèn .
Các bytes trong bộ đệm chèn được chèn xoắn với độ sâu L. Độ dài cụm lỗi lớn
nhất thông thường tính cho thiết kế ADSL là 500 us. Giá trị này là thấp vì các xung
thực tế thường có độ dài vài ms. Do đó, ADSL cho phép tuỳ chọn chèn với độ sâu lớn.
Với các dịch vụ Video độ trễ dài không phải là vấn đề lớn (nhưng các lỗi bit là hết
sức nghiêm trọng đối với Video nén), do vậy độ trễ 20 đến 100ms trong chèn là phổ
biến và bảo đảm chất lượng ảnh tốt trên ADSL. Các dịch vụ âm thanh lại không chịu
ảnh hưởng lớn của các lỗi bit nhưng có phần nhạy cảm với độ trễ. Độ trễ mạng lưới
thoại là 1,25ms :ADSL có thể hoạt động tốt tới 2ms.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 66 -
4.2.5 Điều biến đa kênh rời rạc DMT :
Hình IV.15 (Theo thứ tự từ trên xuống)Đồ thị(1) :Dạng sóng ban đầu ; Đồ
thị(2) :Dang sóng sau khi giải điều biến ; Đồ thị(3) :Dạng sóng sau khi điều biến.
Như các phương pháp điều chế nhiều sóng mang khác, máy phát DMT cũng chia
dãi thông kênh truyền thành nhiều phân kênh. Mỗi phân kênh đặt tính hoá bằng tỷ số
SNR đo được khi thiết lập kết nối và giám sát liên tục trong quá trình sử dụng. Dòng
bit cần mã hóa được mã hóa thành các ký hiệu QAM liên tiếp. Mỗi ký hiệu QAM đại
diện cho một số bit xác định bởi SNR ở tần số trung tâm của phân kênh, xác suất sai
chấp nhận được và tốc độ bit cần truyền. Sau đó các ký hiệu QAM được phân nhóm
thành khối chuyển thành dạng phức và dùng phép biến đổi Fourier rời rạc ngược để
đưa trở về dạng thực. Bộ IDFT thường được thực hiện bằng phép biến đổi Fourier
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 67 -
nhanh. Sau bộ IDFT, tín hiệu được chèn vào một số cyclic prefix (CP) để loại trừ
nhiễu liên ký hiệu (ISI) . Tín hiệu thời gian thực có được được biến đổi từ số sang
dạng tương tự để đưa lên kênh truyền.
Cấu trúc của một DMT Superframe :
Fec & Interleaving : kiểm soát các lỗi, các lỗi ngẩu nhiên và các tác động làm hư
dữ liệu .
Fec ở đường Fast : Rf được gắn vào Kf bytes dữ liệu để sau đó trở thành Nf byte
codewords .
Fec ở đường Inteleaver có hai tham số :
D : Interleaver depth (độ sâu chèn).
Ri : redundancy.
S khung dữ liệu chèn được kết hợp trong mỗi khung Data chèn có gắn codeword RS,
S = ½,1,2,…,16.
Dung lượng của độ sâu chèn :
Downstream : 1,2,…,64.
Upstream : 1,2,…,16.
Độ chèn trì hoãn : S*D*250 µ s.
Hình IV.18 DMT Superframe
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 68 -
BIẾN ĐỔI NHANH CHO DMT SỬ DỤNG FFT(Fast Fourier Transform) :
Phương pháp biến đổi Fourier nhanh giảm khối lượng tính toán trong DFT N điểm
từ N2 phép nhân phức thành Nlog2(N) phép nhân phức trong đó N là hàm mũ của 2 và
giả thiết này được sử dụng trong phần này. Các hệ thống DSP hiện đại nhất ngày càng
hiệu quả khi sử dụng thuật toán FFT đặc biệt khi các phương thức truyền dẫn đa kênh
DMT trở lên phổ biến và đơn giản. Có một vài thuật toán FFT nhưng ở đây chỉ xem
xét thuật toán FFT cơ bản. Trong trường hợp của DMT, tối giản của FFT cho phần thu
là có thể khi nhận xét rằng các đầu vào FFT là thực và tương tự IFFT (Inverse Fast
Fourier Transform) cho phần phát có thể tối giản vì đầu ra là thực. Phương pháp đơn
giản hóa được mô tả dưới đây.
DFT (Dicrete Fourier Transform : biến đổi Fourier rời rạc) và nghịch đảo của nó
được biểu diễn bởi cặp biến đổi :
∑−
=
−=
1
0
2N
k
N
kn
j
kn exX
π
. ∑−
=
=
1
0
2
1 N
n
N
kn
j
nk eX
N
x
π
..
Trong đó hệ số 1/N trong phần nghịch đảo thường được bỏ qua vì tỷ lệ được xác
định thường xuyên thông qua điều kiện dải động của bộ vi xử lý. Thuật toán FFT cơ
bản lợi dụng cấu trúc của DFT và sử dụng phương pháp đệ qui DFT cỡ N từ 2 DFT cỡ
N/2 cho phép log2(N) trạng thái đệ qui tạo ra DFT từ 2 DFT đơn giản. Để đơn giản ký
hiệu
N
j
N eW
π2−
=
và
n
n
Nn
1
2
N
0k
kn
2
N1k2
1
2
N
0k
kn
2
Nk2
1
2
N
0k
n1k2
N1k2
1N
0k
1
2
N
0k
kn2
Nk2
kn
Nkn
HWG
WxWx
WxWxWxX
.
..
... )(
+=
+=
+==
∑∑
∑∑ ∑
−
=
+
−
=
−
=
++
−
=
−
=
là đệ qui mong muốn của DFT theo 2 DFT có kích cỡ chỉ bằng 1/2. Quá trình sẽ lặp lại
Log2(N) lần để kết thúc thuật toán FFT. Bản chất vòng lặp được mô tả trên. Mỗi DFT
có kích thước giảm 1/2 được phân tích thành DFT kích thước 1/4. Các đầu vào theo
thời gian sẽ được phân ra thành các tập hợp chẵn và lẻ ( truyền qua tất cả các "tầng"
FTT) tạo nên các chỉ số theo trật tự về thời gian được xác định thông qua khối N điểm,
được đơn giản bằng chỉ số nhị phân có trình tự bit ngược. Trình tự bit này được gọi là
địa chỉ theo bit ngược sử dụng trong các chọn lựa trong DSP có thể lập trình được.
Mỗi trạng thái của DFT gồm N phép nhân phức đối với các ứng dụng đơn giản. Tuy
nhiên trên hình cũng cho thấy các phép nhân phức có thể được phân thành 2 nhóm
thông qua thao tác butterfly. Thao tác này cho phép rút gọn từ 8 còn 6 phép tính. Kết
quả là có N/2 log2(N) butterfly trong một FFT tạo ra 3Nlog2(N) phép nhân thực.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 69 -
Sự tối giản cho phép các chuỗi theo thời gian trong DMT của DSL là thực. Đối với
các chuỗi phức có độ dài N/2
{ } { }kkk yjyy ℑ+ℜ=
phép tính phức trong đại số dẫn đến
{ } { } * /½ nNnnk YYnchYy −+=↔ℜ 221
và
{ } { } * / nNnnk YYlÎYyj −−=↔ℑ 221
có thể tạo ra chuỗi phức có độ dài N/2 từ chuỗi thực có độ dài N thông qua
122 ++= kkk jxxy k=0, ...,N/2-1
Biến đổi DFT của chuỗi xk có độ dài N là Xn. Từ kết quả của FFT ở trên có thể nhận
thấy
nlÎnNnnchn YWYX += ½
là phép tính butterfly cỡ N/4. Do đó có N/4log2(N/2) butterfly cho FFT phức cỡ N/2
tạo ra Yn cộng thêm với N/4 butterfly để tạo ra Xn từ các phân Yn chẵn và lẻ đưa ra
tổng số N/4log2(N) butterfly hay 1.5Nlog2(N) chỉ dẫn/ thao tác để ứng dụng và như
vậy tiết kiệm 2 lần so với ứng dụng phức đầy đủ.
Một IFFT có thể được FFT ứng dụng sử dụng công thức
Đối với IFFT trong phần phát của DMT một số công thức tính khác nhau được sử
dụng trong phép biến đổi ngược nhằm đơn giản các phép biến đổi phức-thực. IFFT có
thể viết dưới dạng
1r2víikWXXW
r2víikWXX
WXWXx
nr
2
N
1
2
N
0k 2
Nn
n
n
N
nr
2
N
1
2
N
0k 2
Nn
n
1
2
N
0n
2
N
nk
N2
N
n
kn
Nnk
+=
=
=
+=
−
−
= +
−−
−
−
= +
+
−
=
+−
+−
∑
∑
∑
.
.
..
)(
Hai chuỗi theo tần số có độ dài giảm 1/2
n
NN
n
nn
N
n
nn
WXXH
XXG
−
+
+
−=
+=
).(
2
2
có thể được biến đổi ngược để tạo ra các mẫu theo thời gian chẵn và lẻ. Dạng thập
phân của đầu ra IFFT mô tả trên.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 70 -
[ ]** )()( kn XDFTNXIDFT 1=
Yêu cầu tính toán cho IFFT hoàn toàn giống cho FFT gồm N/2log2(N) phép toán
buterfly hay 3Nlog2(N) phép toán thực.
Trong DMT các giá trị thực đầu ra của IFFT trong phần phát có thể tận dụng trong
một nửa các phép tính cần thiết của IFFT. Điều này có được là do tính đối xứng liên
hợp của đầu vào DMT là
nnN XX *=−
chuỗi là chẵn và chuỗi
*
n
NnN
n
nn XXXXO −+
−=−=
22
là lẻ; hàm Hn=On.WN-n là chẵn. Vì tính đối xứng liên hợp lên Gn và Hn là ánh xạ N/4
do đó chỉ có N/4 giá trị khác nhau khi xk là số thực. Do vậy cả Gn và Hn là chẵn và có
cùng đầu ra IFFT theo thời gian. Do vậy chuỗi
1
2
0 −=+= NvíinjHGX nnn ,.....
~
có IFFT cỡ N/2 là là gk+jk trong đó gk,jk là các số thực. Tuy nhiên từ các kết quả
nghiên cứu trước đây chúng ta có:
x2k=gk và x2k+1=hk cho k=0,....N/2-1
Do đó IFFT cỡ 1/2 sẽ phải thực thiện thêm N/4 butterfly do có Gn và Hn tạo lên
n/4log2(N) butterfly hay 1.5Nlog2(N) phép tính thực do IFFT tận dụng tính đối xứng
liên hợp trong DMT của DSLs. Tính toán butterfly phụ thuộc vào N là một số dạng 2n
tạo thành thuật toán gọi là cơ số 2. Nhờ xác định thừa số của N bất kỳ trong các thừa
số cơ bản có thể xác định được các cấu trúc butterfly khác hữu ích và tính toán hiệu
quả hơn theo giá trị N mong muốn.
ĐIỀU BIẾN BIÊN ĐỘ CẦU PHƯƠNG (QAM) :
Là phương pháp điều chế hai chiều : hai hàm cơ bản là (đối với truyền dẫn tại thời
điểm 0 ) :
ϕ 1(t)= T
2 ϕ (t).cos(2π fct)
ϕ 2(t)= T
2 ϕ (t).sin(2π fct)
Trong đó ϕ (t) là hàm điều chế băng gốc như dạng hình sin hoặc dạng cos lồi căn
bình phương. Nhân các dạng xung bởi sin & cos loại bỏ năng lượng khỏi băng gốc để
tránh mức độ DC của cặp biến đổi đôi dây xoắn. Các xung QAM chịu sự suy yếu
nghiêm trọng từ đường dây trong ADSL. Một vài nhà chế tạo sử dụng các hệ thống
tương thích với QAM. QAM thường được sử dụng trong Modem băng thoại mà ở đó
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 71 -
các đặc tính đường dây có ít sự biến động trên băng tần nhỏ từ 3- 4 kHz, cho phép DC
tránh được và bộ thu được thực hiện với độ phức tạp có thể chấp nhận được .
Đối với truyền dẫn liên tục, QAM được thực hiện như sau :
x(t)=
T
2 ∑
k
x1,kϕ (t-kT).cos(2π fct)- x2,xϕ (t-kT).sin(2π fct)
Trong đó chú ý các hàm sin không được bù bởi kT trong chu kỳ ký hiệu thứ k. Bởi
vì có sự hiện diện của hàm sin và sự lựa chọn tuỳ ý khả năng của tần số sóng mang
tương ứng với tốc độ ký hiệu , các hàm QAM không xuất hiện giống nhau trong mỗi
đoạn ký hiệu. Có nghĩa là các hàm QAM cơ bản thường không có chu kỳ tại tốc độ ký
hiệu,xn(t)≠ xn (t-kT), thậm chí nếu là cùng một bản tin được truyền lập lại. Tuy nhiên
xung băng gốc được lặp lại trong mỗi giai đoạn ký hiệu.
Tóm lại: Điều chế QAM là điều chế hai chiều dùng kiểu điều chế 16 mức
QAM, và sử dụng bộ lọc thấp qua LPF.
Hình IV.19 Điều biến QAM
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 72 -
CHƯƠNG V
THỰC TẾ TRIỂN KHAI ADSL TẠI VIỆT NAM
5.1 TÌNH HÌNH ADSL Ở VIỆT NAM :
Trên lý thuyết công nghệ ADSL có rất nhiều điểm ưu việt. Song trên thực tế
không phải lúc nào ADSL cũng hoàn hảo. Do tốc độ của ADSL phụ thuộc vào khoảng
cách từ thuê bao cho đến DSLAM nên nếu ở xa tổng đài bạn sẽ không thể có được một
tốc độ tải dữ liệu như trên lý thuyết. Điều này có thể khắc phục bằng cách đặt nhiều
tổng đài DSLAM hơn nữa. Mật độ DSLAM trên một diện tích nhất định càng dày thì
tốc độ truyền dữ liệu càng cao. Tuy nhiên, đặt nhiều DSLAM cũng đồng nghĩa với chi
phí đầu tư cho hạ tầng tăng lên, mà điều này chưa chắc các nhà cung cấp dịch vụ đã
muốn.
Hạn chế thứ hai của ADSL bắt nguồn từ khả năng của hạ tầng mạng Internet Việt
Nam. Từ trước đến nay chúng ta vẫn biết dung lượng cổng Internet quốc tế của Việt
Nam không lớn.Như vậy dù tốc độ của ADSL có lớn đến bao nhiêu thì khi đi qua “cái
cổ chai” này cũng sẽ chậm đi rất nhiều.
Hạn chế thứ ba của ADSL lại nằn trong hạ tầng mạng của nước ngoài. Chẳng hạn
bạn muốn tải một đoạn Video trên máy chủ đặt tại Hàn Quốc. Nếu đường đi từ máy
chủ này đến chổ bạn không rộng (băng thông hẹp) thì tốc độ tải Video cũng sẽ không
cao.
Hạn chế thứ tư của ADSL là công nghệ này đòi hỏi đường dây cáp đồng có bán
kính 0,7-0,9 mm thì mới có thể phát huy tối đa tốc độ của mình. Trong khi đường dây
cáp đồng của VNPT hiện nay có bán kính 0,5 mm. Có thể khắc phục điều này bằng
cách trang bị một đường cáp mới nhưng lại nảy sinh vấn đề chi phí. Vì vậy khó có thể
có tốc độ truyền dữ liệu tối đa.
Điều cuối cùng là ngay cả các nhà cung cấp dịch vụ ADSL của Việt Nam cũng sẽ
không cung cấp cho bạn một tốc độ truyền dữ liệu cao mà chỉ khống chế trong phạm
vi từ 128 Kbps- 2 Mbps. Nguyên nhân là họ phải cân đối giữa năng lực công nghệ và
khả năng tài chính của mình.
Trong khuôn khổ dự án hợp tác kinh doanh với hãng KT (Korean Telecom) của
Hàn Quốc, VNPT đã triển khai thử nghiệm dịch vụ ADSL tại Hải Phòng vào tháng
2/2002 và TPHCM vào tháng 3/2002, thu được những kết quả hết sức khả quan. Tại
Hải Phòng, dịch vụ ADSL đã được cung cấp cho gần 200 người dùng thông qua 30
đường dây điện thoại trong đó có bảy đường cho Café Internet, 17 đường cho văn
phòng và 6 đường cho cá nhân. Kết quả thử nghiệm cho thấy tốc độ tải các file dữ liệu
nhanh gấp 227,5 lần, và tốc độ tải các file trên website nhanh gấp 12,5 lần so với tốc
độ của Modem quay số thông thường.
Tháng 12/2002, công ty Điện toán và Truyền số liệu (VDC)- công ty thành viên
của VNPT- đã phối hợp với bưu điện thành phố Đà Nẵng cung cấp thử nghiệm dịch vụ
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 73 -
ADSL với dung lượng một trăm cổng. Giữa tháng 5/2003 vừa qua, VDC đã phối hợp
với bưu điện Nghệ An triển khai thử nghiệm dịch vụ ADSL cho 24 thuê bao với tốc độ
tải xuống là 2Mbps và tải lên là 640Kbps.
Theo dự kiến, dịch vụ ADSL sẽ được VNPT-VDC chính thức triển khai tại một
số tỉnh thành lớn trên toàn quốc theo hai giai đoạn :
Giai đoạn 1: Từ 1/7/2003, triển khai trước tiên tại ba thành phố lớn là Hà Nội,
TP.HCM và Hải Phòng. Vài tuần sau đó, sẽ triển khai tiếp tục tại Hải Phòng, Quảng
Ninh, Bình Dương, Đồng Nai. Dự kiến số lượng các thiết bị DSLAM đặt tại tổng đài ở
Hà Nội sẽ là 90, ở TP.HCM là 60 và ở Hải Phòng là 25.
Giai đoạn 2 : Từ quý III năm 2003, triển khai tiếp tại mười tỉnh thành gồm Nghệ
An, Huế, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Khánh Hòa, Cần Thơ.
Dự kiến đến hết năm 2004, VNPT-VDC có thể cung cấp dịch vụ ADSL cho tất
cả các tỉnh thành trên toàn quốc.
Dịch vụ ADSL mà VDC cung cấp vào ngày 1/7 vừa qua có tên gọi là
MegaVNN. Người sử dụng dịch vụ MegaVNN có thể tải dữ liệu xuống với tốc độ tối
đa 2Mbps và tải lên ở tốc độ 640Kbps.Tốc độ này cao hơn hẳn so với dịch vụ ADSL
của Vietel và One Connetion (xem bảng so sánh dưới đây).
Tốc độ truy cập Nhà
cung
cấp
Hiện
trạng
nâng
cấp
Upload Download
Giá cước sử
dữ liệu
Lưu lượng sử
dụng
VDC Chính
thức
1/7/2003
640Kbps 2Mbps 1 triệu đồng Không giới
hạn
64Kbps 128Kbps 3 triệu đồngVietel Thử
nghiệm 64Kbps 256Kbps 6 triệu đồng
Không giới
hạn
64Kbps 128Kbps 3,9 triệu
đồng
EIS
(OCI)
Thử
nghiệm
64Kbps 256Kbps 6,9 triệu
đồng
Không giới
hạn
Nhờ sử dụng hạ tầng mạng viễn thông hiện có của VNPT, thuê bao dịch vụ
MegaVNN của VDC sẽ không phải trả khoản phí kéo cáp. Người sử dụng chỉ phải
trả tiền mua Modem ADSL khoảng 120 USD.
Đặt biệt, mức cước cho dịch vụ MegaVNN giá rẻ đến bất ngờ. Theo quyết định
105/2003/QĐ-BBCVT của Bộ bưu chính viễn thông ký ngày 18/6 ban hành mức cước
trần cho dịch vụ ADSL, và quyết định của Tổng Giám Đốc VNPT về cước truy cập
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 74 -
dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao ADSL, mức giá trần dịch vụ ADSL của
MegaVNN là 909,091 đồng (chưa bao gồm thuế VAT).
Cũng theo tài liệu hướng dẫn thực hiện các quyết định trên, phí sử dụng dịch vụ
ADSL của VDC sẽ bao gồm : tiền thuê bao tháng 181.818 đồng (chưa bao gồm
VAT) + số lượng Mb dữ liệu tải xuống (dùng bao nhiêu trả bấy nhiêu). Trong
phạm vi 2Gb dữ liệu đầu tiên, giá cước cho mỗi Mb tải xuống là 82 đồng. Từ Gb thứ 3
đến thứ 8, giá cước cho mỗi Mb là 64 đồng. Từ Gb thứ 9 trở đi, giá cước cho mỗi Mb
là 45 đồng. Tiền thuê bao tháng cộng với tiền trả cho lượng dữ liệu tải xuống phải
không được vượt qua mức giá trần 909.091 đồng.
5.2 CÁC THIẾT BỊ CẦN THIẾT CHO ADSL :
Thiết bị phía nhà cung cấp dịch vụ :
Bộ tập hợp truy nhập Aggregator.
Bộ ghép kênh truy nhập DSLAM (Digital Subcriber Line Access
Multiplexer).
Kênh truyền.
POTS spliter hay CO Spliter.
Thiết bị phía khách hàng :
Thiết bị đầu cuối DSL (DSL CPE - Digital Subsriber Line Customer
Premises Equipment).
PC/LAN.
CPE Spliter
5.2.1 Thiết bị phía nhà cung cấp dịch vụ :
Bộ ghép kênh truy cập DSLAM
DSLAM là bộ ghép kênh có chức năng trực tiếp cung cấp cổng kết nối tới khách
hàng. Đây là thiết bị tập trung các đường thuê bao riêng lẻ để đẩy lên mức trên và
ngược lại.
Bộ ghép kênh truy cập phải đạt được một số yêu cầu sau:
o Hỗ trợ MPLS, IP routing QoS cho phép triển khai nhiều loại ứng dụng qua
xDSL
o Hỗ trợ nhiều chuẩn DSL: ADSL, SDSL, IDSL, RADSL, VDSL.v..
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 75 -
o Khả năng tương tương thích với nhiều loại thiết bị đầu cuối khách hàng DSL
CPE của nhiều hãng sản xuất mở ra cho khách hàng nhiều khả năng lựa chọn
thiết bị đầu cuối.
o Hỗ trợ đa dạng các loại giao tiếp up-link băng rộng DS3/E3, OC3/STM-1, ..vv.
o Hỗ trợ kết nối đầu cuối người sử dụng E1, nx64 Kbps.
o Khả năng ứng dụng các kỹ thuật phân nhánh, xếp chồng...vv cho phép triển
khai linh hoạt khi thay đổi cấu trúc mạng.
o Cấu hình nhiều khe cắm có thể lựa chọn.
o V.v.
Vì ADSL kết nối trực tiếp đến Local Loop, ngoài ra vì khoảng cách giới hạn của
các Loop trong công nghệ DSL do đó các DSLAM thường được đặt tại các CO.
DSLMA là thiết bị không chịu lỗi Single-Point-of-Failure cho một số khách hàng lớn
trực thuộc khu vực. DSLAM cũng thường được đặt tại các khu vực CO không có
người quản lý kỹ thuật do đó hầu hết các nhà sản xuất thiết bị này phải chế tạo ra các
sản phẩm có khả năng chịu lỗi rất cao nhằm giảm thiểu các sự cố về mạng. Các tiêu
chuẩn sau cần được hỗ trợ :
o ANSI T1.413 Issue2 (ADSL over POTS).
o ITU G.992.1 Annex A.
o ITU G.992.2(Glite).
o ITU G.994.1(G.hs).
Bộ tập hợp truy cập Aggregator:
Bộ tập hợp truy cập là thiết bị có nhiệm vụ tập trung các kết nối về trung tâm theo
phương thức giảm thiểu kết nối logic. Aggregator tập trung các kết nối logic (các
PVC) đến từ các DSLAM rồi tổng hợp lại thành một hoặc một vài PVC để truyền tải
qua mạng trục tới kết cuối thứ hai của các kết nối logic đó (ISP, headquarter,
offices.v.v). Nếu không sử dụng Aggregator thì với nxPVC đến từ n thiết bị đầu cuối
sẽ chiếm nxPVC trên mạng trục.
Thông qua Aggregator, nhà cung cấp dịch vụ sẽ cung cấp cho khách hàng các dịch
vụ DSL như truy cập internet tốc độ cao, kết nối mạng riêng ảo, Video on Demand,
Video Broadcast, e-learning,..vv.
Yêu cầu đặt ra cho Aggregator:
o Hỗ trợ đa dạng các loại giao tiếp LAN/WAN để thuận lợi cho việc kết nối với
các Router, DSLAM: Ethernet/Fast/GigaEthernet, Serial, HSSI, ISDN, T3/E3,
OC3/STM-1, OC-12/STM-4, ...vv.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 76 -
o Khả năng xử lý cao tương xứng với vai trò là bộ tập trung, chấp nhận được
hàng ngàn kết nối tới từ phía khách hàng.
o Khả năng tương thích với các dòng sản phẩm của các hãng khác.
Vai trò của Aggregator là tập hợp tất cả các kết nối ảo logic vào trong một điểm
logic, điều này cũng đồng nghĩa với Aggregator tập hợp tất các các phiên PPP vào
một điểm sau đó mới dồn lên UP-link tới mạng trục. Về căn bản mỗi thuê bao có một
phiên PPP tuy nhiên số lượng kết nối PPP là không giới hạn trên mỗi kết nối DSL. Với
đặc tính này cho phép khách hàng khác nhau trong cùng một văn phòng chia sẻ cùng
một đường xDSL để đi ra ngoài mạng Internet. Các phiên PPP được xác thực
(Authentification) sau đó được kết thúc tại Aggregator. Thiết bị Aggregator có thể là
một thiết bị định tuyến đa chức năng, hoặc là một thiết bị mạng chuyên được thiết kế
cho việc tập hợp các băng rộng. Aggregator có thể thực hiện việc xác thực
Authentification, Cấp phép (Authorization) hay tính toán (Accounting) bởi một
RADIUS server đặt trên mạng của nhà cung cấp dịch vụ. Sau khi được xác thực,
Aggregator sẽ thiết lập một liên nối (route) từ nhà khách hàng đến nhà cung cấp dịch
vụ Internet. Các thiết bị Aggregator có thể được đặt bên cạnh thiết bị DSLAM ngay tại
các POP cung cấp dịch vụ hoặc có thể được đặt tịa khu vực trung tâm vùng và kết nối
đến các DSLAM ở mức dưới thông qua giao tiếp WAN. Các thiết bị Aggregator sẽ kết
hợp với hệ thống RADIUS đặt tại Trung tâm điều hành cho phép quản lý AAA cho
các khách hàng DSL như phương pháp truy cập Internet bình thường.
CO-Spliter (POTS Spliter) :
Hình V.1 Dải tần dùng cho thoại và dịch vụ ADSL
Dịch vụ ADSL cho phép sử dụng dịch vụ truyền dữ liệu tốc độ cao cùng với dịch
vụ thoại truyền thống trên cùng đôi dây cáp thoại đồng. Để có thể làm được điều này,
ADSL và dịch vụ thoại truyền thống sử dụng các giải tần số khác nhau. Để đảm bảo
các giải tần số này không gây nhiễu lẫn nhau, bộ phân chia được sử dụng. Bộ này
thường được gọi là POTS Splitter và đặt bên trong DSLAM hoặc bên ngoài đi kèm với
DSLAM trong quá trình cung cấp dịch vụ.
POTS
BAND
DC-8Khz ADSL
BAND
30 Khz-
1.1Mhz
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 77 -
Bộ lọc tần số thấp cho phép tiếng nối hay giải tần số của thoại truyền thống 200-
3500 Hz mà không cần phải điều chỉnh tín hiệu đầu vào. Hình V.1 chỉ ra giải tần số
dùng cho ADSL và dịch vụ thoại truyền thống.
Hình V.2 Sơ đồ cấu tạo POTS-Spliter
Khi cung cấp dịch vụ DSLAM trên cùng đôi dây cáp thoại, thì cần phải trang bị
thêm thiết POTS spliter bên cạnh DSLAM (thiết bị này có thể được tích hợp vào bên
trong DSLAM hoặc rời bên ngoài tuỳ vào nhà sản xuất thiết bị). Bộ POTS spliter có thể
bao gồm nhiều mạch con, tuy nhiên dự kiến ban đầu sẽ đầu tư một số bản mạch ít hơn
số cổng tối đa trên DSLAM. Mỗi bản POTS spliter sẽ bao gồm ít nhất 03 nhóm cổng
giao tiếp Telco 50pins : Một kết nối đến LocalLoop, Một kết nối với DSLAM và còn lại
dùng để kết nối với TelePhone Switching thuộc mạng PSTN. Dung lượng cho phép
trung bình trên mỗi POTS splitter trên thị trường hiện tại khoảng 300 ADSL lines.
5.2.2 Thiết bị đầu cuối khách hàng DSL CPE:
Thiết bị đầu cuối khách hàng bao gồm một loạt các thiết bị, card giao tiếp thực
hiện chức năng chuyển đổi dữ liệu người sử dụng thành dạng tín hiệu xDSL và ngược
lại. DSL CPE tiêu biểu là PC NIC, DSL modem, DSL bridge, Router.
CPE có thể là các PC hoặc Workstation, Remote ADSL Terminating Units (ATU-
R) hoặc Router. Ví dụ như một khách hàng Nhà riêng có thể sử dụng một PC đơn với
một ADSL modem tích hợp gắn trên PCI card, hoặc một PC với một giao tiếp Ethernet
hay giao tiếp Universal Serial Bus (USB) để kết nối đến một ADSL modem (ATU-R)
bên ngoài. Ngược lại đối với các khách hàng là các công ty thương mại thường kết nối
nhiều PC từ các user đầu cuối vào một router với ADSL modem tích hợp hoặc một
router và một ATU-R bên ngoài.
Hiện tại những sản phẩm này đang được nhiều hãng giới thiệu và chào hàng với
nhiều chủng loại phù hợp với từng loại khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu khác
nhau.
o 3com:HomeConnect 3647, 4130.
o Alcatel: Speedtouch Home
o Ambit:T60M104/07. Jetstream IAD-801. Cisco 677, 678..v.v.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 78 -
o Lucent: DSL ACAP, DSL DMT.v..v.
o Cisco: 802/804, 1417 ADSL Router, 1600, 1700.v.v.
CPE-Spliter
Tại thiết bị đầu cuối người sử dụng và tại CO, kết nối ADSL sử dụng hai bộ
splitter khác nhau nhằm đảm bảo mặt phân tách thông tin của dịch vụ thoại truyền
thống và dịch vụ ADSL. Cấu tạo bên trong của hai bộ phân chia này có thể không
giống hệt nhau, tuy nhiên chúng đều dựa trên cùng một sơ đồ cấu trúc bên trong như
đã trình bày ở trên. Bộ thiết bị CPE Splitter này còn đựoc gọi là Remote POTS splitter
phối hợp với POTS splitter đặt tại DSLAM nhằm phân tách tín hiệu tần số. CPE
Splitter cần phải hỗ trợ 03 giao tiếp RJ-11 : Một dành cho kết nối LocalLoop, một cho
kết nối tới DSL CPE và một dành cho kết nối tới máy điện thoại.
Tóm lại, để có thể kết nối Internet sử dụng dịch vụ ADSL thì ta phải mua một
Modem/Router ADSL + Splitter (để tách ghép tín hiệu dữ liệu và tín hiệu thoại
trên cùng một đường dây điện thoại)
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 79 -
CHƯƠNG VI
THAM KHẢO
6.1 TỔNG QUAN VỀ MATLAB
1.Giới thiệu về Matlab :
Matlab (Matrix labaratory) theo tên gọi của nó, là một công cụ phần mềm của
MathWorks, ban đầu nó được phát triển nhằm phục vụ chủ yếu cho việc mô phỏng các
nghiên cứu kỹ thuật bằng toán học với những phần tử cơ bản là ma trận. Trong các
lĩnh vực kỹ thuật chuyên ngành như điện & điện tử, điều khiển tự động, rô bốt công
nghiệp, vật lý hạt nhân, trong các ngành xử lý toán chuyên dụng như thống kê, kế
toán…thường gặp những dữ liệu rời rạc ta có thể lưu giữ dưới dạng ma trận. Còn đối
với hệ dữ liệu liên tục như âm thanh, hình ảnh hoặc đơn giản như các đại luợng vật lý
tương tự (analog ) : điện áp, dòng điện, tần số, áp suất, lưu lượng…phải được biến đổi
thành các tín hiệu số (digital) rồi mới tập hợp trong các file dữ liệu. Quá trình đó có
thể được xử lý bằng các hàm toán học của Matlab.
Matlab là một phần mềm có giao diện cực mạnh cùng nhiều lợi thế trong kỹ thuật
lập trình để giải quyết những vấn đề đa dạng trong nghiên cứu khoa học.
Matlab có thể chạy trên hầu hết các hệ máy tính từ PC cho đến các hệ Server
Computer. Matlab được điều khiển bởi các tập lệnh tác động qua bàn phím trên cửa sổ
điều khiển. Nó cũng cho phép mộ khả năng lập trình với cú pháp thông qua dịch lệnh,
còn gọi là Script File. Các lệnh hay bộ lệnh của Matlab lên đến con số hàng trăm, và
ngày càng được mở rộng bởi các phần Toolboxs (Thư viện trợ giúp) hay thông qua các
hàm ứng dụng được tạo lập bởi người sử dụng.
Các lệnh của Matlab rất mạnh, nó không những cho phép giải các loại hình toán
khác nhau mà còn có thể xử ký dữ liệu, biểu diễn đồ họa một cách mềm dẻo, đơn giản
và chính xác trong không gian hai chiều cũng như ba chiều bởi những công cụ như các
thư viện chuẩn, các hàm có sẵn cho các ứng dụng đa dạng.
Trong Matlab vấn đề cần giải quyết của bài toán sẽ được phân tích và xử lý theo 5
bước như sau :
Bước 1 : đặt vấn đề.
Bước 2 : mô hình tả các giá trị dữ liệu vào ra.
Bước 3 : các tính toán bằng tay với các tập dữ liệu đầu vào đơn giản.
Bước 4 : chuyển bài toán sang giải pháp bằng Matlab.
Bước 5 : kiểm tra .
Trong trường hợp không có kết quả hoặc kết quả sai thì điều đó có nghĩa là Matlab
chưa thực hiện được bài toán, ta cần kiển tra lại cả tính toán bằng tay và thao tác bằng
Matlab.
2. Cách sử dụng và chức năng của Matlab :
Giao diện của Matlab sử dụng hai cửa sổ : cửa sổ thứ nhất được sử dụng để đưa
các lệnh và dữ liệu vào đồng thời để in kết quả, cửa sổ thứ hai trợ giúp cho việc truy
xuất đồ họa dùng để thực hiện những lệnh hay kết quả đầu ra dưới dạng đồ họa.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 80 -
a. Biến trong Matlab :
Tên biến trong Matlab có thể dài đến 19 ký tự bao gồm các chữ cái từ A- Z, hay a-
z cùng các chữ số cũng như một vài ký tự đặt biệt khác, nhưng luôn phải bắt đầu bằng
chữ cái.
Độ lớn hay chiều dài của biến Vector cũng như mã hóa trận có thể được thông qua
giá trị của một số hàm có sẵn trong Matlab.
Ví dụ :
[m n]=size(A) : trả giá trị độ lớn của ma trận A vào vector xác định bởi hai biến
m và n
Length[x]: trả giá trị của vector x
Một số biến được đinh nghĩa trước.
Ví dụ :
Realmin : đưa ra giá trị của số nhỏ nhất mà máy tính có thể tính toán được.
b. Hàm và tạo hàm trong Matlab :
Matlab làm việc với các hàm viết dưới dạng file.m và các biểu thức chuẩn,
các biểu thức được đánh trực tiếp vào từ dấu nhắc ở cửa sổ lệnh Matlab
command window. File.m được tạo ra trong cửa sổ Matlab Editor/Debugger
mở cửa sổ này bằng cách vào Menu File/New/M_file
• Cách tạo File.m :
Hàm phải được bắt đầu bằng từ Function, sau đó lần lược là tham số đầu ra,
dấu =, tên hàm.
Nếu một hàm cho nhiều hơn một giá trị đầu ra, phải viết tất cả các giá trị trả
lại của hàm thành một vector trong dòng khai báo hàm.
Ví dụ : function[a,b,c]=motion(y).
Một hàm có nhiều tham số đầu vào cần phải liệt kê chúng khi khai báo
hàm..
Các biến đặc biệt nargin và narout xác định tham số đầu vào, số tham số
đầu ra được sử dụng trong hàm, các tham số này chỉ là biến cục bộ.
• Cách gọi File.m :
Để gọi file.m và hàm ta đánh tên file.m hay tên hàm từ cửa sổ lệnh.
c. Đồ họa trong Matlab :
Matlab sử dụng lệnh X-Y plots để vẽ đồ thị, biểu đồ cho các thông tin một
cách dễ dàng.Trong không gian hai chiều vẽ đồ thị tổng quát theo dữ liệu được lưu
trong hai vector X,Y.
Plot (x,y) : vẽ đồ thị theo tọa độ (x,y ).
Title : đưa các title vào hình vẽ.
xlabel : đưa các nhãn theo chiều x của đồ thị.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 81 -
Ylabel : đưa các nhãn theo chiều y của đồ thị.
Grid : vẽ các đường giống grid line trên đồ thị
6.2 GIỚI THIỆU VỀ MATLAB 6.5 :
1. Khởi động Matlab và thoát khỏi Matlab :
Từ màn hình Windows ta thực hiện như sau :
-Chọn Start/Programs/Matlab6.5/matlab6.5
Khi đó Matlab sẽ xuất hiện với màn hình command :
Đây là cửa sổ dùng để đưa lệnh, dữ liệu và đọc kết quả.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 82 -
Muốn thoát khỏi Matlab ta thực hiện như sau :
-Vào Menu File/Exit hoặc nhấn tổ hợp phím Ctrl Q
2.Cách tạo một Model file :
-Chọn menu File/new//model. Lúc đó sẽ xuất hiện một cửa sổ mới
Ví dụ : thiết kế hệ thống như hình VI.1 sau và lưu file với tên vidu.mdl
Hình VI.1 Sơ đồ hệ thống mô hình phỏng mạch Trigger
Để tạo được hệ thống như hình vẽ trên, ta click vào biểu tượng trên
thanh công cụ. Khi đó màn hình sẽ xuất hiện cửa sổ Simulink Library Browser:
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 83 -
Lần lược lựa chọn các khối theo các bước dưới đây :
-Khối sinewave : simulink / sourses / sinewave.
-Khối Backlash : simulink / discontinuities / backlash.
-Khối Mux : simulink / signal routing / mux.
-Khối outport : simulink / ports & subsystems / out1.
-Khối Scope : simulink / sinks / scope .
Sắp xếp các khối theo đúng như hình vẽ :
-Nối dây từ khối này sang khối khác bằng chuột.
-Nếu đường nối nhiều hơn ngõ ra của khối thì cần nhấn thêm phím Ctrl
Chạy thử hệ thống :
-Trong file vừa tạo chọn menu Simulation/start
-Click vào khối Scope và xem kết quả.
Trong command window :
>> [t,x,y]=sim(‘vidu’,6) % tạo thời gian t từ 0-6 (tần số)
>>plot(t,y) % vẽ hoàn toàn ngõ ra .
Hàm giả lập hệ thống :
[t,x,y]=sim(‘model’,timespan)
Với model là tập vidu.mdl mô hình tả hệ thống .
timespan là thời gian kết thúc.
Trị trả về t là thời gian từ 0 – timespan là ma trận 59x1.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 84 -
y là ma trận kết quả 59x2, có cột 1 chứa kết quả sau khi qua khối Trigger và
cột 2 chứa sóng sin nguyên thủy.
Plot(t,y(:,1)) % vẽ cột 1
Plot(t,y(:,2)) % vẽ cột 2
Để thay đổi thông số các khối, ví dụ để thay đổi biên độ và tần số sóng sin :
right click vào biểu tượng sinwave, chọn block parameters và đặt lại biên độ và tần số.
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 85 -
KẾT LUẬN
Qua đề tài này, chúng em đã tìm hiểu được:
ADSL là gì?
Là công nghệ cho phép truyền dữ liệu và truy cập Internet tốc độ cao
qua đường dây điện thoại.
ADSL hoạt động như thế nào?
-Sử dụng một đường dây điện thoại để vừa cung cấp dịch vụ thoại,vừa kết nối
Internet.
-Sử dụng 4kHz tần số thấp của băng thông cho phép để phục vụ thoại.
-Sử dụng tần số lớn hơn 4 kHz của băng thông cho phép để truyền số liệu.
Lợi ích của ADSL là gì?
-Gọi điện thoại và sử dụng Internet cùng một lúc.
-Tốc độ truy xuất nhanh gấp 140 lần so với modem Analog.
-Luôn luôn kết nối Internet.
-Độ tin cậy cao.
-Bảo mật.
Mô phỏng : cách hoạt động của hệ thống ADSL trong thực tế và một số cách
mã hoá/giải mã, điều biến/giải điều biến của ADSL.
Hướng phát triển của đề tài:
9 Mô phỏng hệ thống ADSL cho truyền dẫn dữ liệu + tín hiệu thoại.
9 Phát triển công nghệ ADSL thành công nghệ VDSL(Very high
Digital Subscriber Line)
Phân tích và mô phỏng hệ thống ADSL
- 86 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam,Trung tâm thông tin bưu điện,
“Tìm hiểu công nghệ đường dây thuê bao số xDSL”, nhà xuất bản bưu điện,
tháng 10-2001.
2. Nguyễn Việt Cường & Nguyễn Quý Sỹ, “Tài liệu giảng dạy kỹ thuật và
mạng cung cấp dịch vụ ADSL ”, Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn
Thông, Hà Nội 4/2003.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân Tích và Mô Phỏng Hệ Thống ADSL.pdf