4. Kết luận
Nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian tới đòi hỏi
Phần lớn giá trị xuất khẩu có nguồn gốc từ nhập khẩu, bao gồm nguyên vật liệu và các yếu tố đầu khác.221
những giải pháp thiết thực và đồng bộ để thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân,
gồm cả cá nhân, các hộ gia đình và các doanh nghiệp, trong nước và nước ngoài.
Trên cơ sở những nhận diện về tiềm năng tài ch nh còn rất lớn trong dân cư và những
“nút thắt” cơ ản trong nền kinh tế giai đoạn 2010-2014, căn cứ vào những điểm còn
hạn chế trong cơ chế, chính sách và các biện pháp thu hút đầu tư tư nhân trong thời
gian qua, chúng ta có thể chia sẻ về những giải pháp cơ ản góp phần hướng quỹ đầu
tư của tư nhân đồng hành với quỹ đầu tư ngày càng eo hẹp hơn của nhà nước, nhằm
đáp ứng nhu cầu và cải thiện hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, ít
nhất trong giai đoạn 2016-2020.
Điều cần được nhấn mạnh trong giai đoanh này là lựa chọn và sử dụng chính
sách tài khóa như là công cụ chủ đạo. Theo đó, các giải pháp như tăng nợ công thông
qua phát hành trái phiếu để có thể gia tăng đầu tư công, thu hút đầu tư tư nhân cũng
như k ch cầu toàn bộ nền kinh tế có thể được coi là giải pháp cơ ản đầu tiên và kế
tiếp sẽ là những ưu đ i về thuế và tăng lương để tăng quy mô quỹ đầu tư tư nhân.
Song song và phối hợp ch t chẽ với sự vận hành chính sách tài khóa, những biện
pháp cắt giảm lãi suất và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng một cách lành mạnh cho khu
vực tư nhân cũng ch nh là điều kiện cần và đủ để đầu tư tư nhân tham gia t ch cực
hơn vào sự phát triển và ổn nền kinh tế.
Do những hạn chế về thời gian và sự thiếu đầy đủ của số liệu thống kê, những
luận điểm trong bài viết chắc chắn để ngỏ nhiều câu hỏi. Chúng tôi trân trọng cảm ơn
và mong muốn nhận được những ý kiến chia sẻ và hoàn thiện thêm cho bài viết.
223 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 12/03/2022 | Lượt xem: 245 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề dẫn hội thảo Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
goài với mức lãi suất thấp hơn. Nh m góp phần khắc phục
những bất cập nêu trên, bài viết này trước hết sẽ tập trung phân tích thực trạng huy
động và sử dụng nguồn vốn tư nhân, sau đó dựa trên các dự báo và định hướng cơ
bản để đề xuất một số giải pháp khơi thông nguồn vốn tư nhân như là sự phát huy tối
đa “nội lực sẵn có” để phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới.
Key words: Ngân sách Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chính sách
thu hút đầu tư tư nhân, hợp tác công – tư, ch nh sách tài khóa, trái phiếu Chính phủ.
1. Đặt vấn đề
Đảm bảo nguồn vốn cho phát triển và ổn định của nền kinh tế - xã hội luôn là
điều thách thách với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Xét trên cả lý thuyết và thực tế,
100
Theo tính toán của nhóm tác giả tổng hợp từ www.mof.gov.vn, www.molisa.gov.vn, www.gso.gov.vn
204
tổng đầu tư vào nền kinh tế (I) chỉ có thể được hình thành từ nguồn vốn của Nhà
nước (Ig) và nguồn vốn của nhân (Ip). Tuy nhiên, ở các nước kinh tế thị trường, vốn
đầu tư của khu vực tư nhân được coi là nguồn lực quan trọng nhất bởi lẽ đầu tư tư
nhân luôn chiếm tỷ trọng tuyệt đối và đầu tư của nhà nước chủ yếu được sử dụng như
là công cụ điều tiết về cơ cấu và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Điển hình như
các nước Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Singapore, v.v nguồn vốn đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội chủ yếu dựa vào nguồn vốn tư nhân, quyết định và đảm bảo tốc độ tăng
trưởng kinh tế cũng như sự phát triển bền vững về xã hội. Tại Singapore, quốc đảo
nhỏ bé ở khu vực Đông Nam Á, tổng nguồn vốn đầu tư của tư nhân hàng năm cũng
đ lên đến hàng trăm tỷ USD. M t khác, đầu tư của tư nhân luôn được đánh giá về
chất lượng và tính hiệu quả rất cao. Thực tế ở hầu khắp các nước cho thấy rằng các
cơ sở cung cấp dịch vụ xã hội như ý tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bảo hiểm, v.v...,
do tư nhân đầu tư và quản lý luôn được đánh giá tốt hơn về chất lượng cũng như giản
tiện về thủ tục hành chính so với các cơ sở tương tự được đầu tư ằng nguồn vốn và
do Nhà nước vận hành.
Ở Việt Nam, số liệu thống kê cho thấy trong những năm gần đây, sự tham gia
nguồn vốn tư nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội với quy mô ngày càng lớn
và tỷ trọng lớn nhất kể từ khi thực hiện Đổi mới (1986) đến nay, nhất là giai đoạn
2010-2014. Điều này không chỉ phản ánh nhu cầu đầu tư tìm kiếm lợi nhuận mà còn
phản ánh sự sẵn sàng “chung tay hợp tác” của khu vực tư nhân vào các lĩnh vực kinh
tế - xã hội vốn là “lĩnh vực độc quyền” của Nhà nước, góp phần giảm tải gánh n ng
cho Ngân sách Nhà nước (NSNN). M t khác, thu nhập và đời sống của người dân đ
được cải thiện đáng kể trong thời gian qua, do vậy công chúng sẵn sàng tham gia đầu
tư để có cơ hội thu nhập cao hơn nữa, đồng thời cũng sẵn sàng chấp nhận chi phí cao
hơn để được tiêu dùng và tận hưởng những dịch vụ tiện ích và có chất lượng tốt hơn.
Trong giai đoạn sắp tới, để đảm ảo đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm
năng ở mức 7,5%-8% như trong giai đoạn 1990-2001, trong điều kiện chỉ số ICOR
của Việt Nam được cho là đang ở mức 5.5101, chúng ta cần lượng vốn đầu tư tăng
thêm tối thiểu từ 41,25 đến 44% GDP, tương đương 75,9 đến 80,2 tỷ USD mỗi năm
t nh theo GDP năm 2014. Giả thiết thêm rằng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) vào Việt Nam cũng được ổn định và ở mức cao nhất giai đoạn năm 2009 -
2014 là 11,5 USD/năm thì nhu cầu về lượng vốn đầu tư tăng thêm trong nước vẫn
cần đến t nhất ở mức từ 64,8 đến 69,1 tỷ USD mỗi năm. Trong khi NSNN đang khó
khăn, tỷ lệ thu NSNN so với GDP đ giảm mạnh từ mức khoảng 26% GDP năm 2011
xuống còn 20% GDP năm 2014 và chi NSNN ngày càng tăng dẫn đến mức thâm hụt
101
Trên thực tế, chỉ số ICOR luôn có xu hướng tăng theo quy luật lợi ích cận biên giảm dần.
205
giai đoạn năm 2007 – 2014 ước khoảng 5,4% GDP102; năm 2015, các chuyên gia
nhận định khả năng thâm hụt NSNN sẽ tăng thêm 45 - 64 nghìn tỷ VND, tương ứng
tỷ lệ thâm hụt từ 6,0 - 6,5% GDP103. Với tình hình về NSNN như vậy, rõ ràng quy mô
đầu tư của Nhà nước sẽ rất hạn chế. Việc tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân để
thúc đẩy sự phục hồi và tăng trưởng của nền kinh tế là điều có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
Trên cơ sở nhận diện về tình hình thực hiện thu hút nguồn vốn tư nhân ở Việt
Nam trong thời gian qua, ài viết tập sẽ trung vào tìm kiếm và đề xuất một số giải
pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân nhằm đáp ứng phát triển kinh tế -
x hội ở Việt Nam trong thời gian tới.
2. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn vốn tư nh n ở Việt Nam giai
đoạn 2010 – 2014
Nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân ở Việt Nam bao gồm cả ở trong nước và
nước ngoài. Nguồn vốn trong nước lại có thể phân chia thành nguồn vốn của các cá
nhân, hộ gia đình, ch nh là khoản chênh lệch của thu nhập và tiêu dùng hiện tại và lợi
nhuận không chia của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn vốn tư nhân từ
nước ngoài vào sẽ bao gồm các khoản đầu tư trực tiếp và gián tiếp, và nguồn kiều
hối. Chúng ta sẽ tìm hiểu về tình hình thu hút các nguồn lực này trong giai đoạn
2010-2014.
2.1. Nguồn lực tài chính trong dân cư - Tiềm năng c n rất lớn
Đối với nguồn vốn của dân cư chủ yếu thông qua các phương thức: huy động
tiền gửi tiết kiệm của các (ngân hàng thương mại) NHTM, đầu tư vào cổ phiếu, trái
phiếu thông qua hoạt động của thị trường chứng khoán. Ở Việt Nam, huy động vốn
từ dân cư thông qua tiền gửi tiết kiệm tại các NHTM vẫn là phương thức phổ biến và
quan trọng nhất, đồng thời cũng là kênh hình thành nguồn vốn quan trọng cho đầu tư,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội. Trên thực tế, trong khoảng thời gian
từ năm 2006 - 2010, khi mức lãi suất huy động tiết kiệm ở mức cao, có thời điểm đến
18%/năm, các NHTM đ huy động được một lượng tiền gửi tiết kiệm rất lớn. Tuy
nhiên, giai đoạn năm 2011 - 2013, m t bằng lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm bắt
đầu giảm, đ c biệt từ đầu năm 2014, mức cắt giảm từ 0,5 - 1,5%/năm so với cuối năm
2013. Tại thời điểm cuối tháng 9/2014, lãi suất huy động phổ biến ở mức 5 - 6%/năm
đối với tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng và 6 - 7,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6
tháng đến dưới 12 tháng, kỳ hạn trên 12 tháng chỉ còn 7,3 - 7,8%/năm. M c dù có tín
102
Bộ tài chính, số liệu tính bao gồm cả trả nợ gốc
103
.html
206
hiệu tăng nhẹ từ tháng 5/2015, nhưng l i suất huy động tiền gửi tiết kiệm của các
NHTM cũng chỉ tăng chủ yếu ở các kỳ hạn dài với mức tăng từ 0,3-0,5%/năm104. Có
thể thấy rõ là mức lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm đ không thực sự hấp dẫn,
chưa kể những lo lắng về lạm phát và sự biến động phức tạp của tỷ giá giữa đồng
Việt Nam (VND) và Đô-la Mỹ (USD). Trên thực tế, các NHTM chủ yếu cũng chỉ
huy động được vốn ngắn hạn, tỷ trọng vốn trung và dài hạn khá thấp, do vậy hoạt
động sử dụng vốn của các NHTM chủ yếu là cho vay ngắn hạn ho c đầu tư vào trái
phiếu chính phủ. Thậm chí, tại nhiều thời điểm, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần
(NHTMCP) còn phải mua bán vốn trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao
ho c sử dụng vốn vay từ ch nh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).
Bên cạnh nguồn vốn của dân cư được huy động qua từ tiền gửi tiết kiệm, thu hút
đầu tư vào thị trường chứng khoán cũng là một kênh khá hấp dẫn đối với những cá
nhân và hộ gia đình sẵn sàng ưa th ch ho c chấp nhận mạo hiểm hơn. Trong giai đoạn
từ 2005, đ c biệt từ khi Luật Chứng khoán được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006,
có hiệu lực từ 01/01/2007, hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam đ đạt
được những thành công nhất định trong việc huy động và dẫn truyền vốn đầu tư cho
nền kinh tế. Quy mô thị trường đ tăng mạnh đến mức 22,7% GDP năm 2006 và tiếp
tục tăng đến mức trên 43% năm 2007. Tuy nhiên cũng từ sau năm 2007, chỉ số giá
chứng khoán đ sụt giảm liên tục trong năm 2008 làm mức vốn hóa thị trường giảm
hơn 50%, xuống còn 18% GDP. Sự kém hấp dẫn của thị trường tiếp tục kéo dài trong
suốt thời gian năm 2009 - 2013. Trong năm 2014, trước dấu hiệu tích cực của nền
kinh tế, thị trường chứng khoán đ dần ổn định và có dấu hiệu tăng tăng trưởng. Tính
đến ngày 08/12/2014, chỉ số VN-Index đạt 571,68 điểm tăng 13,3% so với cuối năm
2013, chỉ số HNX-Index đạt 87,17 điểm tăng 28,5% so với cuối năm 2013. Tổng giá
trị giao dịch toàn thị trường đạt 1.164 nghìn tỷ VND, tăng 90% so với năm 2013. Giá
trị giao dịch bình quân mỗi phiên đạt 5.448 tỷ VND trong đó giá trị giao dịch cổ
phiếu, chứng chỉ quỹ bình quân mỗi phiên đạt 2.971 tỷ VND, cao gấp 2,2 lần so với
năm 2013. M c dù vậy, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chỉ được đánh giá là
“vẫn trong giai đoạn sơ khai” với chất lượng và t nh đại diện của các loại chứng
khoán niêm yết thấp, phương thức quản lý chưa hiệu quả và mức độ rủi ro vẫn cao.
Trong năm 2015, m c dù tín dự áo tăng trưởng GDP sẽ đạt ho c vượt 6,2%, lãi suất
ngân hàng duy trì ở mức khá thấp, tăng trưởng tín dụng bắt đầu trở lại, sức cầu nền
kinh tế đang dần được phục hồi nhưng thị trường chứng khoán lại có dấu hiệu chững
lại bởi các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường vẫn còn hạn chế105.
104
cao-nhat-a97644.html
105
207
Điều đáng nhấn mạnh là trong khi các phương thức huy động vốn từ dân cư một
cách chính thức thông qua tiền gửi tiết kiệm của các NHTM hay đầu tư vào thị
trường chứng khoán đang g p nhiều khó khăn thì một khối lượng tiền m t rất lớn,
nhiều nghìn tỷ VND lại được huy động bằng con đường không chính thức thông qua
các hình thức “t n dụng đen”. Khối lượng tiền vốn rất lớn của dân cư đ được triển
khai thực hiện ở nhiều địa phương cả các vùng nông thôn đến các thành phố lớn,
không được sử dụng đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh và đời sống mà
đ ị chiếm đoạt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều hộ gia đình và tạo sự bất ổn
định cho nền kinh tế - xã hội.
Bên cạnh nguồn vốn tư nhân trong nước đ khai thác được qua hệ thống ngân
hàng thương mại và thị trường chứng khoán, còn một lượng dự trữ rất lớn bằng tiền
m t kể cả đồng nội tệ và ngoại tệ, vẫn đang “chôn ch t” trong két sắt của nhiều gia
đình giàu có. Không thể xác định được ch nh xác, chưa thể huy động và kiểm soát.
Nhu cầu vàng nhập khẩu tính cả vàng thỏi và vàng nữ trang lên đến hàng trăm tấn
mỗi năm. Ngoài ra, tỷ trọng thanh toán bằng tiền m t cũng như các hoạt động kinh
doanh vàng qua sàn giao dịch ảo ở nước ngoài, v.v... là những bằng chứng cho thấy
nguồn lực tài chính dồi dào ở khu vực tư nhân nhưng chưa có các phương thức hiệu
quả huy động vào nền kinh tế.
Bảng 1: Số lượng vàng nhập khẩu của Việt Nam
Đơn vị: tấn
Nội dung Năm 2011 2012 2013 2014
Vàng nữ trang 13 12,5 40 12,7
Vàng thỏi 87,8 75,2 70 56,4
Tổng 100,8 97,7 110 69,3
Nguồn: Hiệp hội vàng thế giới WGC
Ngoài tiền m t, tiềm năng nguồn lực tài ch nh dân cư của Việt Nam còn rất lớn
nhưng rất l ng ph dưới hình thức dự trữ vàng và ngoại tệ mạnh. Bảng 1, Hiệp hội
vàng thế giới (WGC) cho biết lượng vàng nhập khẩu các loại của Việt Nam giảm qua
các năm trong giai đoạn 2011-2014, song đây chỉ là những con số chính thức, “phần
nổi”. Thật sự khó khăn để xác định chính xác, tuy nhiên, thời điểm tháng 6/2013, số
liệu Hội đồng Vàng thế giới cung cấp dự trữ vàng trong dân ở Việt Nam khoảng
1.072 tấn (số cộng dồn từ các hóa đơn mua án vàng của Việt Nam ở nước ngoài từ
năm 2000), xếp vị trí khoảng thứ 5 thế giới về lượng vàng dự trữ106. Như vậy, nếu căn
cứ số liệu tiếp theo đến hết năm 2013, năm 2014, số lượng vàng dự trữ trong dân xấp
xỉ 1.200 tấn. Hoạt động kinh doanh của các sàn vàng vẫn diễn ra với quy mô nhiều
106
208
tấn bất chấp sự nghiêm cấm của Nhà nước. Người dân Việt Nam dự trữ vàng không
phải chỉ là sự sùng bái hay thói quen truyền thống mà còn có những lý do về chính
sách quản lý, kinh doanh vàng, sự duy trì chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng
quốc tế, thậm chí những động cơ này còn mạnh hơn cả thói quen truyền thống hay
những lo lắng về sự mất giá của VND.
Cùng với dự trữ vàng cũng là dự trữ ngoại tệ mạnh, chủ yếu là USD. Số liệu
thống kê của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 2014 cho thấy tình trạng Đô-la hóa
(Dollarization) ở Việt Nam đ giảm trong giai đoạn 2010-2014, xuống còn mức thấp,
dưới 15% (2014) được đánh giá thông qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trong mức cung tiền
M2 (FCD/M2). Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng M2 của Việt Nam có mức tăng
trung ình trong giai đoạn này là 15,6% năm và như vậy rõ ràng lượng tiền gửi tiết
kiệm ngoại tệ của dân cư vẫn tăng và quy mô là không nhỏ. Hơn nữa, điều mà số liệu
thống kê chính thức đều không thể phản ánh đầy đủ đó là lượng tiền m t bằng USD
do công chúng nắm giữ dưới dạng tài sản phi tài chính, không nằng trong các tài
khoản tiền gửi tiết kiệm hay đầu tư vào trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ. Chỉ khi
cần thiết, mới phục vụ cho các giao dịch khác nhau ở mọi quy mô, từ mua bán những
hàng hóa tiêu dùng thông thường đến mua án nhà, đất, xe ô-tô, v.v..., từ các thành
phố đến các địa phương và vùng iên mậu đều có thể diễn ra trực tiếp bằng ngoại tệ.
Điểm chung nhau của việc dự trữ vàng và ngoại tệ mạnh là người dân Việt Nam
sẵn sàng mua vàng và USD mỗi khi giá vàng và tỷ giá USD/VND trong nước tăng,
thậm chí ngay cả những thời điểm giá vàng và ngoại tệ trên thị trường quốc tế giảm.
Riêng điều này cũng đ làm cho thị trường ngoại hối Việt Nam diễn biến rất phức
tạp, gây khó khăn không nhỏ cho các cơ quan quản lý nhà nước nói chung và NHNN
nói riêng. Xét riêng tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ của dân cư tại các NHTM luôn gây ra
trạng thái dư thừa ngoại tệ dẫn đến sự vận động một cách luẩn quẩn của luồng vốn
ngoại tệ ra – vào Việt Nam. Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam nhiều lần phải
chấp nhận mức lãi suất rất cao, từ 6,95% đến 7,125% năm và với những điều kiện
khác để huy động từ vài trăm triệu đến 1 tỷ USD từ nước ngoài về thì các NHTM
Việt Nam đang huy động ngoại tệ của dân cư trong nước với mức lãi suất dưới 2%
năm và sau đó gửi vào các NHTM nước ngoài với quy mô hàng tỷ USD. Câu hỏi đ t
ra là tại sao có hiện tượng này và liệu có mâu thuẫn về lợi ích của Nhà nước, nhân
dân và các định chế tài chính trung gian.
Nguồn vốn tư nhân khác là kiều hối cũng đóng góp phần quan trọng không nhỏ
khi được đầu tư cho sản xuất kinh doanh ở Việt Nam. Hiện nay, cộng đồng người
Việt ở nước ngoài với khoảng 4 triệu người, sống và làm việc ở hơn 100 quốc gia.
Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam có xu hướng tăng qua các năm và không đơn
thuần nhằm mục đ ch trợ cấp cho thân nhân trong nước. Năm 2008, m c dù khủng
209
hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra, nhưng lượng kiều hối gửi về Việt Nam vẫn đạt mức
7,2 tỷ USD. Năm 2010, với đà phục hồi của kinh tế thế giới, Việt Nam tiếp tục nhận
được dòng kiều hối với giá trị trên 8 tỷ USD và được Ngân hàng Thế giới (WB) xếp
ở vị tr 16/20 nước tiếp nhận nguồn kiều hối lớn nhất thế giới. Năm 2013, Việt Nam
lọt vào top 10 quốc gia có lượng kiều hối lớn nhất, đạt tới 11 tỷ USD107 và năm 2014
đạt 12 tỷ USD108. Dòng vốn này thật sự đ có những tác động to lớn đối với các cá
nhân nhận tiền nói riêng cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói
chung.
Quy mô kiều hối về Việt Nam có xu hướng tăng xuất phát từ sự ổn định và phát
triển của nền kinh tế trong nước, tạo ra những cơ hội đầu tư cho kiều bào ở nước
ngoài. Ngoài ra, các chính sách về đầu tư, cho phép mua và đăng ký quyền sử dụng
đất, v.v..., chính là những động thái quan trọng thu hút vốn đầu tư từ kiều bào ở nước
ngoài. Vấn đề đ t ra là trong thời gian tới cần có những chính sách mạnh mẽ và hiệu
quả hơn nữa góp phần duy trì và tăng cường khả năng thu hút kiều hối nhiều hơn nữa
trong tương lai.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, 2014.
2.2. Thu hút đầu tư của tư nhân thông qua phương thức kết hợp công - tư
(PPP)
Trong thời gian 2011-2014, ngoài việc gia tăng đầu tư của NSNN, việc thu hút
đầu tư tư nhân cùng tham gia phát triển kinh tế - x hội ở các lĩnh vực khác nhau của
nền kinh tế cũng đ được tăng cường khuyến kh ch. Nhiều văn ản pháp lý như:
Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về việc an hành Quy chế th điểm đầu tư theo hình
thức kết hợp công – tư (PPP) được an hành và ch nh thức có hiệu lực từ
ngày15/1/2011; Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/1/2012 của Ban chấp hành Trung
107
h%E1%BB%91i-trong-ph%C3%A1t-tri%E1%BB%83n-kinh-t%E1%BA%BF---x%C3%A3-h%E1%BB%99i.aspx
108
210
ương về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng ộ nhằm đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại năm 2020; Nghị định số 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo
hình thức đối tác công tư an hành ngày 14/2/2015 quyết định dỡ ỏ hạn mức vốn
Nhà nước đ tăng t nh hấp dẫn của các dự án PPP được thực hiện không chỉ ở mảng
hạ tầng mà còn mở rộng sang các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể
thao, v.v... Trên cơ sở đó, khu vực tư nhân đ có cơ hội thực hiện các hoạt động đầu
tư ở các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế: Ở mảng cơ sở hạ tầng, nguồn vốn tư
nhân đ tham gia cho các lĩnh vực điện, viễn thông giao thông đường ộ, đường
không và cảng iển được thực hiện chủ yếu dưới hình thức sử dụng nguồn vốn tư
nhân, nguồn vốn hỗn hợp Nhà nước kết hợp tư nhân (PPP) cho các dự án BOT, BT,
BTO, được triển khai ở nhiều tỉnh thành phố trong cả nước. V dụ; Quảng Ninh hiện
có 6 dự án đang triển khai theo hình thức đối tác công tư trong đó có 3 dự án Bộ Giao
thông Vận tải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các dự án này gồm dự án cải tạo,
nâng cấp quốc lộ18 đoạn TP.Uông B – TP.Hạ Long; dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ
18 đoạn Bắc Ninh – TP.Uông B và dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 18 đoạn Hạ Long
– Mông Dương; dự án cầu Bạch Đằng; dự án cảng hàng không Quảng Ninh; dự án
đường cao tốc Hạ Long – Vân Đồn – Móng Cái109.
Ở các lĩnh vực y tế, theo số liệu của WHO về Tài khoản y tế quốc gia, năm
2013, Việt Nam đ chi 7,8% GDP hay 80 USD/người cho y tế, trong đó chi từ NSNN
chiếm 40%, tư nhân chiếm 60%. Số lượng các phòng khám và ệnh viện tư nhân
cũng đang tăng nhanh, cùng với loại hình dịch vụ y tế đa dạng được cung cấp trên cơ
sở người ệnh trực tiếp trả tiền. Ngay cả tại các phòng khám và ệnh viện công, các
nhà thuốc tư nhân cũng phát triển ùng nổ. Ở ngành giáo dục, số lượng các trường tư
đ tăng nhất là các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học. T nh ình quân ở tất cả các
hệ, số lượng trường tư/tổng số trường học năm sau cao luôn hơn năm trước.
Nếu như trong năm 2010, số lượng các trường tư chỉ chiếm tỷ trọng 21% thì đến
tháng 6/2015 đ lên đến khoảng 26,3%. Số học sinh đăng ký vào các trường tư cũng
gia tăng từ 4,2 triệu năm 2010 lên tới 5,2 triệu năm 2014 tương ứng với mức tăng từ
16% lên 22%/tổng số học sinh đăng ký trong giai đoạn này110. Tại các thành phố lớn
như Hà Nội và thành phố Hồ Ch Minh, ngày càng nhiều những t n hiệu đáng mừng
của khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ giáo dục. Hội nghị xúc tiến đầu tư
2014 được Đại học Quốc gia thành phố Hồ Ch Minh tổ chức đ thu hút được nhiều
nhà đầu tư cho 20 dự án tại khu đô thị Đại học Quốc gia thành phố Hồ Ch Minh với
tổng số vốn lên đến 8.682 tỷ VND. Tất cả các dự án này đều được thực hiện dưới
109
110
Hợp tác với CHLB Đức (2013), Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020 và tổng hợp số liệu từ
www.molisa.gov.vn
211
hình thức đầu tư PPP nhằm phát triển hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động
học tập, giảng dạy, cư trú, thể dục thể thao vui chơi giải tr cho toàn ộ sinh viên và
cán ộ nhà Trường111.
Tương tự như lĩnh vực y tế, giáo dục, sự tham gia của các công ty cổ phần trong
lĩnh vực ảo hiểm cũng cho thấy sự nỗ lực và sẵn sàng tham gia của tư nhân tương
ứng với thị phần hoạt động so với các công ty ảo hiểm Nhà nước từ 14%/năm 2010
lên đến 20,4%/tháng 6/2015. Ngoài ra, năm 2014, chương trình mục tiêu quốc gia
nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn cũng đ ước đầu tạo được sự thu hút tư
nhân đầu tư. Kết quả là số lượng, quy mô và vốn đầu tư của các dự án của khu vực tư
nhân ngày càng lớn như tỉnh Hà Nam có 11 doanh nghiệp, tỉnh Thái Bình đ có
những ch nh sách đột phá hỗ trợ cho tư nhân theo phương thức kết quả đầu ra (hỗ trợ
3 triệu VND/m3 công suất của nhà máy) và hiện 17 doanh nghiệp đăng ký đầu tư xây
dựng công trình nước sạch với số vốn 1.085 tỷ VND. Trên cả nước hiện nay, toàn
quốc hiện có khoảng 15.093 công trình cấp nước tập trung với các mô hình quản lý
khác nhau như cộng đồng 48%, trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
tỉnh 19%, tư nhân 11%, ủy an nhân dân x 12%, doanh nghiệp 5%, hợp tác x 3%,
Ban quản lý 2%, v.v
Bảng 2: Sự tham gia của khu vực tư nh n với các hoạt động giáo dục, y tế và
bảo hiểm ở Việt Nam
Đơn vị: %
Nội dung Năm 2010 2011 2012 2013 2014 T6/2015
Tỷ lệ trường
tư/trường công
tham gia hoạt động
giáo dục
21 23 23 24 26 26,3
Tỷ lệ ệnh viện
tư/ ệnh viện công
tham gia cung cấp
dịch vụ y tế
9 11 12 13 15 15,1
Thị phần hoạt động
của công ty cổ phần
ảo hiểm /công ty
ảo hiểm Nhà nước
14 15 17 18 20 20,4
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ www.moet.gov.vn, www.moh.gov.vn, www.vietstock.vn
Sự tham gia của đầu tư tư nhân thực sự đ tạo ra những hỗ trợ t ch cực đối với
nền kinh tế, tuy nhiên, việc sử dụng nguồn vốn tư nhân chưa đảm ảo khả năng phát
triển kinh tế - x hội một cách ền vững, thể hiện ở một số m t khác nhau. Thứ nhất,
111
212
đầu tư của tư nhân chỉ tập trung ở một số lĩnh vực và tại các đô thị lớn, đảm ảo được
mức sinh lợi nhất định và những điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện đầu tư
hơn là những “địa chỉ” thực sự cần thu hút. Điển hình về lĩnh vực giao thông, đa số
các dự án PPP tập trung vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chủ yếu là đường cao tốc hay các
trường học tư nhân tư nhân có xu hướng tập trung vào giáo dục ậc cao như dạy
nghề, đào tạo đại học và việc chiêu sinh dựa trên khả năng chi trả học ph chứ không
phải trên cơ sở năng lực hay nhu cầu học tập. Thứ hai, chư có cơ chế đảm ảo hiệu
quả và t nh ền vững của các dự án cũng như giảm thiểu sự lệ thuộc vào quy mô, thu
nhập và năng lực triển khai dự án của tư nhân. Thực tế đ có không ít dự án PPP phải
dừng thực hiện ho c kéo dài đ giảm hiệu quả thậm ch thua lỗ do những thay đổi về
cơ chế, ch nh sách, sự iến động của giá cả ho c giải ngân của NHTM. Thứ ba, thực
hiện dự án không đúng tiến độ và không đảm ảo chất lượng nên công trình dự án
xuống cấp, chậm đưa vào sử dụng, ngay cả khi đ hoàn thành, tình trạng thất thoát,
l ng ph vốn xảy ra và mức độ nghiêm trọng xu hướng gia tăng đ c iệt với các dự án
PPP. Thứ tư, việc tiếp cận và sử dụng vốn vẫn còn g p nhiều khó khăn khi thủ tục
hành ch nh chưa được cải cách triệt để, trong khi sự hỗ trợ của Nhà nước về cơ sở
pháp lý lại “vừa thừa”, “vừa thiếu”. Thứ năm, quá trình triển khai các dự án PPP đ
ộc lộ nhiều vấn đề ất cập về năng lực quản lý sử dụng vốn và tài sản, chất lượng
nguồn nhân lực, công nghệ, v.v..., từ cả hai ph a Nhà nước và chủ đầu tư tư nhân đ
gây ra những hậu quả đáng tiếc cả về tài sản và con người. Có thể thấy rằng những
hạn chế trên đây cũng ch nh là “rào cản” đối với việc mở rộng ứng dụng các dự án
PPP, thu hút đầu tư tư nhân, tham gia đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển ền
vững kinh tế - x hội Việt Nam.
2.3 Tình hình thu hút và triển khai các dự án FDI
Các dự án đầu tư trực tiếp (FDI) nước ngoài ch nh là đầu tư tư nhân nước ngoài
vào Việt Nam. Một cách khái quát, việc thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong giai
đoạn 2011-2014 đ rất thành công và đạt mức trung ình hàng năm là cao nhất, trên
11,5 tỷ USD. Trên thực tế, các doanh nghiệp FDI đ được ghi nhận là đóng góp tới 3
trong 4 “điểm sáng” của nền kinh tế Việt Nam năm 2014. Đến thời điểm hiện nay, có
101 quốc gia có đầu tư tại Việt Nam với 17.768 dự án, tổng vốn đăng ký 252,715 tỷ
USD. Đầu tư tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo với
9.600 dự án, vốn đăng ký 141,4 tỷ USD, chiếm 54% số dự án và 56% tổng vốn đăng
ký, tiếp theo là lĩnh vực kinh doanh bất động sản, xây dựng, dịch vụ lưu trú, v.v...,
trong đó Nhật Bản là một trong những quốc gia có mức đầu tư nước ngoài lớn tại
Việt Nam112.
112
213
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia thuộc các cơ quan quản lý khác nhau dự đoán rằng
vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam kể cả các dự án mới và tăng thêm vốn cho các dự
án đang thực hiện đều có xu hướng giảm. Cụ thể trong trường hợp các nhà đầu tư
Nhật Bản, vốn đầu tư đ cắt giảm 65% từ mức 5,87 tỷ USD vào năm 2013 xuống còn
2,05 tỷ USD vào năm 2014113. Những khó khăn chung của nền kinh tế thế giới sẽ làm
giảm nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam có thể kể đến bao gồm: kinh tế Nhật Bản
tăng chậm; khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và những sự chi phối, ảnh hưởng các
nước khu vực Eurozone như CHLB Đức, Pháp; nền kinh tế Mỹ phục hồi chậm; kinh
tế Trung Quốc cũng có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại, v.v.... Do vậy, số lượng và quy
mô các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đ có sự giảm thấp bắt đầu từ
năm 2014, tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 21,92 tỷ USD, chỉ bằng 98,1%
so với năm 2013. M t khác, chất lượng và sự phân bổ các dự án FDI đ cấp phép và
thực hiện cũng là vấn đề đáng quan ngại mang tính chủ quan, chưa kể đến các vấn đề
về ô nhiễm môi trường và chuyển giá chưa được giải quyết một cách triệt để. Đa số
các dự án FDI đến nay vẫn bị đánh giá là có hàm lượng công nghệ khá thấp, chủ yếu
là gia công lắp ráp và giá trị gia tăng không lớn, tỷ trọng giá trị nguyên vật liệu nhập
khẩu trong giá thành xuất khẩu rất cao. Nhiều dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật
chất ho c chế biến nhưng chưa “sâu” để phát huy tiềm năng thế mạnh của Việt Nam,
trong khi nhiều sự án khác hướng vào cung cấp dịch vụ giải trí ho c số t người tiêu
dùng thu nhập ở mức rất cao. Nguyên nhân của những hạn chế này lại thuộc về trách
nhiệm của các cơ quan cấp phép và quản lý đầu tư. Ngoài ra, môi trường đầu tư của
Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng bởi các thủ tục hành chính cấp phép và quản lý
hoạt động các dự án FDI khá phức tạp, thiếu đồng nhất đ thực sự gây quan ngại cho
các nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí phải thay đổi các quyết định về đầu tư, gây ra
những phí tổn và sự lãng phí.
3. Giải pháp tăng cường thu hút nguồn vốn tư nh n nhằm đáp ứng phát
triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới
Về m t định hướng, để có thể giải tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân tham
gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong thời gian tới theo chúng tôi,
trước hết và quan trọng nhất là phải ổn định kinh tế vĩ mô. Bức tranh kinh tế xã hội
năm 2014 và đầu năm 2015 cho thấy GDP tăng trưởng 5,6%-6,2% trong khi lạm phát
được duy trì ở mức khá thấp, cán cân thương mại th ng dư khoảng 1 tỷ USD, v.v... là
những thành công đáng ghi nhận. Song, trong dài hạn vẫn phải chú trọng đến sự ổn
định và bởi lẽ tăng trưởng GDP và xuất khẩu 2011-2014 phần lớn vẫn dựa vào các
doanh nghiệp FDI.
113
icp.danang.gov.vn
214
Thứ hai, thu hút đầu tư của tư nhân cần triệt để sử dụng công cụ chính sách tài
khóa. Quan sát diễn biến của chỉ số CPI, IPI và m t bằng lãi suất tín dụng trong giai
đoạn 2013-2014 và đầu năm 2015 có thể nói là ở mức thấp và tiếp tục có xu hướng
giảm nhưng tăng trưởng tín dụng thực vẫn chưa phục hồi, vốn hướng vào khu vực
sản xuất vật chất không nhiều chứng tỏ rằng trong giai đoạn này tác động và hiệu quả
của chính sách tiền tệ không cao. Ngược lại, như đ đề cập trên đây, việc tăng cường
đầu tư công đ và đang mang lại những hiệu ứng rất tích cực trong giai đoạn 2012-
2014 với những gói hỗ trợ lớn cho thấy cơ hội để vận hành ch nh sách đầu tư thu hút
(Crowding-in).
Để thực hiện tốt việc tăng cường thu hút nguồn vốn tư nhân đáp ứng phát triển
kinh tế - xã hội, sáu nhóm giải pháp bao gồm: (1) tăng cường phát hành trái phiểu
chính phủ để thu hút nguồn vốn trong dân cư; (2) tăng đầu tư và chi tiêu NSNN thu
hút sự tham gia của khu vực tư nhân; (3) tăng lương và thực hiện ưu đ i thuế, cắt
giảm một số nghĩa vụ tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp tư nhân; (4) thúc đẩy
tăng trưởng tín dụng đối với khu vực tư nhân; (5) Giải phóng nguồn lực thông qua xử
lý nợ xấu; (6) Phát triển thị trường ngoại hối để thu tài sản phi tài ch nh trong dân cư,
hạn chế đầu cơ ngoại tệ, tình trạng đô-la hóa và vàng-hóa, có thể được nghiên cứu và
áp dụng.
3.1 Tăng cường thu hút vốn từ dân cư thông qua phát hành trái phiếu chính
phủ
Ở các nước phát triển trên thế giới, việc phát hành trái phiếu chính phủ là việc
thường xuyên và được coi là giải pháp tối ưu để ù đắp chi tiêu của NSNN, không
dẫn đến lạm phát qua bội chi hay phát hành thêm tiền, đồng thời còn tạo cơ hội cho
sự phát triển của thị trường trái phiếu. Hơn nữa, đây là hình thức huy động vốn có lợi
ích cho các chủ thể tham gia, đ c biệt là Nhà nước và người dân theo đúng khái niệm
hiệu quả Pareto (Pareto efficiency). Lượng tiền nhàn rỗi của dân cư đầu tư vào trái
phiếu chính phủ sẽ đảm bảo chi ph cơ hội của chi tiêu NSNN là thấp nhất.
Vấn đề là những quan ngại về trần nợ công, đ c biệt là tốc độ gia tăng nợ công
tăng ở Việt Nam khá nhanh trong thời gian 2011-2014. Năm 2014 ằng 16% tổng thu
ngân sách Nhà nước114 tương ứng khoảng 57% GDP và trên 50% tổng nợ công là nợ
công nước ngoài.
114
215
Nguồn: Bộ tài chính
M c dù vậy, chúng tôi thấy rằng nợ công Việt Nam vẫn chưa chạm trần, với 2,3
triệu tỷ VND bằng 59,6% GDP nên “room” để gia tăng phát hành trái phiếu chính
phủ thực sự vẫn còn. Để tăng khả năng thu hút vốn trong dân cư cũng như tăng khả
năng đầu tư của Nhà nước nhằm thu hút đầu tư của tư nhân, theo chúng tôi vẫn cần
tăng lượng trái phiếu chính phủ phát hành vào lưu thông. Việc gia tăng phát hành trái
phiếu chính phủ trong ngắn hạn có thể gia tăng nợ công và nhanh chóng đạt tới mức
giới hạn của trần nợ công. Tuy nhiên chúng tôi thấy rằng nếu quản lý và sử dụng tốt
vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả chi tiêu của NSNN, thì chỉ số nợ công/GDP (trần nợ
công) sẽ không những không tăng mà còn giảm, bởi lẽ hiệu quả chi tiêu và đầu tư
công sẽ luôn đảm bảo rằng tốc độ tăng của GDP luôn nhanh hơn tốc độ tăng của nợ
công
115
. Thực hiện giải pháp này, không những có thể thu hút tiềm năng về vốn trong
dân cư mà NSNN sẽ có thêm khả năng đầu tư, kết hợp với những chính sách làm
giảm thấp lãi suất sẽ k ch th ch, gia tăng đầu tư của tư nhân.
Để thực hiện được giải pháp này, điều quan trọng nhất là áp dụng các biện pháp
để đảm bảo rằng nguồn đầu tư vào trái phiếu chính là tiền nhàn rỗi công chúng,
không phải của các doanh nghiệp hay các định chế tài chính mà cuối cùng là “Nhà
nước cho ch nh Nhà nước vay tiền”. Muốn vậy, ngoài việc xác định lãi suất và thị giá
trái phiếu phải được hình thành trên cơ sở thị trường và người dân mua trái phiếu
thực sự hoạt động đầu tư tài ch nh và hoàn toàn mang ý nghĩa kinh tế.
3.2 Tăng đầu tư và chi tiêu NSNN để thu hút đầu tư của khu vực tư nhân và
thúc đẩy nhu cầu của khu vực tư nhân, cả nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng
Trên cơ sở tăng phát hành trái phiếu, đầu tư của Chính phủ có cơ hội gia tăng,
115
Một VND nợ công được huy động và sử dụng thêm mang lại hơn một VND tăng lên trong GDP do vậy tỷ trọng nợ
công/GDP sẽ giảm.
216
trước hướng đầu tư vào hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội, đ c biệt ưu tiên cho 5 lĩnh
vực chủ đạo: (1) hệ thống giao thông công cộng; (2) cung cấp năng lượng; (3) công
nghệ mới và hiện đại cho sản xuất nông nghiệp; (4) hệ thống bệnh viện và dịch vụ
chăm sóc sức khỏe; (5) đầu tư đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo.
Đầu tư vào hạ tầng cơ sở kỹ thuật và xã hội theo các chương trình trên là những
khoản đầu tư lớn sẽ có tác động tích cực và rất mạnh đến nền kinh tế - xã hội ngay
trong ngắn hạn và cả trong dài hạn. Trước mắt, các khoản chi tiêu đầu tư như vậy sẽ
góp phần quan trọng vào giải quyết lượng hàng tồn kho với giá trị lớn bao gồm sắt
thép, xi măng và các nguyên vật liệu cho xây dựng. Về lâu dài, sự phát triển những
lĩnh vực trên là tất yếu, là điều kiện để duy trì sự ổn định và phát triển bền vững, đ c
biệt trong khi Việt Nam chưa đáp ứng được nhưng tiêu chuẩn tối thiểu về mật độ
đường giao thông, thiếu hụt về năng lượng, nông nghiệp là chủ đạo nhưng thâm canh
và chuyên canh vẫn còn mang tính chất truyền thống và ở trình độ thấp, quá tải và
tình trạng nhiễm trùng của các bệnh viện ở Trung ương và các thành phố lớn, nhu cầu
đổi mới và tăng cường chất lượng giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao.
Khi hệ thống hạ tầng cơ sở được phát triển sẽ là động lực to lớn để thu hút đầu
tư tư nhân và hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh. Cụ thể, khi hệ thống giao thông
được phát triển sẽ thu hút đầu tư của tư nhân ở các khu vực quốc lộ, tỉnh lộ đi qua.
Đồng thời k ch th ch tăng nhu cầu về vật liệu xây dựng nhà ở, nhu cầu vay vốn của
các NHTM để xây nhà ở, cơ sở kinh doanh, gia tăng nhu cầu sử dụng ô-tô của công
chúng, kích thích nhu cầu đi lại, thăm quan, du lịch và nhu cầu tiêu dùng hàng hóa sẽ
gia tăng. Tương tự như vậy, khi đầu tư xây dựng và hiện đại hóa các bệnh viện, đ c
biệt ở các vùng lân cận thành phố lớn và vùng nông thôn sẽ góp phần tăng chi tiêu
của dân cư ở các địa phương, tạo điều kiện thuận lợi đáp ứng nhu cầu khám, chữa
bệnh, chăm sóc sức khỏe. Đầu tư và hiện đại hóa giáo dục và đào tạo sẽ làm tăng nhu
cầu học tập, không chỉ cải thiện nhận thức và thu nhập của người dân mà còn góp
phần phát triển hệ thống giáo dục cũng như các dịch vụ đi kèm.
Để đảm bảo hiệu quả khi gia tăng đầu tư công và sự tham gia của khu vực tư
nhân theo hình thức PPP, hoạt động đầu tư công phải được hoàn thiện về cơ chế quản
lý và giám sát theo hướng tăng cường tính kỷ luật và trách nhiệm giải trình. Áp dụng
các tiêu ch đánh giá theo kết quả cuối cùng (Result – ased) và cá nhân nhà l nh đạo
các cấp phải chịu trách nhiệm về các quyết định phê duyệt và quản lý đầu tư một
cách minh bạch và nghiêm túc.
3.3 Tăng lương và thực hiện ưu đãi thuế, cắt giảm một số nghĩa vụ tài chính
cho cá nhân và doanh nghiệp tư nhân để khuyến khích và gia tăng quỹ đầu tư
217
Trong bối cảnh lạm phát 2013-2014 và 6 tháng đầu năm 2015 được duy trì ở
mức thấp, sự phục hồi kinh tế chưa thực sự vững chắc, các doanh nghiệp vẫn còn khó
khăn thì việc xem xét thực hiện tăng lương và ch nh sách ưu đ i thuế trong thời điểm
này là rất cần thiết, góp phần giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp tư nhân, tạo
điều kiện giảm giá để tiêu thụ hàng hóa. Ngoài ra, Nhà nước cần thể chế hóa việc
điều chỉnh thuế và giá cả những m t hàng thiết yếu bằng cách xây dựng và thống nhất
quy chế điều chỉnh thuế, điều chỉnh giá xăng dầu, điện, than hướng tới các nguyên tắc
thị trường; cần an hành các quy định về các loại ph trên cơ sở luật pháp. M t khác,
mọi điều chỉnh trong phạm vi chính sách tài khóa cần đảm bảo sự phối hợp ch t chẽ
và đồng bộ với chính sách tiền tệ và các ch nh sách vĩ mô khác, nhằm hạn chế sự mâu
thuẫn, hạn chế và triệt tiêu hiệu quả điều tiết của các chính sách kinh tế vĩ mô.
3.4 Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đối với khu vực tư nhân
Đầu tư của khu vực tư nhân không chỉ dựa vào tiết kiệm của dân cư mà phần
chiếm tỷ trọng cao hơn là đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nguồn vốn
của các doanh nghiệp tham gia đầu tư không nhất thiết chỉ là vốn tự có, tự tích lũy,
huy động qua thị trường chứng khoán, quan trọng hơn vẫn là nguồn nguồn tín dụng
ngân hàng. Nói cách khác, để gia tăng đầu tư tư nhân, tăng trưởng tín dụng đối với
khu vực này cũng có ý nghĩa quyết định. nhân một phần các cá nhân.
Để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cho khu vực tư nhân, trước hết, các NHTM
cần thay đổi tư duy, chuyển hướng sang việc cung cấp các sản phẩm tài chính tổng
thể cho hệ thống các doanh nghiệp (cho vay theo chuỗi giá trị) để hỗ trợ được đồng
bộ tất cả các của quá trình sản xuất kinh doanh. Đồng thời cũng cần chủ động hơn
nữa trong hỗ trợ doanh nghiệp từ quản lý tài khoản, cung cấp các sản phẩm tài trợ
thương mại, v.v.... Có như vậy, doanh nghiệp tư nhân mới nhận thấy hiệu quả tổng
thể và mạnh dạn vay vốn tham gia đầu tư. Đây cũng là phương cách giúp cho các
NHTM có thể kiểm soát tín dụng một cách hiệu quả nhất mà không cần đến hàng loạt
các thủ tục hành chính phức tạp và gia tăng chi ph sử dụng vốn vay như hiện nay.
Trong thời gian qua, m c dù lãi suất cho vay được công bố giảm song các doanh
nghiệp vay vốn phải chịu các khoản chi phí không nhỏ làm cho tổng chi phí vay vốn
rất cao. Cần gắn kết lợi ích của ngân hàng thương mại và của khách hàng, đ c biệt là
các doanh nghiệp tư nhân có quan hệ nhiều năm và khó khăn tài ch nh được xác định
chỉ là tạm thời. Lý giải cho thực tế đang diễn ra là lãi suất giảm nhưng vốn vẫn không
thể đến được nơi cần ch nh là do các điều kiện tín dụng của ngân hàng thương mại
quá ch t chẽ và doanh nghiệp không thể đáp ứng. Do vậy, các ngân hàng thương mại
cần song hành và nắm bắt được đ c thù kinh doanh của khách hàng để đưa ra các cấu
trúc tín dụng phù hợp, tránh dập khuôn dẫn đến việc bỏ qua các khách hàng tốt ho c
cho vay vốn đối với các doanh nghiệp không cần ho c không thể sử dụng được. Thứ
218
hai, các ngân hàng thương mại cần mềm dẻo trong việc đáp ứng nhu cầu vay vốn
của các doanh nghiệp tư nhân, đ c biệt là các doanh nghiệp có phương án sản xuất
kinh doanh tốt, trong một số trường hợp cần áp dụng hình thức cho vay thêm, cho
vay mới ngay cả khi doanh nghiệp chưa thể trả được nợ cũ nhưng có cơ hội phát
triển. Làm được như vậy, không những các mục tiêu của mỗi NHTM được thực hiện,
góp phần đảm bảo tăng trưởng tín dụng trong cả nước mà còn thúc đẩy tăng trưởng
đầu tư của khu vực tư nhân một cách hiệu quả vào nền kinh tế - xã hội.
3.5 Giải phóng nguồn lực của nền kinh tế thông qua xử lý nợ xấu
Nợ xấu không chỉ làm ứ đọng một lượng vốn khổng lồ của các NHTM mà còn
làm đông kết khối tài sản đảm bảo có giá trị lớn tương đương với vốn đó. Chừng nào
nợ xấu chưa được xử lý một cách triệt để, chừng đó nguồn lực tài chính của nền kinh
tế còn bị “ách tắc”. Chúng tôi cho rằng cần coi việc xử lý triệt để nợ xấu là biện pháp
quan trọng nhất để khơi thông nguồn vốn cho sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay.
Liên quan đến xử lý nợ xấu, chúng tôi vẫn tiếp tục khuyến nghị rằng, nợ xấu cần được
giải quyết triệt để thông qua chứng khoán hóa bằng trái phiếu Chính phủ116 để được
mua bán một cách rộng rãi trên thị trường. Việc giải quyết nợ xấu thông qua phát hành
trái phiếu Chính phủ không những khả thi mà còn đáp ứng những yêu cầu của việc “x
hội hóa xử nợ xấu” bởi lẽ tất cả các cá nhân và các tổ chức đơn vị kinh tế, xã hội đều
có thể mua trái phiếu và tự nguyện tham gia và hưởng lợi từ phương thức và kết quả
xử lý nợ xấu nói trên.
3.6 Phát triển thị trường ngoại hối để thu hút tài sản phi tài chính trong dân
cư, đồng thời hạn chế đầu cơ ngoại tệ, tình trạng đô-la hóa và vàng-hóa117
Đầu cơ ngoại tệ và vàng được nhận diện và xác định là những “địa chỉ” giam
hãm nguồn lực tài chính lớn nhất và lãng phí nhất ở nước ta. Như đ đề cập, đầu cơ
ngoại tệ và vàng xuất phát từ sự mất lòng tin vào Đồng Việt Nam (VND), sự khan
hiếm và chênh lệch giá cả, sự sùng bái ngoại tệ và vàng. Tuy nhiên, cả a căn nguyên
này có chung nguồn gốc là những hạn chế của hệ thống tài chính, cụ thể là sự kém
phát triển của thị trường ngoại hối ở Việt Nam. Do vậy, cần nhanh chóng củng cố và
phát triển thị trường ngoại hối đồng thời hạn chế tín dụng ngoại tệ để loại bỏ tình
trạng đô-la hóa, vàng hóa ở Việt Nam.
Trước hết hoàn thiện cơ chế giá cả, từng bước áp dụng chế độ lãi suất và tỷ giá
linh hoạt theo cơ chế thị trường. Lãi suất và tỷ giá luôn luôn là một nhân tố rất quan
trọng nhất tác động đến hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính. Lãi suất và tỷ giá
116
GS. TS Nguyễn Văn Nam và các cộng sự (2014), “Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay”. Kỷ yếu hội thảo.
117
Như chú th ch 15.
219
nếu được xác định trên cơ sở thị trường sẽ luôn phản ánh đúng nhu cầu cũng như chi
phí sử dụng vốn, do vậy có thể phân bổ, sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Trong khi
chưa thể thả nổi hoàn toàn lãi suất và tỷ giá, chúng ta cũng nên mạnh dạn hơn trong
việc xóa bỏ kiểm soát trần lãi suất và neo tỷ giá, từng ước nới dần sự kiểm soát trực
tiếp đối với lãi suất và coi đây như một giải pháp để tháo dỡ những khó khăn cản trở
sự phát triển của hoạt động ngân hàng, thị trường chứng khoán và hệ thống tài chính
nói chung ở nước ta. Song song với giải phóng về lãi suất cần thực hiện giải phóng
đối với tỷ giá, cho phép các định chế tài ch nh được thỏa thuận một cách công khai và
minh bạch đối với khách hàng giá mua bán ngoại tệ cả hai chiều, đáp ứng nhu cầu sử
dụng ngoại tệ ch nh đáng của người dân. Khi không còn “tỷ giá rẻ” trong ngân hàng,
khi lãi suất VND là dương và thực sự hấp dẫn, sẽ không còn nhu cầu ngoại tệ ảo,
động cơ nắm giữ ngoại tệ dự phòng và kỳ vọng tăng giá sẽ giảm, góp phần giảm áp
lực và chi phí can thiệp vào “giá cả” và thị trường của nhà nước.
Hai là, hạn chế và tiến tới chấm dứt việc nhận tiền gửi tiết kiệm b ng ngoại tệ,
khuyến khích dân cư và các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các NHTM. Nhận tiền gửi
tiết kiệm ằng ngoại tệ nhằm mục đ ch thu hút ngoại tệ trong dân cư và tăng khả
năng cung ngoại tệ cho các NHTM, song vô hình chung lại khuyến kh ch đầu cơ
ngoại tệ và đô-la hóa. Nếu công chúng thỏa m n được yêu cầu về khả năng sinh lời
qua l i suất, trong khi tỷ giá và sức mua của VND luôn được giữ ổn định thì việc loại
ỏ tiết kiệm ằng ngoại tệ rõ ràng là trùng hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội và là nhiệm vụ ch nh trị của các cơ quan chức năng của nhà nước như NHNN, Bộ
Tài ch nh, v.v Một số người có thể lo ngại việc chấm dứt nhận tiền gửi ằng ngoại
tệ sẽ làm thất thoát nguồn ngoại tệ, giảm khả năng cung ngoại tệ của các ngân hàng
thương mại. Tuy nhiên khi l i suất và tỷ giá ở Việt Nam được xác định và duy trì một
cách thỏa đáng, đảm ảo những nguyên lý về ngang ằng về sức mua (PPP) và ngang
ằng về l i suất (IRP) và nếu như lợi tức kỳ vọng của các đồng tiền ở Việt Nam cao
hơn thì luồng luồn vốn sẽ đi vào và ngoại tệ sẽ được án cho các NHTM nhiều hơn.
Ba là, hạn chế tình trạng nắm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp tư nhân thông
qua việc tái thiết lập chế độ kết hối ngoại tệ và khuyến khích bán ngoại tệ cho các
NHTM. Khác với công chúng, việc nắm giữa ngoại tệ của các doanh nghiệp tư nhân
nhằm dự phòng cho nhu cầu sử dụng để nhập khẩu phục vụ hoạt động kinh doanh.
Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc là nước được đánh giá rất
thành công giải quyết vấn đề tỷ giá và vấn đề mất cân đối về ngoại tệ. Trong các năm
từ 1994 đến 1996, Trung quốc đ thực hiện ch nh sách kết hối ngoại tệ 100%, nghiêm
cấm việc giữ và sử dụng ngoại tệ. Chỉ đến 2007, dự trữ ngoại hối Trung Quốc đạt
1.528,249 tỷ USD, cán cân v ng lai th ng dư 371,832 tỷ USD, cán cân vốn th ng dư
220
73,454 tỷ USD, khi đó Trung Quốc mới xóa ỏ ch nh sách kết hối ngoại tệ118.
Bốn là, hạn chế cho vay b ng ngoại tệ tiến tới xóa bỏ tín dụng ngoại tệ. Việc
sàng lọc khách hàng để giảm đối tượng vay vốn bằng ngoại tệ cần được dựa trên cơ
sở khả năng tái tạo nguốn vốn bằng ngoại tệ và án cho các NHTM. Điều này hoàn
toàn phù hợp với nội dung quy định về đối tượng cho vay vốn bằng ngoại tệ của
NHNN Việt Nam hiện nay đồng thời cũng phù hợp với thực tế ở Việt Nam là “xuất
khẩu dựa trên nhập khẩu”119. Sau khi chọn lọc được khách hàng, các NHTM cần xác
định hạn mức tín dụng bằng ngoại tệ cho từng khách hàng cụ thể, thậm chí theo các
nhu cầu khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh và nhập khẩu. Làm được như
vậy, các ngân hàng có thể tiết kiệm được nguồn vốn ngoại tệ và loại bỏ được những
hành vi kinh doanh trái đạo đức khi mà chúng ta chưa thể xóa bỏ tình trạng hai tỷ giá
hai lãi suất hiện nay. Trên cơ sở xác định hạn mức tín dụng ngoại tệ, các ngân hàng
thương mại có thể chủ động xây dựng các phương án huy động trong từng thời kỳ để
đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng đồng thời hạn chế trạng thái ngoại hối âm (short
position) thừa vốn và phải điều chuyển vốn gửi ra nước ngoài.
Năm là xóa ỏ những cơ sở tạo ra chênh lệch giá vàng giữa thị trường trong
nước và giá vàng trên thị trường quốc tế. Đây là điều đ được các nhà quản lý và
khoa học đề cập nhiều lần nhưng hiện nay vẫn chưa được giải quyết. Giá vàng trong
nước luôn cao hơn giá vàng trên thị trường quốc tế, thậm ch có những thời điểm đến
hàng triệu VND/Ounce. Chênh lệch giá là động cơ nhập khẩu vàng và dự trữ vàng
trong nước. Nếu muốn hạn chế điều này, cần hoàn thiện quy định quản lý xuất nhập
khẩu vàng sao cho không tạo ra sự chênh lệch giá vàng.
Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng hạn chế và xóa ỏ t n dụng ngoại tệ và vàng
ở Việt Nam là một sự đánh đổi, chấp nhận những khó khăn thách thức trước mắt để
củng cố lòng tin, sức mua và chủ quyền của đồng tiền Việt Nam, một trong những
điều kiện cơ ản để ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô. Sự phát triển lành mạnh và hiệu
quả của thị trường tiền tệ nước ta, ao gồm thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân
hàng, là điều kiện tiền đề cho sự ổn định và phát triển hoạt động hệ thống tài ch nh.
Thực ra, những vấn đề về “giải phóng” tỷ giá và l i suất hay i ỏ các quy định gây
ra tình trạng hai tỷ giá, hai l i suất được kết hợp với cho sự phép các NHTM thỏa
thuận mua án vốn để thỏa m n nhu cầu thanh khoản ch nh là những giải pháp cơ
ản củng cố và thúc đẩy sự phát triển thị trường ngoại hối ở Việt Nam.
4. Kết luận
Nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời gian tới đòi hỏi
118
Chiến lược tỷ giá và quản lý ngoại hối của Trung Quốc, 2009.
119
Phần lớn giá trị xuất khẩu có nguồn gốc từ nhập khẩu, bao gồm nguyên vật liệu và các yếu tố đầu khác.
221
những giải pháp thiết thực và đồng bộ để thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân,
gồm cả cá nhân, các hộ gia đình và các doanh nghiệp, trong nước và nước ngoài.
Trên cơ sở những nhận diện về tiềm năng tài ch nh còn rất lớn trong dân cư và những
“nút thắt” cơ ản trong nền kinh tế giai đoạn 2010-2014, căn cứ vào những điểm còn
hạn chế trong cơ chế, chính sách và các biện pháp thu hút đầu tư tư nhân trong thời
gian qua, chúng ta có thể chia sẻ về những giải pháp cơ ản góp phần hướng quỹ đầu
tư của tư nhân đồng hành với quỹ đầu tư ngày càng eo hẹp hơn của nhà nước, nhằm
đáp ứng nhu cầu và cải thiện hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, ít
nhất trong giai đoạn 2016-2020.
Điều cần được nhấn mạnh trong giai đoanh này là lựa chọn và sử dụng chính
sách tài khóa như là công cụ chủ đạo. Theo đó, các giải pháp như tăng nợ công thông
qua phát hành trái phiếu để có thể gia tăng đầu tư công, thu hút đầu tư tư nhân cũng
như k ch cầu toàn bộ nền kinh tế có thể được coi là giải pháp cơ ản đầu tiên và kế
tiếp sẽ là những ưu đ i về thuế và tăng lương để tăng quy mô quỹ đầu tư tư nhân.
Song song và phối hợp ch t chẽ với sự vận hành chính sách tài khóa, những biện
pháp cắt giảm lãi suất và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng một cách lành mạnh cho khu
vực tư nhân cũng ch nh là điều kiện cần và đủ để đầu tư tư nhân tham gia t ch cực
hơn vào sự phát triển và ổn nền kinh tế.
Do những hạn chế về thời gian và sự thiếu đầy đủ của số liệu thống kê, những
luận điểm trong bài viết chắc chắn để ngỏ nhiều câu hỏi. Chúng tôi trân trọng cảm ơn
và mong muốn nhận được những ý kiến chia sẻ và hoàn thiện thêm cho bài viết.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ tài chính (2014), “Số liệu công khai ngân sách Nhà nước”,
2. Đỗ Đức Bình, Phạm Văn Hùng (2013), “Nợ công Việt Nam: Khái quát thực
trạng và một số giải pháp hạn chế nợ công đến năm 2020”, Kỷ yếu hội thảo Khủng
hoảng nợ công ở Liên minh Châu Âu và những vấn đề gợi mở với Việt Nam, Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam ngày 25/4/2013.
3. Đỗ Văn Thành (2013), “Các kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm
2013”, Thông tin và dự báo kinh tế xã hội, số 85 + 86.
4. Đảng cộng sản Việt Nam - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI (2012), “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-
2020”, Báo Nhân Dân điện tử ngày 6/6/2012.
5. Nguyễn Văn Nam, Đàm Văn Huệ, Đ ng Ngọc Đức, Nguyễn Đức Hiển
(2014), “Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện
222
nay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia – Khơi thông nguồn vốn cho phát triển kinh
tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6. Trương Đình Tuyển (2014), “Kinh tế Việt Nam 2014 và triển vọng 2015”,
Diễn đàn kinh tế mùa thu 2014, Tái cơ cấu nền kinh tế: Kỳ vọng chuyển biến mạnh
mẽ và cơ bản, 7. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam, UNDP, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Ninh Bình ngày
27/8/9/2014.
8. UNDP, Ủy ban Kinh tế Quốc Hội (2010), “Ổn định kinh tế vĩ mô, duy tr đà
tăng trưởng: Kinh tế Việt Nam năm 2010 và triển vọng năm 2011”, Kỷ yếu hội thảo.
9. UNDP (2011), “Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người”, Báo cáo quốc
gia về phát triển con người, Chương trình phát triển Liên hiệp Quốc.
10. Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (2012), “Kinh tế Việt Nam năm 2012: Khởi động
mạnh mẽ quá tr nh tái cơ cấu kinh tế”, Nhà xuất bản Tri thức.
11. Behrendt, C. and Hagemejer, K. (2001): “Can low-income countries afford
social security?”, in Charlton, R. and McKinnon, R.: Pensions in Development
(Aldershot, Ashgate).
12. Mizunoya, S.; Behrendt, C.; Pal, K. and Léger, F., (2006), “Costing of basic
social protection benefits for selected Asian countries: First results of a modelling
exercise”. Issues in Social Protection, Discussion Paper 17 (Geneva, International
Labour Office).
13. Mukul G. Asher (2008), “Social Security Reform Imperatives in Developing
Asia”, Indian Economic Journal 2008.
14. www.undp.org
15. www.mof.gov.vn
16. www.molisa.gov.vn
17. www.vnexpress.net
223
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_dan_hoi_thao_danh_gia_20_nam_huy_dong_va_su_dung_oda_cua.pdf