Theo quan điểm của C.Mác “sự thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên”. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội với tư cách là hai hình thái kinh tế xã hội khác nhau, kế tiếp nhau, xã hội trước tất yếu bị xã hội sau thay thế, xã hội sau vừa phủ nhận xã hội trước vừa kế thừa và phát triển những thành tựu mà xã hội trước tạo ra. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã phát triển đến giai đoạn cao nhất của nó- chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước- đã gần với chủ nghĩa xã hội hơn. Theo V.I. Lênin chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là giai đoạn trước của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã tạo ra nền sản xuất lớn với khoa học công nghệ ngày càng hiện đại, sự phát triển xã hội hoá sản xuất đang “nẩy mầm” những nhân tố của chủ nghĩa xã hội. Sự xuất hiện những công ty cổ phần trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tăng lên của nó và những nhân tố xã hội chủ nghĩa khác có nghĩa là sự phát triển của quá trình lịch sử tự nhiên trong đó chủ nghĩa tư bản bắt đầu quá độ sang phương thức sản xuất mới. Trong xã hội tư bản hiện đại, về mặt sở hữu, sự xuất hiện quốc hữu hoá, chế độ hợp tác, công ty cổ phần, nhà nước đóng vai trò điều tiết quản lý về vốn, nguồn lao động tham gia quản lý xí nghiệp ở mức độ khác nhau, sự rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, lao động trí óc với lao động chân tay, tính dân chủ và xã hội của nhà nước tăng lên v.v tất cả những cái đó nếu không nói đó là những nhân tố của chủ nghĩa xã hội ở mức độ nhất định, thì đó cũng là sự chuẩn bị điều kiện vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên điều đó vẫn chưa vượt ra khỏi cái khung tư bản chủ nghĩa, sự biến đổi về lượng chưa chuyển thành sự biến đổi về chất, vẫn là chủ nghĩa tư bản.
c.Tính đa dạng các xu hướng phát triển của thế giới đương đại.
61 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2758 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương môn- Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c những tệ nạn xh do xh cũ để lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch p.triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xh nhằm t.hiện mục tiêu bình đẳng xh; x.dựng mối q.hệ tốt đẹp giữa ng` với ng` theo mục tiêu lí tg là tự do của ng` này là đk, tiền đề cho sự tự do của ng` #.
Tóm lại, TKQĐ lên cnxh là 1 thời kì lịch sử tất yếu trên con đg p.triển của h.thái k.tế - xh cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kì lịch sử có đặc điểm riêng với những nd k.tế, chính trị, văn hóa và xh đặc thù mà g.đoạn xh xhcn trên con đg p.triển của h.thái k.tế - xh cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể đc trên cơ sở hoàn thành các nd đó.
Liên hệ :
Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới. Về kinh tế, những nhiệm vụ cơ bản là :
Phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội:
Cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội theo V.I.Lênin, là nền sản xuất đại cơ khí ở trình độ hiện đại được áp dụng trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, kể cả trong nông nghiệp.
Ngày nay, cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội phải thể hiện được những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Chỉ khi lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ cao mới tạo ra được năng suất lao động cao trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhờ đó những mục tiêu và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mới được thực hiện ngày càng tốt hơn trên thực tế.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra; do đó phát triển lực lượng sản xuất nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm của suốt thời kì quá độ. Nó có tính chất quyết định đối với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác của phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phát triển nguồn lực con người - lực lượng sản xuất cơ bản của đất nước, yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế, tạo đội ngũ lao động có khả năng sáng tạo, tiếp thu, sử dụng, quản lí có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại. Vì vậy, phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là “ quốc sách hàng đầu” trong chiến lược phát triển đất nước.
Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một chế độ xã hội mới có nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghiã; nó là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội hoá cao, các lực lượng sản xuất hiện đại, nó sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Vì vậy, không thể nôn nóng, vội vàng, duy ý chí trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Nó chỉ được hình thành trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao.
Như vậy, xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải đảm bảo các yêu cầu sau đây :
Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới”.
Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lí và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải được xây dựng một cách đồng bộ cả ba mặt đó.
Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Trong thời kì quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và hợp lí cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế :
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu đối với các quốc gia. Nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải tích cực mở rộng và ngày càng nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra những thách thức và nguy cơ cần phải đề phòng, khắc phục; mặt khác, tạo ra cho nước ta những cơ hội, thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo con đường “ rút ngắn”. Đó là thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài, nhập được các loại công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm quản lí tiên tiến ... nhờ đó, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách lạc hậu so với các nước khác. Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế, phải nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu, đa dạng hoá quan hệ kinh tế với các tổ chức và các quốc gia trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, phải xử lí đúng mối quan hệ giữa mở rộng kinh tế quốc tế với độc lập tự chủ, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc với kế thừa, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại ...
XV. XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ XHCN.
V.I.Lênin cho rằng: Chế độ dân chủ là 1 h.thức nhà nc, 1 trong những h.thái của nhà nc. Cho nên cũng như mọi nhà nc, chế độ dân chủ là việc thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đv ng` ta. Do đó, nền dân chủ luôn gắn với nhà nc như là cơ chế để thực thi dân chủ và mang bản chất g/c của g/c thống trị.
Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN :
P/tích thực tiễn q.trình xuất hiện, tồn tại và p.triển của các nền dân chủ trong lịch sử, đặc biệt là những q.luật của nền dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kđ: “Đấu tranh cho dân chủ là 1 q.trình lâu dài và ko thể dừng laiij ở dân chủ tư sản. Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của CMXHCN cũng là sự tất yếu ra đời của nền dân chủ mới – dân chủ XHCN. Q.trình đó gắn liền với q.trình ra đời của cnxh.
Sự h.thành dân chủ XHCN đánh dấu bước p.triển mới về chất của dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử, đã h.thành chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân.
Tuy nhiên, sự h.thành và p.triển của nền dân chủ XHCN là 1 q.trình lâu dài. CMXHCN tạo ra những đk cần thiết để giải phóng quần chúng nhân dân lđ, để mở rộng dân chủ và trên cơ sở đó CMXHCN cũng lôi cuốn nhân dân lđ vào công cuộc cải tạo xh, x.dựng nền dân chủ mới.
Chính vì vậy, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của tiến trình CMXHCN và dân chủ XHCN sẽ đc hình thành, p.triển dần dần, từng bước phù hợp với q.trình p.triển của k.tế, chính trị và văn hóa, xh.
Trong q.trình h.thành và p.triển, dân chủ XHCN có những đặc trưng cơ bản sau đây:
1 là, với tư cách là chế độ nhà nc đc sánh tạo bởi quần chúng nhân dân lđ dưới sự lãnh đạo của ĐCS, dân chủ XHCN bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhà nc XHCN là thiết chế chủ yếu thực thi dân chủ do g/c cn lãnh đạo thong qua chính đảng của nó. Nhà nc bảo đảm thỏa mãn ngày càng cao các nhu cầu về lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích của g/c cn. Đây chính là đặc trưng bản chất chính trị của dân chủ XHCN. Điều đó cho thấy, dân chủ XHCN vừa coa bản chất của g/c cn, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
2 là, nền dân chủ XHCN có cơ sở k.tế là chế độ công hữu về những TLSX chủ yếu của toàn xh. Chế độ sở hữu đó phù hơp với q.trình xh hóa ngày càng cao của sx nhằm thỏa mãn nhu cầu ko ngừng tăng lên về vật chất và tinh thần của tất cả quân chúng nhân dân lđ. Đây là đặc trưng k.tế của nền dân chủ XHCN. Đặc trưng này đc h.thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với q.trình h.thành và hoàn thiện của nền k.tế XHCN. Đó là q.trình cải tạo và x.dựng lâu dài kể từ khi bước vào TKQĐ lên CNXH cho đến khi CNXH thực sự trưởng thành.
3 là, trên cơ sở của sự kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xh (do nhà nc của g/c cn đại diện), nền dân chủ XHCN có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xh của nhân dân trong sự nghiệp x.dựng xh mới. Trong nền dân chủ XHCN, tất cả các tổ chức chính trị - xh, các đoàn thể và mọi công dân đều đc tham gia vào công việc nhà nc (= thảo luận, góp ý kiến x.dựng c.sách, hiến pháp, pháp luật…). Mọi công dân đều đc bầu cử, ứng cử và đề cử vào các cơ quan nhà nc các cấp.
4 là, nền dân chủ XHCN cần có và phải có những đk tồn tại với tư cách và 1 nền dân rộng rãi nhất trong lịch sử nhg vẫn là nền dân chủ mang tích g/c. T.hiện dân chủ rộng rãi với đông đảo quần chúng nhân dân, đồng thời hạn chế dân chủ và t.hiện trấn áp với thiểu số g/c áp bức, bóc lột và phản động. Trong nền dân chủ đó, chuyên chính và dân chủ là 2 mặt, 2 yếu tố quy định lẫn nhau, t.động, bổ sung cho nhau. Đây chính là chuyên chính kiểu mới và dân chủ theo hg mới trong lịch sử.
Tính tất yếu của việc x.dựng nền dân chủ xhcn :
X.dựng nền dân chủ xhcn là q.trình tất yếu của sự nghiệp CHXN, chủ nghĩa công sản. C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã có những luận điểm khái quất về CNXH, về dân chủ XHCN và tính tất yếu của việc x.dựng nền dân chủ xhcn.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin thì động lức của q.trình p.triển xh, của q.trình x.dựng cnxh và dân chủ.Dân chủ phải đc mở rộng để phát huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân dân, để nhân tham gia vào công việc quẩn lí nhà nc, quản lí và p.triển xh. “Với việc p.triển chế độ dân chủ 1 cách đầy đủ, nghĩa là với việc làm cho toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi công việc quẩn lí nhà nc”.
Như vậy, t.hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành 1 yc` khách quan, 1 động lực của sự nghiệp x.dựng cnxh. CNXH chỉ có thể có đc = p.pháp thực hành dân chủ 1 cách rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xh. “CNXH ko phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban xuống… cnxh sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”. Thực hành dân chủ rộng rãi trên mọi lĩnh vực của đời sống xh cũng chính là q.trình x.dựng nền dân chủ xhcn, 1 nền dân chủ mới đảm bảo cho sự thành công của cnxh. Bởi vì, nền dân chủ xhcn bắt nguồn từ bản chất của chế độ xhcn. X.dựng nền dân chủ xhcn là q.luật của sự h.thành và tự hoàn thiện của hệ thống chuyên chính vô sản, hệ thống chính trị xhcn. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc x.dựng cnxh.
X.dựng nền dân chủ xhcn cũng là q.trình vận động và thực hành dân chủ; là q.trình vận động biến dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong mọi lĩnh vực của đời sống xh; là q.trình đưa các g.trị, chuẩn mực, ng.tắc của dân chủ vào thực tiễn x.dựng cuộc sống mới. X.dựng nền dân chủ xhcn thực sự trở thành 1 cuộc cm của đông đảo quần chúng nhân dân lđ dưới sự lãnh đạo của ĐCS. X.dựng nền dân chủ xhcn là cuộc cm t.hiện chuyển giao quyền lực thực sự về cho nhân dân với mục đích lôi cuốn nhân dân vào q.trình sáng tạo xh mới.
X.dựng nền dân chủ xhcn là q.trình tất yếu diễn ra nhằm x.dựng, p.triển và hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trước hết, nó trở thành đk, tiền đề t.hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân; là đk cần thiết, tất yếu để mỗi công dân đc sống trong bầu ko khí thực sự dân chủ.
X.dựng nền dân chủ xhcn cũng chính là q.trình t.hiện dân chủ hóa đời sống xh dưới sự lãnh đạo của g/c cn thông qua ĐCS. Đây cũng là nhân tố q.trọng chống lại những biểu hiện của dân chủ cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thg` kỉ cương, pháp luật.
Tóm lại, x.dựng nền dân chủ xhcn là 1 q.trình tất yếu của công cuộc x.dựng cnxh, của q.trình vận động biến dân chủ từ khả năng trở thành hiện thực, để nền dân chủ “ngày càng hg tới cơ sở hiện thực của nó, tới con ng` hiện thực, nhân dân hiện thực, và đc xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”.
Ý nghĩa p.pháp luận :
Dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện khi giai cấp công nhân và, nhân dân lao động đấu tranh giành được chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Với tính cách là một chế độ chính trị, dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức chính trị của nhà nước, do nhân dân lao động lập ra dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực thực tế thuộc về nhân dân, nhân dân quản lý xã hội của mình. Đó là một nền dân chủ thực sự, đầy đủ và triệt để nhất. Vì đây là dân chủ của đa số, của nhân dân lao động, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; trong đó gắn liền với công bằng và bình đẳng xã hội, gắn liền với chống áp bức, chống bóc lột và bất công, được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế văn hoá, xã hội, được thể chế bằng Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, sản phẩm thắng lợi của cuộc cách mạng “Tư sản dân quyền cách mạng là thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, thống nhất nước nhà, của công cuộc đổi mới đất nước vì hạnh phúc nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đã được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam dốc lòng và đồng tâm xây dựng nhiều chục năm qua, đạt nhiều thành tựu, thì tất yếu phải là một nền dân chủ nhất nguyên chính trị. Bởi vì, xét về tính chất giai cấp thì nền dân chủ nào cũng có tính giai cấp, Ở một số nước phương Tây, người ta thực hiện hình thức dân chủ đa nguyên, nhưng về thực chất, bao giờ cũng là nhất nguyên, do đảng của giai cấp cầm quyền chi phối việc xây dựng và thực hiện dân chủ. Cái gọi là “đa nguyên chính trị” chẳng qua chỉ là luận điệu lừa mị của giới tư sản đối với những người non kém chính trị” rồi trở lại tước quyền dân chủ của nhân dân lao động do gian khổ đấu tranh mới giành được mà thôi.
XVI. XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC XHCN.
Kn nhà nc xhcn :
Nhà nc xhcn là tổ chức mà thông qua đó, Đảng của g/c cn t.hiện vai trò lãnh đạo của m` đv toàn xh; là 1 tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng tầng dựa trên cơ sở k.tế của cnxh; đó là 1 nhà nc kiểu mới, thay thế nhà nc tư sản nhờ kết quả của cuộc CMXHCN; là h.thức chuyên chính vô sản đc t.hiện trong TKQĐ lên cnxh.
Với tư cách là 1 trong những tổ chức cơ bản nhất của hệ thống cính trị xhcn, nhà nc xhcn là tổ chức thể hiện và t.hiện ý chí quyền lực của nhân dân. Đó là công cụ quản lí do chính đảnh của g/c cn lãnh đạo nhân dân tổ chức ra nhằm t.hiện quyền lực và lợi ích nhân dân, và cũng thông qua đó, g/c cn và chính đảng của m` t.hiện sự lãnh đạo đv toàn xh trong q.trình bảo vệ và x.dựng cnxh. Chính vì vậy, nhà nc xhcn vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lí k.tế, văn hóa, xh của nhân dân, đc thể hiện tập trung qua 2 chức năng chủ yếu của nó, đó là chức năng thống triij g/c và chức năng xh.
Đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của nhà nc xhcn :
Khác với các h.thức nhà nc đã từng có trong lịch sử, nhà nc xhcn là 1 kiểu nhà nc đặc biệt. Đó là kiểu nhà nc có những đặc trưng cơ bản sau:
1 là, nhà nc xhcn là công cụ cơ bản để t.hiện quyền lực của nhân dân lđ, đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
2 là, nhà nc xhcn có đặc trưng về ng.tắc # hẳn với nhà nc tư sản. Cũng là công cụ của chuyên chính g/c, nhg vì lợi ích của tất cả những ng` lđ tức là tuyệt đại đa số nhân dân, nhà nc chuyên chính vô sản t.hiện sự trấn áp những kẻ chống đối phá hoại sự nghiệp CMXHCN.
3 là, trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực và trấn áp các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn xem mặt tổ chức, x.dựng là đặc trưng cơ bản của nhà nc xhcn, của chuyên chính vô sản. V.I.Lênin cho rằng, chuyên chính vô sản ko phải chỉ là bạo lực đv bọn bóc lột, và cũng ko phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức, x.dựng toàn diện xh mới – xh xhcn và cộng sản chủ nghĩa.
4 là, nhà nc xhcn nằm trong nền dân chủ xhcn và theo V.I.Lênin, con đg vận động, p.triển của nó là: ngày càng hoàn thiện các h.thức đại diện nhân dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân tham gia quản lí nhà nc, quản lí xh.
5 là, nhà nc xhcn là 1 kiểu nhà nc đặc biệt, “nhà nc ko còn nguyên nghĩa”, là “nửa nhà nc”. Sau khi những cơ sở k.tế - xh cho sự tồn tại của nhà nc mất đi thì nhà nc cũng ko còn, nhà nc “tự tiêu vong”. Đây cũng là 1 đặc trưng nổi bật của nhà nc vô sản.
Từ những đặc trưng cơ bản đó cho thấy chức năng, nhiệm vụ của nhà nc xhcn biểu hiên tập trung ở việc quản lí xh trên tất cả cá lĩnh vực = pháp luật.
Chức năng của nhà nc xhcn đc t.hiện cả = tổ chức có hiệu quả công việc x.dựng toàn diện xh mới cả = việc sd những công cụ bạo lực để đập tan sự phản kháng của kẻ thù chống lại sự nghiệp x.dựng cnxh, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất nc, giữ vững an ninh xh.
Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà nc, do đó bạo lực, trấn áp cũng là cái vốn có của nhà xhcn. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đều cho rằng, với bản chất nahf nc vô sản, thì việc tổ chức, x.dựng mang tính sáng tạo nhằm cải biến xh cũ, x.dựng xh mới xhcn và cộng sản chủ nghĩa là chức năng căn bản, chủ yếu của nhà nc xhcn.
Khi x/định những nấc thang, những g.đoạn p.triển của cuộc cm xh do g/c cn lãnh đạo đi tới giải phóng g/c cn, nhân dân lđ và p.triển toàn diện về con ng`, C.Mác và Ph.Ăngghen đều cho rằng việc g/c cn giành lấy quyền lực nhà nc mới chỉ là g.đoạn đầu tiên. G.đoạn tiếp theo là, phải sd quyền lực của nhà nc để “ tăng thật nhanh số lg những LLSX”. Như vậy, rõ ràng chức năng tổ chức và x.dựng phải là chức năng chủ yếu của nhà nc xhcn.
P.triển trên quan điểm của C.Mác và Ăngghen về vấn đề này, V.I.Lênin kđ, việc tiếp tục x.dựng chủ nghĩa cộng sản, sáng tạo ra 1 xh mới, đó mới là chức năng q.trọng của nhà nc xhcn, q.trọng hơn cả việc đập tan sự phản kháng của g/c tư sản.
Từ 2 chức năng trên, nhà nc xhcn có những nhiệm vụ chính là: quản lí k.tế, x.dựng và p.triển k.tế; cải thiện ko ngừng đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; quản lí văn hóa – xh, x.dựng nền văn hóa xhcn, t.hiện giáo dục – đào tạo con ng` p.triển toàn diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân… ngoài ra, nhà nc xhcn còn có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng q.hệ hợp tác hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự p.triển và tiến bộ xh đv nhân dân các nc trên thế giới.
Từ thực tế x.dựng xh mới ở nc Nga Xôviết, Lênin đã làm rõ nhiệm vụ của nhà nc xhcn trên 2 lĩnh vực k.tế và xh.
Đv lĩnh vực k.tế, nhiệm vụ q.trọng hàng đầu của nhà nc vô sản là phải nhanh chóng p.triển mạnh số lg sp, củng cố kỉ luật lđ mới và nâng cao năng suất lđ.
Đv lĩnh vực xh, nhà nc xhcn phải x.dựng đc q.hệ xh mới, h.thành những tổ chức lđ mới, tập hợp đc đông đảo những lđ có khả năng vận dụng những thành tựu của khoa học – kĩ thuật vào sx, t.hiện từng bước cải tạo những ng` tiểu sx h2 thông qua những tổ chức thích hợp.
Tính tất yếu của việc xd nhà nc xhcn :
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, g/c cn khi t.hiện sứ mệnh lịch sử của m`, xóa bỏ tình trạng ng` bóc lột ng` và mọi sự tha hóa của con ng` do chế độ tư hữu sản sinh ra, thì trước hết họ phải cùng với nhân dân lđ “phá hủy nhà nc tư sản” chiếm lấy chính quyền, thiết lập chuyên chính vô sản. Bởi vì, “giữa xh tbcn và xh cộng sản chủ nghĩa là 1 thời kì cải biến cm từ xh nọ sang xh kia. Thích ứng với thời kì ấy là 1 TKQĐ chính trị, và nhà nc của thời kì ấy ko thể là cái gì # hơn là nền chuyên chính cm của g/c vô sản”.
Sau khi trở thành g/c cầm quyền, g/c cn phải nắm vững công cụ chuyên chính, phải x.dựng nhà nc xhcn vững mạnh, trở thành 1 công cụ trấn áp các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân để bảo vệ thành quả cm nhằm x.dựng thành công cnxh.
Sự cần thiết tất yếu phải xác lập chuyên chính vô sản, x.dựng nhà nc xhcn vững mạnh còn xuất phát từ thực tiễn của TKQĐ lên cnxh là thời kì còn tồn tại các g/c bóc lột, chúng h.động chống lại sự nghiệp x.dựng cnxh. Điều đó khiến cho g/c cn và nhân dân lđ thông qua nhà nc phải trấn áp = bạo lực khi cần thiết. V.I.Lênin xem dấu hiệu tất yếu, đk bắt buộc của chuyên chính và trấn áp = bạo lực những kẻ bóc lột, phản động với tính cách là 1 g/c. Đồng thời, trong TKQĐ cũng còn có các g/c, tầng lớp trung gian # và do địa vị k.tế - xh vốn có, các g/c này thg` đao động, ko thể tự m` đi lên cnxh. Trước thực tế đó, g/c cn phải tuyên truyền, thuyết phục, lôi cuốn họ đi theo m` trong công cuộc x.dựng xh mới. Do đó, nhà nc xhcn đóng vai trò là thiết chế cần thiết bảo đẩm sự lãnh đạo của g/c cn đv toàn xh.
Để mở rộng dân chủ tới mức tối đa đv mọi tầng lớp nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hành vi đi ngược lại những chuẩn mực dân chủ, vi phạm những g.trị dân chủ chân chính của nhân dân, đòi hỏi phải có 1 thiết chế nhà nc phù hợp. Chính vì vậy trong nền dân chủ xhcn, nhà nc phải đc củng cố, x.dựng để trở thành công cụ bảo vệ và p.triển thành quả của dân chủ. Dân chủ cần phải có chuyên chính để giữ lấy dân chủ, để những hành vi gây tác hại tới quyền dân chủ của nhân dân đc xử lí kịp thời… Các quyền đó phải đc thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật và đc t.hiện = những thiết chế tg ứng của nhà nc xhcn. Do đó, q.trình x.dựng nhà nc xhcn là q.trình tất yếu gắn liền với q.trình x.dựng nền dân chủ xhcn. Q.trình này cho thấy, dân chủ và pháp luât, dân chủ và kỉ cương ko bài trừ và phủ định nhau, trái lại, đó là sự thống nhất biện chứng, là đk,tiền đề tồn tại và p.triển của nhau.
X.dựng cnxh là q.trình cải tạo xh cũ, x.dựng xh mới trên tất cả các lĩnh vực k.tế, chính trị, văn hóa, tư tg. Với ý nghĩa đó, nhà nc xhcn là p.thức, p.tiện, là 1 công cụ chủ yếu của nhân dân trong sự nghiệp x.dựng và bảo vệ tổ quốc. Bởi vậy, để đảm bảo cho sự nghiệp x.dựng cnxh thành công thì việc x.dựng và ko ngừng hoàn thiên nhà nc xhcn – 1 trong những công cụ chủ yếu của q.trình cải tạo xh cũ, x.dựng xh mới, là 1 yc` tất yếu khách quan trong tiến trình CMXHCN.
4. Liên hệ
1 - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước phải luôn luôn chú trọng kết hợp thực hiện tốt chức năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và chính sách đó; phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
2 - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải dựa vào lực lượng nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích của nhân dân và dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
3 - Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và phân công quyền lực nhà nước thực sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực hiện ba quyền thống nhất có sự phân công rành mạch, trong đó, đề cao trách nhiệm, tính chủ động và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện sự phân cấp hợp lý quyền lực nhà nước giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Để xây dựng Nhà nước vững mạnh, cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; xác định rõ tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp; tiếp tục nghiên cứu làm rõ mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp (tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra) cho phù hợp với yêu cầu mới; tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Theo đó:
- Quốc hội phải thật sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
- Chính phủ phải nâng cao hiệu lực hoạt động của mình, thực sự là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện mọi chính sách, biện pháp hữu hiệu nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân; xác định rõ hơn trách nhiệm của Chính phủ và từng Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong việc quản lý ngành, lĩnh vực phụ trách; cải tiến việc phân định, phân cấp trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp mạnh hơn nữa cho địa phương kết hợp với quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Chính phủ khẩn trương hoàn thiện hợp lý cơ cấu tổ chức bộ máy của mình theo hướng quản lý vĩ mô và mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; từng bước sắp xếp, tổ chức lại các bộ, ngành ở trung ương, bảo đảm tinh gọn, hợp lý và được hiện đại hóa.
Tiếp tục quán triệt chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước một cách sâu rộng, toàn diện, đồng bộ từ trung ương đến địa phương, cơ sở. Tập trung cải cách thể chế hành chính; cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa các thủ tục trong các lĩnh vực có tác động trực tiếp tới đời sống và sản xuất kinh doanh của nhân dân; loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết; công khai các quy định, thủ tục hành chính; triển khai trong các cấp hành chính của cả nước thực hiện cơ chế "một cửa"; chấn chỉnh việc ban hành các thủ tục hành chính và quy định lệ phí, bảo đảm chặt chẽ; nâng cao chất lượng giải quyết các khiếu kiện của nhân dân; chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính; cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu chuyên nghiệp hóa, nâng cao chất lượng cả về phẩm chất và năng lực, kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, tham nhũng, thoái hóa, biến chất và các tiêu cực khác trong hệ thống hành chính; loại bỏ cán bộ, công chức kém phẩm chất và năng lực ra khỏi bộ máy hành chính nhà nước. Thực hiện cơ chế bãi miễn những người không xứng đáng. Có những giải pháp đồng bộ để khắc phục cho được thái độ vô trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước. Đó là thái độ làm việc thụ động, né tránh khó khăn, sợ va chạm, cốt sao giữ yên được vị trí trong cơ quan nhà nước. Kiên quyết xóa bỏ mọi rào cản đối với công cuộc cải cách hành chính.
- Xác định Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân trong một thể thống nhất của chính quyền địa phương. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu đại diện cho nhân dân địa phương, hoạt động mang tính tự quản, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu là cơ quan thường trực của Hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
- Đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp để xây dựng một nền tư pháp Việt Nam vững mạnh, minh bạch, bảo đảm công lý, công bằng, dân chủ, tận tụy phục vụ nhân dân. Phải xuất phát từ mục tiêu lấy tổ chức và hoạt động của tòa án làm trung tâm của cải cách tư pháp.
4 - Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng việc định hướng về tổ chức bộ máy nhà nước, lựa chọn, giới thiệu cán bộ để giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước, lãnh đạo cơ quan nhà nước thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật; tăng cường quản lý và kiểm tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy được tính chủ động, năng động và tự chịu trách nhiệm của những người đứng đầu của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Như vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình tương đối lâu dài với những bước đi vững chắc gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam.
XVII. VẤN ĐỀ DÂN TỘC.
* Khái niệm dân tộc:
Theo nghĩa hẹp, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người cụ thể nào đó có những mối liên hệ chặt chẽ bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, ngôn ngữ chung và trong sinh hoạt văn hoá có những nét đặc thù so với các cộng đồng người khác.
Theo nghĩa rộng, khái niệm dân tộc dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định bền vững hợp thành nhân dân của một quốc gia có lãnh thổ chung, có nền kinh tế thống nhất, có quốc ngữ chung và có truyền thống văn hoá, truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ nước.
* Hai xu hướng phát triển của dân tộc:
Nghiên cứu về dâ n tộc và phong trào dân tộc trong CNTB, Lênin đã chỉ ra 2 xu hướng phát triể có tính khách quan của nó:
Xu hướng thứ nhất: Do sự chín muồi của ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mìnhthì các cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành các quốc gia dân tộc độc lập.
Xư hướng thứ hai: Các dân tộc ở từng quốc gia kể cả các dtộc ở nhiều quốc gia muốn xích lại gần nhau, liên hiệp với nhau.
Trong điều kiện CN đế quốc, sự vận động của 2 xu hướng trên gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Xu hướg cac dtộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự do bìh đẳng bị chủ nghĩa đé quốc phủ nhận, thay vào đó là những khối liên hiệp với sự áp đặt, thống trị của chủ nghĩa đé quóc nhằm áp bức, boc lột các dtộc còn nghèo nàn, lạc hậu.
Theo quan điểm của CNMLN thì chỉ có trong đk cảu CNXH khi chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ thì tình trạng dân tộ này áp bức bóc lột dtộc khác mới bị xoá bỏ. Và khi đó 2 xu hướng trên mới có điều kiện để phát triển đầy đủ.
Ngày nay, mỗi xu hướg trên cũng như mqh giữa chúng có sự biểu hiện rất đa dạng và phức tạp:
- Xét trên phạm vi toàn TG thì thời đại ngày nay là thời đại của các dtộc bị áp bức, bóc lột vùng dậy xoá bỏ ách đô hj của CN đế quốc giành lấy quyền tự quyết vận mệnh của dtộc mình.
- Xét trong từng quốc gia XHCN đa dtộc thì 2 xu hướg trê có hình thức vận động riêng: từng quốc gia tiến tới sự phồn vinh và các dtộc xích lại gần nhau.
* Giải quyết vấn đề dân tộc:
Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh trong mối quan hệ giữa tộc người với tộc người trong cùng một quốc gia và giữa các quốc gia dân tộc với nhau về các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, lãnh thổ, an ninh, tác động xấu đến khối đại đoàn kết dân tộc cần phải được nghiên cứu và giải quyết.
Thực chất của việc giải quyết vấn đề dân tộc là xác lập quan hệ công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong cùng một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc với nhau trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội. Giải quyết vấn đề dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn địh, phát triển hay khủng hoảng tan rã của một quốc gia, dân tộc.
Nghiên cứu vấn đề dân tộc và các quan hệ dân tộc, Lênin đã đưa ra “Cương lĩnh dân tộc” với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – lênin. Và nó đã trở thành cơ sở lý luận cho chính sách, đường lối dân tôc của các Đảng Cộng sản và những nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, ở trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong quan hệ xã hội cũng như trong quan hệ quốc tế, không có một dân tộc nào có quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được thể hiện trên cơ sở pháp lí, nhưng quan trọng hơn nó phải được thực hiện trên thực tế.
Để thực hiện được bình đẳng dân tộc, trước hết phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp, trên cơ sở đó xoá bỏ tình trạng áp bức dân tộc; phải đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh.
Từng bước khắc phục tình trạng phát triển chênh lệch từng dân tộc, tạo điều kiện cho các dân tộc lạc hậu bằng sự nỗ lực của chính mình cùng với sự giúp đỡ của các dân tộc anh em để cùng phát triển trên con đường tiến bộ.
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc.
Các dân tộc có quyền tự quyết
Đó là quyền của các dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của dân tộc mình, quyền lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình.
Quyền tự quyết dân tộc bao gồm quyền tách ra thành lập một quốc gia dân tộc độc lập đồng thời có quyền tự nguyện liên hiệp với dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Tuy nhiên, việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích của giai cấp công nhân. Nghiêm cấm lợi dụng quyền tự quyết vào mục đích li khai hay phá vỡ quốc gia dân tộc.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Liên hiệp công nhân các dân tộc phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.
Đoàn kết liên hiệp công nhân các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết các tầng lớp nhân dân lao động thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dung này vừa là nội dung chủ yếu vừa là giải pháp quan trọng để liên kết các nội dung của Cương lĩnh dân tộc thành một chỉnh thể.
* Vấn đề dtộc ở Việt Nam.
Việt nam là một quốc gia có 54 dân tộc. Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, giúp dỡ nhau trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên và xây dựng đất nước. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đặc biệt là cương lĩnh dân tộc của Lênin, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đặt vấn đề dân tộc ở vị trí chiến lược và công tác dân tộc là bộ phận quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xây dựng chính sách dân tộc trên nguyên tắc đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, để cùng giành độc lập, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc ; đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc
Những nội dung cụ thể của chính sách dân tộc được xác định gồm :
Một là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và cho đất nước, tham gia tích cực vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Hai là, có chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức cho các dân tộc thiểu số.
Ba là, kế thừa và phát triển giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Bốn là, quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây ; tăng cường cơ sở khám chữa bệnh, cán bộ y tế cho các xã, thôn, ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số ; khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian ; từng bước ngăn chặn tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số.
Năm là, xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi phải gắn chặt với chính sách an ninh - quốc phòng nhất là ở các địa bàn xung yếu, vùng sâu, biên giới ; ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết giữa các dân tộc, làm mất ổn định xã hội.
XVIII. TRIỂN VỌNG CỦA CNXH.
1. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người
a. Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng đánh giá rất cao vai trò lịch sử của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của đảng cộng sản, các ông viết “giai cấp tư sản đã đóng vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”; song các ông cũng dự báo và chứng minh những dự báo của mình “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”.Vận dụng quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” chỉ ra những mâu thuẫn, xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn “tột cùng”, ăn bám và giãy chết và là phòng chờ của chủ nghĩa xã hội. Nhưng tình hình thực tế trong mấy thập niên vừa qua, chủ nghĩa tư bản ngày nay phát triển rất mạnh do biết tự điều chỉnh và thích ứng, biết tìm bí quyết để sống lại từ con đường cùng. Chủ nghĩa tư bản còn khả năng để phát triển nhưng bản chất của chủ nghĩa tư bản thì không thay đổi, những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, bản thân nó không thể khắc phục nổi, đó là tình trạng khủng hoảng kinh tế, ngoài khủng hoảng mang tính chu kỳ ra còn có khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng thể chế, khủng hoảng tài chính tiền tệ v.v. Các loại khủng hoảng và những khó khăn của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới hàng loạt vấn đề xã hội nảy sinh như tình trạng thất nghiệp, nghèo khó và chênh lệch giàu nghèo xã hội, mâu thuẫn dân tộc tăng lên, trật tự xã hội hỗn loạn, hoạt động tội phạm gia tăng v.v. Chủ nghĩa tư bản ngày nay dù đã có những điều chỉnh nhưng vẫn là “một thế giới không thể chấp nhận” như Renê Duynông khẳng định trong cuốn sách của mình.
Trong khuôn khổ của CNTB dù là CNTB hiện đại, trên thế giói ngày nay vẫn có đến 1,2 tỉ người vẫn tiễp tục phải chịu ghèo đói, tật bệnh mù chữ, chiến trnah, hưởng mức thu nhập dưới 1USD/ngày; 2,5 tỉ ng nghèo có tổng thu nhập chỉ bằng thu nhập của 250 tỉ phú, triẹu phú lớn nhất thế giới gộp lại; 1/3 LL lđ toà TG, tức khoảng 1 tỉ ng bị thất nghiệp ở các mức khác nhau; tại hơn 100 nước đang hoặc kém phát triển, mức thu nhập bình quân đầu ng giảm đi so với thập niên trước, hàng ngày có đến30000 trẻ em chết bệnh mà lẽ ra có thể được cứu sống, và só ng mù chữ lên tới 800 triệu người.
Sự kiện giới cầm quyền Mỹ và giới cầm quyền Anh tấn công Irắc năm 2003 càng khẳng định bản chất hiếu chiến của chúng.
b. Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đang nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản.
Theo quan điểm của C.Mác “sự thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên”. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội với tư cách là hai hình thái kinh tế xã hội khác nhau, kế tiếp nhau, xã hội trước tất yếu bị xã hội sau thay thế, xã hội sau vừa phủ nhận xã hội trước vừa kế thừa và phát triển những thành tựu mà xã hội trước tạo ra. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã phát triển đến giai đoạn cao nhất của nó- chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước- đã gần với chủ nghĩa xã hội hơn. Theo V.I. Lênin chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội, là giai đoạn trước của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã tạo ra nền sản xuất lớn với khoa học công nghệ ngày càng hiện đại, sự phát triển xã hội hoá sản xuất đang “nẩy mầm” những nhân tố của chủ nghĩa xã hội. Sự xuất hiện những công ty cổ phần trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tăng lên của nó và những nhân tố xã hội chủ nghĩa khác có nghĩa là sự phát triển của quá trình lịch sử tự nhiên trong đó chủ nghĩa tư bản bắt đầu quá độ sang phương thức sản xuất mới. Trong xã hội tư bản hiện đại, về mặt sở hữu, sự xuất hiện quốc hữu hoá, chế độ hợp tác, công ty cổ phần, nhà nước đóng vai trò điều tiết quản lý về vốn, nguồn lao động tham gia quản lý xí nghiệp ở mức độ khác nhau, sự rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, lao động trí óc với lao động chân tay, tính dân chủ và xã hội của nhà nước tăng lên v.v tất cả những cái đó nếu không nói đó là những nhân tố của chủ nghĩa xã hội ở mức độ nhất định, thì đó cũng là sự chuẩn bị điều kiện vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên điều đó vẫn chưa vượt ra khỏi cái khung tư bản chủ nghĩa, sự biến đổi về lượng chưa chuyển thành sự biến đổi về chất, vẫn là chủ nghĩa tư bản.
c.Tính đa dạng các xu hướng phát triển của thế giới đương đại.
Sau cách mạng Tháng Mười nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự tồn tại hai hệ thống kinh tế xã hội đối lập nhau đã tác động đến sự lựa chọn con đường phát triển của các dân tộc.
Ở các nước vốn trước đây là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc sau khi giành độc lập đã, đang lựa chọn con đường phát triển của dân tộc mình. Con đường tư bản tư nghĩa trong những điều kiện nhất định đã đem lại những thành công cho một số nước còn phần lớn cách nước khác không thoát khỏi đói nghèo, nợ nần chồng chất.Ngay ở các nước tư bản phát triển cũng nảy sinh xu hướng phát triển “phi tư bản”, “hậu tư bản”, xu hướng xã hội dân chủ v.v điều này chứng tỏ chủ nghĩa tư bản không phải là “xã hội tốt đẹp cuối cùng”, không phải là tương lai của loài người mà nó sẽ phải bị thay thế.
2. CNXH – tương lai của xã hội loài người.
a. Sự sụp đổ của Liênxô và các nước Đông Âu không có nghĩa là sự cáo chung của CNXH.
Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sự kiện Liênxô, Đông Âu sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới bị tổn thất nghiêm trọng. Kẻ thù thì vội vã vui mừng cho đó là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội, sự cáo chung của chủ nghĩa Mác, còn người dân cũng không khỏi hoang mang bối rối. Sự thật, sự tan rã của Liên xô, Đông Âu không phải là sự thất bại của chế độ và nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà chỉ là sự thất bại của một mô hình thực tiễn nhất định. Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liênxô, mô hình chủ nghĩa xã hội cứng nhắc, nó không đồng nghĩa với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một hình thái kinh tế-xã hội mà loài người đang vươn tới. Sự sụp đổ của Liênxô và Đông Âu cũng không vì thế mà thay đổi nội dung, tính chất của thời đại. Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, sự tan rã của chủ nghĩa xã hội ở Liênxô và Đông Âu chỉ chứng tỏ tính quanh co, phức tạp của sự phát triển xã hội mà thôi.
b. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách mở cửa, đổi mới và ngày càng thu được những thành tựu to lớn.
Trong bối cảnh Liênxô và các nước xẫ hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, thì ở một số nước xã hội chủ nghĩa khác điển hình là Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành đổi mới, cải cách mở cửa thành công, đã đưa đất nước vượt qua khó khăn khủng hoảng và đạt được những thành tựu to lớn. Trên cơ sở kiên trì, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình, trong qua trình đổi mới, cải cách, mở cửa đã giữ vững nguyên tắc, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước và xã hội. Để giữ vững vai trò lãnh đạo, Đảng phải tự đổi mới theo hướng dân chủ, khoa học phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình.
Đã từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung chuyển sang kinh tế thị trường, thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, lấy hình thức phân phối theo lao động là nguyên tắc chủ yếu. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế. Nhà nước quản lí vĩ mô, giảm dần sự can thiệp vi mô, thực hiện chế độ dân chủ, công khai minh bạch. Xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường khó khăn lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn.Sau hơn 30 năm (1978) cải cách, mở cửa của Trung Quốc, hơn 20 năm (1986) đổi mới ở Việt Nam, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao, vị thế của Trung Quốc và Việt Nam ngày càng được thế giới tôn trọng. Thành công của cải cách, mở cửa của Trung Quốc, đổi mới ở Việt Nam cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin, của chủ nghĩa xã hội.
c. Sự xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở các nước Mỹ Latinh.
Cùng với những thành công của công cuộc cải cách, đổi mới của Trung Quốc và Việt Nam, sự hồi phục của các Đảng Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, ở Mỹ Latinh đã xuất hiện xu hướng thiên tả từ những năm 90 của thế kỷ XX và hiện nay không ngừng lớn mạnh. Thông qua bầu cử các lực lượng dân chủ, tiến bộ đã thành lập được chính phủ lên cầm quyền ở các nước Mỹ Latinh như Vênêzuala, Nicaragoa, Bôlivia, Braxin, Acgentina v.v nhiều nước đã tuyên bố lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Mô hình chủ nghĩa xã hội nhiều nước Mỹ Latinh lựa chọn tạo thành mô hình “chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI”, mô hình này về đại thể có những nội dung cơ bản là Về tư tưởng, lấy chủ nghĩa Mác, tư tưởng tiến bộ của Ximôn Bôlivia, tư tưởng nhân đạo thiên chúa giáo làm nền tảng. Về chính trị, nhấn mạnh tư tưởng “dân chủ cách mạng” và chính quyền nhân dân, xây dựng mô hình xã hội theo đó nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước, thực hiện công bằng xã hội. Về kinh tế, chủ trương thực hiện kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước và hợp tác giữ vai trò chủ đạo, giành lại chủ quyền dân tộc đối với tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là dầu mỏ, nước sạch v.v thực hiện công bằng, giải quyết vấn đề bất bình đẳng và phân hoá xã hội. Về đối ngoại, thúc đẩy khối đại đoàn kết Mỹ Latinh và quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, lấy hợp tác thay thế cạnh tranh, đấu tranh cho một thế giới đa cực dân chủ, chú trọng kinh nghiệm quốc tế của các nước xã hội chủ nghĩa như Cu Ba, Việt Nam, Trung Quốc. Mô hình chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh tuy còn điểm này điểm khác, còn tiếp tục được nghiên cứu, theo dõi, nhưng với sự xuất hiện mô hình đó chứng tỏ sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội và lòng tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của nhân dân lao động.
Tóm lại, tình hình thế giới đang vận động rất phức tạp, những diễn biến từ sau cách mạng Tháng Mười Nga đến nay cũng chứng tỏ dù phải trải qua những bước quanh co phức tạp nhưng loài người nhất định tiến tới chủ nghĩa xã hội, đó cũng chính là quy luật vận động khách quan của lịch sử.
3. Triển vọng của CNXH ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, thực tiễn đã cho thấy: Dân giàu nước mạnh không chỉ là niềm mong ước của nhân dân mà cũng là mục tiêu duy nhất của cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam vươn tới. Đó cũng là mơ ước trọn đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chế độ XHCN ở Việt Nam đã phản ánh đúng quy luật phát triển của dân tộc, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của toàn dân và chứng minh sức sống mãnh liệt của nó trong hoàn cảnh một dân tộc nhỏ, yếu, muốn tồn tại và phát triển phải luôn vượt qua thử thách gay go, ác liệt. Một người có thể lầm, một thế hệ có thể lầm nhưng cả dân tộc với gần trọn một thế kỷ đổ máu xương cho nền độc lập tự do thì không thể lầm. Con đường XHCN của Việt Nam mang hơi thở thời đại. Sự lựa chọn con đường đi của dân tộc ta là hoàn toàn đúng.
Trên con đường phát triển, những bước quanh co khúc khuỷu là bình thường. CNXH đang ở bước quanh của lịch sử, cũng như nhiều nước tư bản đã từng gặp không ít cơn sóng gió, khủng hoảng. Lịch sử ghi nhận những năm 60-70 của thế kỷ trước, khi nhiều nước XHCN đang phát triển, giá trị nhân văn của cuộc sống xã hội trở thành niềm mong ước của nhân dân nhiều nước thì cũng là thời điểm chủ nghĩa tư bản hốt hoảng biết tự điều chỉnh để thích ứng.
Vào những năm đầu thập kỷ 80, thì CNXH rơi vào tiền khủng hoảng do chế độ quản lý kinh tế tập trung đã bộc lộ sự yếu kém và lỗi thời của nó, mở đầu cho sự ngộ nhận, trì trệ kéo dài trên dưới 20 năm. Sự khủng hoảng của các nước XHCN dẫn tới sự sụp đổ của nhiều nước chính là do sai lầm của sự lựa chọn mô hình, của giải pháp, bước đi kém hiệu quả. Không thể vì sự yếu kém do mô hình dẫn đến thử thách lớn vừa qua mà vội phủ nhận tư tưởng XHCN. Chính vào lúc phong trào XHCN ở thời kỳ thoái trào thì sự đổi mới lý luận tư tưởng XHCN đặc biệt phát triển không chỉ ở các nước XHCN mà cả ở phương Tây đương đại.
Các Đại hội quốc tế về chủ nghĩa Mác liên tục diễn ra ở Paris (1995), New York (1996), London (1996)... thu hút đông đảo người tham dự càng cho thấy sức sống mạnh mẽ của chủ nghĩa Mác. Những người đảng viên cộng sản chúng ta đang phát triển, bổ sung và hoàn thiện lý luận chủ nghĩa Mác. Thực tế từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20 đã đánh dấu bước thử thách của tất cả các Đảng Cộng sản cầm quyền. Nhân dân các nước đều đồng tình với chủ trương đổi mới, cải cách để tìm bước đi và giải pháp thích hợp năng động hiệu quả hơn chứ nhân dân không đồng tình với việc lật đổ chế độ để phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Thực tiễn của Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và những gì đã diễn ra trong đời sống chính trị của Nga và các nước Đông Âu đã chứng minh điều đó. Cũng như nhiều nước XHCN, mô hình CNXH ở Việt Nam một thời gian còn nhiều mặt yếu kém, thậm chí có cả khuyết điểm, sai lầm. Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành đổi mới để tìm những giải pháp tốt hơn, hữu hiệu hơn.
Tôi nhớ lời nhận xét của người phụ trách Văn phòng hợp tác kỹ thuật của CHLB Đức ở VN: “Trong một đất nước mà ở đó tới giữa những năm 80 nạn đói vẫn hoành hành thì trước hết tôi sẽ nói về cuộc đấu tranh chống nghèo đói. Trên lĩnh vực này, VN dẫn đầu thế giới từ những năm 90. Ở đây, CNXH có diện mạo mang tính xã hội hơn so với chủ nghĩa tư bản ở nhiều nước phát triển”.
Bằng thành tựu đổi mới, Việt Nam đang cho thế giới thấy rõ sự tồn tại của chế độ XHCN, đồng thời qua tổng kết lý luận từ thực tiễn, chúng ta cũng đang làm giàu thêm kho báu tư tưởng của CNXH thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề cương môn- Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin..doc