Chủ động chấn chỉnh và hoàn thiện công tác quản lý kinh tế - tài chính trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
chủ động phát triển nhưng phải quản lý và kiểm soát chặt chẽ được các hoạt động này
nhằm đảm bảo an toàn xã hội, an ninh kinh tế và chủ quyền quốc gia.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Mối quan hệ giữa lãi suất và quy mô vốn đầu tư, vận dụng phân tích đánh giá tình hình đầu tư của Việt Nam giai đoạn 2000- 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Bên cạnh việc điều chỉnh giảm lãi suất cho vay, các ngân hàng thương mại nhà
nước và ngân hàng thương mại cổ phần điều chỉnh giảm lãi suất huy động bằng VND,
với mức giảm khoảng 1-2%/năm; cụ thể là: Mức lãi suất huy động dưới 3 tháng giảm từ
10%/năm xuống 8-9%/năm, kỳ hạn từ 3 đến 12 tháng giảm từ 11%/năm xuống 9-
10%/năm, kỳ hạn 12 tháng giảm từ 12%/năm xuống 10-10,5%/năm và trên 12 tháng từ
10%/năm xuống 8-9%/năm.
- Phản ứng bước đầu của thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng là khá tích cực
đối với các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam:
Ngày 5/12/2008, lãi suất thị trường liên ngân hàng qua đêm và kỳ hạn dưới 1 tháng từ
9,5-10,5%/năm, giảm khoảng 1-1,5%/năm so với ngày 4/12/2008; Thị trường tiền tệ tiếp
tục dư cung vốn khả dụng, ngân hàng nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành linh hoạt
nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại quản trị tốt vốn khả
dụng.
- Đến ngày 22/12/2008, một lần nữa ngân hàng nhà nước Việt Nam tiếp tục hạ lãi
suất cơ bản xuống 8,5%/năm và không vượt quá 150% lãi suất cơ bản.
- Như vậy trong quý 4/2008, ngân hàng nhà nước đã ban hành các văn bản điều
chỉnh lãi suất theo hướng nới lỏng đồng thời điều chỉnh giảm các tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
Tính đến cuối quý 4, lãi suất cơ bản ở mức 8,5%/năm, lãi suất chiết khấu ở mức
7,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn 9,5%. Như vậy, trong quý 4/2008, ngân hàng nhà nước đã
5 lần điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản từ 14% vào đầu tháng 10 xuống 8,5% vào ngày
22/12/2008.
1.3) Giai đoạn 3: Từ năm 2009-2010.
Năm 1/2/2009 1/12/2009 5/11/2010
Lãi suất cơ bản 7.00% 8% 9.00%
Mức lãi suất cao nhất cho phép giao dịch là 150% lãi suất cơ bản.
- Trước thực trạng hoạt động ngân hàng thương mại trong 7 tháng đầu năm 2009,
chính sách tiền tệ trong năm 2009 và đặc biệt là trước những chuyển động mới của các
NHTM, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục tăng cường kiểm soát chất lượng và hoạt động
tín dụng, đảm bảo an toàn hệ thống. Ngày 10/8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký
ban hành Thông tư số 15/2009/TT-NHNN quy định tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn
được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức tín dụng hoạt động tại
Việt Nam, trừ quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Theo thông tư này tỷ lệ tối đa của nguồn vốn
ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn được quy định: với các ngân
hàng thương mại là 30%; với các công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính là 30%;
với quỹ tín dụng nhân dân trung ương là 20%. Theo quy định cũ, các tỷ lệ tối đa đối với
các ngân hàng thương mại là 40%, với các tổ chức tín dụng khác là 30%.
- Vào tháng 2/2010 , thực hiện cơ chế lãi suất thuận với lãi suất cho vay. Riêng đối
với lãi suất huy động thực hiện theo trần lãi suất ngân hàng 14%/năm. NHNN vẫn tiếp
tục công bố lãi suất cơ bản hàng tháng với mục đích định hướng thị trường và chống cho
vay nặng lãi. Ngân hàng nhà nước vẫn tiếp tục sử dụng các công cụ : Dự trữ bắt buộc, tái
cấp vốn, nghiệp vụ thi trường mở để tác động gián tiếp tới lãi suất thị trường
2) Đánh giá:
- Nhỉn chung tỉnh hỉnh lãi suất Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010, NHNN liên
tục điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản đặc biệt là trong năm 2008 lãi suất cho vay quá cao
khiến khách hàng không chịu nổi và ngân hàng có nguy cơ không thu hồi được nợ. Tuy
nhiên, đến nay với sự điều chỉnh của Ngân hàng nhà nước bắt đầu giảm lãi suất cho vay.
- Một số nguyên nhân của vấn đề tăng lãi suất :
+ Sự biến động của giá dầu mỏ và giá vàng trên thế giới cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến sự biến động của lãi suất Việt Nam
+ Do sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các ngân hàng thương mại, ngân
hàng cổ phần nên các ngân hàng phải diều chỉnh lãi suất để giữ thị phần khách hàng, ổn
định nguồn vốn.
+ Việc tăng dự trữ bắt buộc của các ngân hàng tăng lên buộc các ngân hàng
đẩy mạnh việc huy động vốn.
+ Sự chênh lệch tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Đồng nội tệ
mất giá nhiều hơn so với đồng ngoại tệ.
- Trước tình hình đó thì vào năm 2009, lãi suất bắt đầu hạn nhiệt do:
+ Ngân hàng nhà nước tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước về hoạt
động tiền tệ, nghiêm cấm việc thu thêm phía ngoài lãi suất cho vay dưới bất cứ hình thức
nào và thường xuyên báo cáo lên ngân hàng nhà nước.
+ Chỉ số tiêu dùng CPI có xu hướng giảm, nhập siêu giảm mạnh, diễn biến
kinh tế vĩ mô có chiều hướng tích cực, các biện pháp kiềm chế lạm phát đang bắt đầu có
hiệu quả. Tình hình này tác động tới tâm lý của cả các ngân hàng thương mại trong cạnh
tranh huy động vốn và tâm lý người gửi tiền theo chiều hướng tích cực
+ Thị trường ngoại tệ hạ nhiệt, giá USD có xu hướng giảm đã góp phần ngăn
chặn tình trạng rút vốn tiền nội tệ mua ngoại tệ để cất trữ.
+ Tính thanh khoản của nền kinh tế chuyển biến tích cực hơn.
II) Thực trạng và đánh giá quy mô vốn đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn
2000-2010
1) Quy mô vốn đầu tư trong nước:
1.1) Vốn nhà nước:
- Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, trong những năm gần đây tổng vốn
đầu tư trong xã hội cũng đã liên tục tăng cao. Xét về cơ cấu, khu vực kinh tế Nhà nước
vẫn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng đầu tư xã hội, mặc dù tỷ trọng của khu vực này đã
giảm từ 59,1% vào năm 2000 xuống còn 33,9% năm 2008, thấp hơn tỷ trọng của khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh, nhưng năm 2009 lại tăng trở lại mức 40,6% và trở về vị trí số
một trong cơ cấu vốn đầu tư xã hội.
Hình 1: Vốn đầu tư trong toàn xã hội (nghìn tỷ đồng, so sánh với năm 1994)
Nguồn : Tổng cục thống kê niên giám 2009
- Tính theo giá so sánh năm 1994, vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước đã tăng
từ 68,1 nghìn tỷ đồng năm 2000 lên 173,1 nghìn tỷ đồng năm 2009, bình quân mỗi năm
tăng gần 11%
- Do đầu tư công tăng nhanh nên vốn sản xuất và tài sản cố định có nguồn công tăng
lên nhanh chóng trong nền kinh tế, với tốc độ tăng bình quân hàng năm vào khoảng 15%,
mặc dù tỷ trọng tương đối đang có xu hướng giảm đi (từ mức 2/3 năm 2000, giảm xuống
còn khoảng 50% năm 2006) và tiếp tục giảm thấp hơn trong các năm gần đây.
- Trong khi lao động trong khu vực Nhà nước không thay đổi bao nhiêu, thì trình độ
trang bị vốn của lao động khu vực Nhà nước đang tăng lên nhanh chóng. Tài sản cố định
và vốn đầu tư dài hạn của một lao động khu vực DNNN năm 2004 có 160 triệu đồng;
năm 2005 là 239 triệu đồng, năm 2006 tăng lên đến 418 triệu đồng và năm 2007 đạt 511
triệu đồng (trung ương 613 triệu đồng và địa phương 225 triệu đồng), tức là trong 4 năm
mà trang bị vốn đã tăng hơn 3 lần cho lao động của khu vực kinh tế Nhà nước.
1.2) Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:
- Cùng với quá trình đổi mới mở cửa, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai
đoạn 2001_2005 nguồn vốn này chiếm 14% tổng vốn đầu tư phát triển. Trong những
năm tiếp theo nguồn vốn này sẽ có xu hướng cải thiện về mặt chất lượng và phương thức
tài trợ nhưng tỷ trọng sẽ không có sự gia tăng đáng kể. Ngày 19/9/2008, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị định số 106/2008/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số Điều của Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của Chính phủ
về tín dụng đầu tư ( miễm giảm chính sách ưu đãi tín dụng ) .Tuy nhiên, cũng phải nói rõ
thêm là việc điều chỉnh lãi suất tín dụng nhà nước khác với việc điều chỉnh lãi suất của
hệ thống ngân hàng thương mại. Lãi suất của hệ thống NHTM dựa vào cung - cầu vốn
trên thị trường để đưa ra lãi suất cho vay, còn việc điều chỉnh lãi suất tín dụng nhà nước
phải căn cứ vào lãi suất huy động thị phần cổ phiếu để xác định lãi suất cho vay phù
hợp. Mức lãi suất tín dụng nhà nước hiện tại là phù hợp với mục tiêu chung, một mặt tạo
điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, mặt khác giảm bớt cấp bù của ngân
sách.
1.3) Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước:
- Theo bộ kế hoạch và đầu tư, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư
thường chiếm 14%-15% tổng vốn đầu tư xã hội, chủ yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở
rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ của doanh nghiệp.na
1.4) Nguồn vốn của dân cư và tư nhân:
- Đây là nguồn vốn hiệu quả, linh hoạt, giải quyết công ăn việc làm đáng kể. Trong
giai đoạn 2001 - 2005, nguồn vốn đầu tư của dân cư và tư nhân chiếm 26% tổng vốn đầu
tư toàn xã hội.Trong giai đoạn tiếp theo, nguồn vốn này sẽ tiếp tục tăng về cả quy mô và
tỷ trọng. Khu vực tư nhân trong nước của Việt Nam đã phát triển rầm rộ kể từ khi ban
hành Luật Doanh nghiệp vào đầu năm 2000. Luật này đã góp phần tạo ra khoảng 62.300
doanh nghiệp với tổng số vốn đầu tư khoảng 7,4 tỷ USD. Năm 2001, khu vực này chiếm
khoảng 25% tổng số vốn đầu tư ở Việt Nam so với 20% của khu vực đầu tư nước
ngoài.Tính riêng năm 2007, vốn đầu tư trong nước của tư nhân và doanh nghiệp ngoài
nhà nước chiếm tỷ trọng và mức tăng trưởng cao nhất, đạt 106 ngàn tỷ đồng (tăng
19.5%). Trong năm 2006 - 2010, nguồn vốn này chiếm 28.6% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội.
Tuy nhiên hiệu quả của đầu tư càng thấp và ngày càng giảm thể hiện qua chỉ số ICOR
còn khá cao. Có bảng số liệu:
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
ICOR 4,9 5,1 5,25 5,22 4,97 4,7 4,93 4,77 6,66 8 6,3
(Nguồn: Tổng cục thống kê niên giám 2010)
Tính bình quân 3 giai đoạn: giai đoạn 1995-2000, 2000-2005, 2005-2010 hệ số này tăng
lên một cách đáng kể lên.
Nguồn:
- Như vậy hệ số ICOR tăng nhanh trong ba giai đoạn, giai đoạn 1995-2000 hệ số
này chỉ là 3,7 thế nhưng trong giai đoạn 2000-2005 hệ số này đã tăng lên là 5,01 và đến
giai đoạn 2006-2010 là 6,13. Với mục đích duy trì tốc độ tăng trưởng cao, chính sách tiền
tệ và chính sách tài khóa đã được nới lỏng. Tốc độ tăng trưởng phương diện thanh toán
và tín dụng trong giai đoạn 2006-2010 tăng lên nhanh hơn giai đoạn 2000-2005 và giai
đoạn 1999-2000; bội chi ngân sách cũng vượt lên trên 5% GDP. Hệ quả là nền kinh tế đã
trở nên “nóng” ( tốc độ tăng trường sản lượng thực tế vượt quá sản lượng tiềm năng) và
vì lạm phát gia tăng, các cân đối vĩ mô bị phá vỡ. Do vậy ICOR tăng nhanh đồng nghĩa
với hiệu quả đầu tư bị giảm sút này đang xảy ra với vốn đầu tư toàn xã hội. ICOR tăng là
một xu hướng tất yếu do sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên ICOR tăng nhanh lại
luôn là không bình thường và đáng lo ngại trong quá trình phát triển của mọi nền kinh tế.
So với các nước khác trong khu vực ICOR Việt Nam cao hơn và các nhà kinh tế cho
rằng, hệ số ICOR của nước ta hiện nay đã vượt qua ngưỡng an toàn.
Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia châu Á
Nguồn: World Development Indicators and Economics Interlligence unit 2010
- Thực trạng này có thể giải thích do sự kết hợp của sức mạnh tài chính, hiệu quả
chi tiêu của nhà nước và phạm vi cạnh tranh tín dụng sẽ tác động đến ICOR. Theo khía
cạnh này thì Việt Nam có thể tụt hậu so với các nước cạnh tranh. Động thái tăng ICOR
của toàn bộ nền kinh tế gắn với tốc độ tăng nhanh của đầu tư nhà nước và khu vực FDI.
Nhưng nếu ICOR cao của khu vực FDI có thể biện minh được bằng suất đầu tư cao (vốn
đắt, trình độ công nghệ - kỹ thuật cao) và năng suất lao động cao thì đối với nhà nước,
vấn đề lại liên quan đến chất lượng đầu tư, năng lực quản lý ở cấp vĩ mô lẫn vi mô và
năng suất lao động thấp. Hơn nữa trong thời gian qua đầu tư nhà nước lại tập trung nhiều
vào một loạt các siêu dự án kéo dài và gặp vô số vấn đề chỉ giúp tăng GDP trong năm
đầu tư, còn lại gây lãng phí và tổn thất cho xã hội.
2) Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam:
Đây là nguồn đóng góp chính cho các hoạt động đầu tư vào Việt Nam hiện nay, chủ yếu
là FDI và ODA.
2.1) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI
- Hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài- FDI, là một nhiệm vụ quan trọng trong
chiến lược phát triển của các quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển, trong đó
có Việt Nam. Nhằm tạo ra một hành lang pháp lý để thu hút đầu tư nước ngoài, ngày
Luật đầu tư nước trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam chính thức hoạt động.
Nguồn:
- Từ năm 2000, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam bắt đầu
có dấu hiệu phục hồi sau ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và tiền tệ châu á. Vốn
đăng ký năm 2000 đạt 2,5 tỷ USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so
với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003
tăng 6% so với năm 2002. Vốn FDI có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004, với tốc độ
tăng 45,1% vào năm 2004 và 50,8% vào năm 2005. Tổng vốn đăng ký thời kỳ 2001-2005
đạt 20,8 tỷ USD vượt xa 73% so với mục tiêu tại Nghị Quyết 09/2001/NQ-CP ngày
28/8/2001 của Chính phủ, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn
chung trong 2001-2005, Vốn đầu tư nước ngoài cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao
hơn năm trước( tỷ trọng trung bình 59,5%) , nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa
và nhỏ.
- Kể từ năm 2006 đến 2008, dòng ĐTNN vào Việt Nam tăng đột biến, hàng năm
luôn đạt kỷ lục so với các năm trước. Năm 2006 vốn FDI đăng ký đạt 12 tỷ USD, năm
2007 đạt 21,3 tỷ USD, năm 2008 con số này lên tới 71,7 tỷ USD, gấp hơn 3 lần so với
năm 2007. Trong 2009 và 2010, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế thế giới, cũng như những vấn đề hậu khủng hoảng, vốn FDI đăng ký vẫn
đạt khoảng 23,1 tỷ vào năm 2009 và 18,6 tỷ vào năm 2010. Dòng vốn đầu tư nước ngoài
vào nước ta tăng đáng kể với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu
trong ngành công nghiệp( sản xuất thép, diện tử, sản phẩm công nghệ cao,) và dịch vụ
( Cảng biển, du lịch,..)
- Vốn FDI thực hiện năm 2006 đạt 4,1 tỷ USD, năm 2007 đạt 8,0 tỷ USD, năm
2008 đạt 11,5 tỷ USD, chiếm tới 30,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cao hơn rất nhiều so
với các năm trước. Trong năm 2009 và 2010, mặc dù vốn đăng ký giảm nhưng vốn FDI
thực hiện vẫn đạt 10 tỷ USD vào năm 2009 và khoảng 11 tỷ vào năm 2010, với tỷ trọng
tương ứng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 25,6% và 25,8%. Nếu nhìn bình diện
chung so với các nước đang phát triển trong thời kỳ này, Việt Nam là một trong 15 nước
được tiếp nhận luồng FDI lớn nhất trên thế giới và các doanh nghiệp FDI đầu tư vào Việt
Nam đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng trong thời gian qua, mức tăng trưởng của khu
vực này luôn tăng cao hơn so với mức tăng trưởng kinh tế so với các khu vực khác và
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư doanh nghiệp.
- Tuy nhiên bên cạnh những thành công, hoạt động thu hút FDI trong thời gian qua
vẫn còn tồn tại một số vấn đề nghiêm trọng. Đây là những rủi ro rất đáng quan tâm đối
với Việt Nam:
+ Nguy cơ “thổi phồng” về vốn và lợi nhuận,
+ Nguy cơ yêu cầu quá lớn về nguồn cung cấp năng lượng, tài nguyên thiên
nhiên, đất đai
+ Nguy cơ về ô nhiễm môi trường
+ Nguy cơ không phù hợp với quy hoạch phát triển gây mất cân đối về cơ cấu
trong quá trình phát triển lâu dài của đất nước.
+ Nguy cơ sử dụng công nghệ lạc hậu.
+ Nguy cơ rút vốn của khu vực tư nhân trong nước
+ Nguy cơ ngoại tệ và tỷ giá trong tương lai
2.2) Vốn viện trợ nước ngoài (ODA)
- ODA là khoản vay của chính phủ nước ngoài hay các tổ chức quốc tế nhằm mục
tiêu phát triển kinh tế. Lãi suất cho vay ODA thường thấp và có những khoản không
hoàn lại. Chính vì thế đây là nguồn vốn quan trọng nhằm giúp phát triển hạ tầng, các dự
án phát triển kinh tế. Trong giai đoạn 2000-2010, Việt Nam đã thu hút một lượng đáng kể
nguồn vốn ODA. Việt Nam có hơn 51 nhà tài trợ. Một số nhà tài trợ song phương lớn
của Việt Nam như Australia, Đức, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Trung Quốc.Một
số nhà tài trợ đa phương lớn bao gồm: Các tổ chức tài chính quốc tế ( Quỹ tiền tệ quốc tế,
Ngân hàng phát triển châu Á(ADB) ), liên minh châu Âu
- Vào ngày 29/12/2006 Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 290/2006/QĐ-
TTg phê duyệt đề án thu hút và sử nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thời kỳ 2006-2010.
5 lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA trong thời kỳ 5 năm 2005-2010 bao gồm:
+ Phát triển nông nghiệp và nông thôn( nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp ,
thuỷ sản)
+ Xây dựng hạ tầng kinh tế theo hướng hiện đại
+ Xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội (y tế, giáo dục và đào tạo, dân số và phát
triển một số lĩnh vực khác)
+ Bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
+ Tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao
công nghệ, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai.
- Công tác thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) trong giai đoạn
2000-2010 đã được thực hiện tích cực, theo chủ trương của Đảng và nhà nước Việt Nam,
đó là “ Việt Nam sẵn sàng là một đối tác vững chắc trong cộng đồng quốc tế, nổi bật cho
hoà bình, độc lập và phát triển”. Nguồn vốn ODA viện trợ cho Việt Nam luôn tăng qua
các năm đạt cao nhất vào năm 2010 với số vốn lên tới 8,06 tỷ USD
- Năm 2011 nguôn vốn ODA dành cho Việt Nam vẫn được cam kết ở mức cao
khoảng 7,88 tỷ USD. Theo dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2011-2015,
để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7-7,5%
- Những khó khăn trong việc huy động ODA:
+ Những quy định còn rườm rà gây khó khăn cho hoạt động đầu tư
+ Vốn ODA chưa được sử dụng hợp lý
+ Việc giải ngân vốn còn chậm
+ Các nguồn vốn ODA cho Việt Nam ngày càng ít ưu đãi hơn
III) Lãi suất tác động đến quy mô đầu tư Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010:
1) Mô hình hồi quy tuyến tính 3 biến.
Hàm hồi quy tuyến tính 3 biến có dang:
E(Y/ X2,X3)= β1+ β2 X2 + β3X3
Trong đó: Y là biến phụ thuộc (Biến được giải thích)
X2 X3 là các biến độc lập( Biến được giải thích)
Áp dụng vào mô hình hồi quy tuyến tính của 3 biến: Lãi suất cơ bản, vốn đầu tư và GDP
Việt Nam trong giai đoạn 2000-2010.
Có I: Biến phụ thuộc (Biến được giải thích).
R: Lãi suất cơ bản của các năm giai đoạn 2000-2010.
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội Việt Nam giai đoạn 2000-2010.
Với nguồn số liệu từ Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam và Tổng Cục Thống Kê. Ta có dữ
liệu của các biến như sau:
a) Dữ liệu lãi suất cơ bản giai đoạn 2000-2010: Dữ liệu được cung cấp dựa vào Ngân
hàng nhà nước Việt Nam, ta có:
Lãi suất cơ bản từ năm 2000-2007:
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
7,2 8 7,2 7,5 7,5 7,8 8,25 8,25
Nguồn dữ liệu: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Từ năm 2008- 2010, do lãi suất cơ bản thay đổi liên tục nên ta áp dụng công thức
chỉ mức độ trung bình theo thời gian với khoảng cách giữa các thời điểm không bằng
nhau và thời gian nghiên cứu là liên tục:
=
Trong đó : yi : mức độ thứ i trong dãy số.
ti : độ dài thời gian tương ứng với mức độ thứ i
Xét năm 2008:
Ngày thực hiện Ngày kết thúc Số ngày áp dụng Lãi suất cơ bản
1/1/2008 31/1/2008 31 8,25%
1/2/2008 18/5/2008 107 8,75%
19/5/2008 10/6/2008 21 12%
11/6/2008 20/10/2008 132 14%
21/10/2008 4/11/2008 15 13%
5/11/2008 20/11/2008 16 12%
21/11/2008 4/12/2008 14 11%
5/12/2008 21/12/2008 17 10%
22/12/2008 31/12/2008 12 8.5%
( Nguồn : Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Áp dụng công thức tính mức độ trung bình theo thời gian ta có =11,247%.
Xét năm 2009:
Ngày thực hiện Ngày kết thúc Số ngày áp dụng Lãi suất cơ bản
1/1/2009 31/1/2009 31 8,75%
1/2/2009 31/11/2009 303 7%
1/12/2009 31/12/2009 31 8%
( Nguồn : Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Áp dụng công thức tính mức độ trung bình theo thời gian ta có =7,234%.
Xét năm 2010:
Ngày thực hiện Ngày kết thúc Số ngày áp dụng Lãi suất cơ bản
1/1/2010 4/11/2010 308 8%
5/11/2010 31/11/2010 303 9%
( Nguồn : Ngân hàng nhà nước Việt Nam)
Áp dụng công thức tính mức độ trung bình theo thời gian ta có = 8,156%.
b) Dữ liệu vốn đầu tư và GDP giai đoạn 2000-2010: Với nguồn từ Tổng Cục Thống
Kê ta có bảng dữ liệu sau:
Năm I GDP
2000 151183 442055,6
2001 170496 481627,1
2002 200145 538024,2
2003 239246 632925,9
2004 290927 753696,9
2005 343135 857837,5
2006 404712 1004248
2007 532093 1310574
2008 616735 1064437
2009 708826 1671759
2010 830278 1944445
( Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam niên giám 2010)
Mối quan hệ giữa lãi suất cơ bản, quy mô vốn đầu tư và GDP :
Nhập biến I, GDP, R
Sử dụng công thức:
Genr lggdp = log(gdp)
Genr lgi=log(i)
Genr lgr =log(r)
Nhằm tạo ra các biến lgr, lgi, lggdp.
Kiểm định dừng các biến lgr, lgi, lggdp. Ta nhận thấy các biến lgr,lggdpvà R đều là
những chuỗi dừng:
Chọn Quick / Estimate Equation
Nhập công thức : lgi C lggdp lgr
Ta có bảng dữ liệu sau:
Ta có kết quả hồi quy:
lgi =-4,042222+ 1,102501 lggdp +0,833910 lgr
Nhận xét:
Ta xét ở đây là lãi suất cơ bản do vậy tác động của nó đến đầu tư không mạnh
bằng lãi suất cho vay và lãi suất tiết kiệm bởi lẽ lãi suất cơ bản được ban bố bởi ngân
hàng trung ương nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Do vậy nó tác
động đối với nền kinh tế theo hai mặt khác nhau: Một là nhằm thúc đẩy nền kinh tế do
vậy đầu tư sẽ được mở rộng nhưng đồng thời cũng gây khó khăn cho nền kinh tế bởi lãi
suất cơ bản khi được ban bố, các ngân hàng thương mại sẽ dựa vào ra đưa ra mức lãi suất
cho vay và lãi suất tiết kiệm. Nó sẽ tác động đến đầu tư theo hướng nghịch biến. Như vậy
lãi suất cơ bản vừa tác động nghịch biến vừa tác động thuận chiều với đầu tư. Dựa vào
mô hình trong giai đoạn 2000-2010, lãi suất cơ bản có tác động cùng chiều với đầu tư.
- Dựa vào bảng kết quả trên kiểm định Durbin-Watson stat = 2,0788, do vậy 3 biến
trên không có sự tự tương quan bậc nhất.
- Hệ số R-squared =0,993092 rất cao
- Hệ số P_value ứng lgGDP =0,0000 và lgR= 0,0004 rất nhỏ, cả hai đều bé hơn 0,5
do vậy cả 2 biến trên đều có ý nghĩa thống kê.
Ta có đồ thị biểu diễn sự tự tương quan của các biến:
2) Đánh giá tác động của lãi suất đến quy mô vốn đầu tư chung trong giai đoạn
2000-2010.
Nhằm đánh giá một cách toàn diện sự tác động của lãi suất đến quy mô vốn đầu tư chung
trong giai đoạn 2000-2010. Ta chia ra làm hai giai đoạn :
2.1) Giai đoạn 2000-2007:
- Bắt đầu từ tháng 8/2000 trần lãi suất bắt đầu bị phá bỏ thay thế trần lãi suất bằng
một cơ chế mới trong đó lãi suất cho vay ngoại tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi
suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố. Từ lúc này các ngân hàng bắt đầu ấn định
mức lãi suất trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng. Chính sách này có nhiều tích cực
nhưng đối tượng nông dân và doanh nghiệp các vùng nông thôn khó tiếp cận được với
những khoản vốn vay của ngân hàng bỏi việc đến các vùng nông thôn đòi hỏi chi phí cao
trong khi các tổ chức tín dụng lại bị khống chế bởi trần lãi suất cho vay. Do vậy các
doanh nghiệp các hộ nông dân phải đi vay với lãi suất gấp 4 lần lãi suất ngân hàng. Chính
vì thế quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế chưa thực sự được mở rộng. Đến tháng
6/2002 lãi suất được tự do hóa hoàn toàn trên cơ sở các ngân hàng tự thẩm định và
thương lượng với khách hàng.Với việc chính thức tự do hóa lãi suất thì lãi suất cơ bản do
ngân hàng nhà nước công bố chỉ có tính chất tham khảo. Lãi suất tiền gửi tiếp tục gia
tăng đồng thời lãi suất cho vay của các ngân hàng đã ngay lập tức nhích lên. Các ngân
hàng thương mại tùy vào mức độ rủi ro của các dự án vay vốn mà ấn định các mức lãi
suất khác nhau. Hoạt động lãi suất phản ánh cung cầu vốn vay trên thi trường. Các đối
tượng vay như hộ gia đình, nông dân hay các doanh nghiệp nhỏ không còn bị loại ra khỏi
cuộc chơi như trước đây. Trong nền kinh tế nhiều đối tượng hơn được tiếp cận với quy mô vốn
của các ngân hàng, do đó quy mô vốn vay của nền kinh tế được mở rộng.
Ta có bảng số liệu sau:
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Lãi suất cơ bản
7.2 8 7.2 7.50 7.5 7.80 8.25 8.25
Tốc độ tăng trưởng(%) 6,7 6,9 7,08 7,24 7,79 8,4 8,17 8,5
Vốn đầu tư/GDP(%) 34,2 35,4 37,2 37,8 38,6 40 40,3 40,6
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam và tổng cục tống kê niên giám 2007
- Trong giai đoạn 2000-2007, tốc độ tăng trưởng tăng mạnh từ 6,7% vào năm 2000
mà đến năm 2007, tốc độ tăng trưởng đã tăng 26,7% so với năm 2000. Lý do của sự tăng
nhanh quá trình tăng trưởng này là do tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP tăng mạnh. Vốn đầu tư
trong giai đoạn này đã đóng góp một phần lớn cho GDP Việt Nam.
- Năm 2002, lãi suất cơ bản giảm 0.8% so với 2001 đây là một nguyên nhân kích
thích tăng tỷ lệ đầu tư từ 35.4% năm 2001 đến 37.2% năm 2002. Vào năm 2002, ước đạt
180,4 nghìn tỷ đồng, bằng 104% kế hoạch năm và tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước,
trong đó vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước đạt 24,2 nghìn tỷ đồng, bằng 105,1% kế
hoạch năm và chỉ bằng 93,1% năm 2001. Đầu tư nước ngoài từ đầu năm đến 21/12/2002
đã có 669 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 1333,2 triệu USD;
So với cùng kỳ năm trước tăng 32,4% về số dự án, nhưng giảm 41,1% về vốn đăng ký.
Do vậy qui mô vốn đăng ký bình quân một dự án được cấp giấy phép năm nay chỉ còn
khoảng 2 triệu USD, thấp xa so với qui mô 4,5 triệu USD của năm 2001. ngành công
nghiệp và xây dựng chiếm 81,8% và số dự án và 80,8% về vố đăng ký.
- Từ giữa năm 2004 đến nay cùng xu thế tăng lãi suất của các nền kinh tế lớn trên
thế giới, đặc biệt là Mỹ và xu thế kiềm chế lạm phát, lãi suất của các ngân hàng trong
nước không ngừng tăng. Và đến năm 2005, lãi suất tiền gửi và huy động vốn nội tệ của
các ngân hàng thương mại trong năm 2005 bình quân tăng 0,48%/năm - 0,63%/năm của
mỗi kỳ hạn so với năm 2004. Lãi suất trung bình là 8,4%/năm và tăng đều qua các tháng
trong năm 2005. Nguyên nhân chính buộc các ngân hàng phải lao vào cuộc đua, nếu
không sẽ thành kẻ chậm chân. Tăng trưởng huy động vốn từ đầu năm tới nay trong toàn
hệ thống ngân hàng, đặc biệt khối quốc doanh, luôn chậm hơn tăng dư nợ tín dụng. Tình
hình càng khó khăn hơn khi theo quy luật, huy động vốn những tháng cuối năm tiếp tục
tăng chậm trong khi nhu cầu tín dụng lại lên cao.
- Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào tổ chức Thương mại
thế giới (WTO). Trong thời gian tới, các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài được
phép hoạt động tại nước ta và sẽ cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng như các ngân
hàng trong nước. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các tài chính tín dụng nước
ngoài với các tài chính tín dụng trong nước. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng
thương mại trong nước cần phải tổ chức cung ứng các dịch vụ tốt, cần hỗ trợ nhau - thực
hiện tốt các cam kết: trước hết là cam kết đồng thuận, thực hiện các mức lãi suất là cách
để chúng ta tự bảo vệ nhau trước các đối thủ nước ngoài.Thêm vào đó, phần lớn các ngân
hàng tham gia trong cuộc chạy đua là những gương mặt mới trên thị trường, hoặc qui mô
vốn và thương hiệu chưa thực sự mạnh. Theo đó, lãi suất tăng là một công cụ hữu hiệu
cho các ngân hàng thu hút vốn về phía mình.
- Đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì các mức lãi suất chủ đạo; áp
lực tăng lãi suất trên thị trường thế giới cũng giảm bớt, đặc biệt là lãi suất USD.Nhưng lãi
suất vẫn tăng, mở đầu năm kinh doanh mới, nhiều ngân hàng cổ phần lần lượt điều chỉnh
lãi suất huy động, tạo nên một áp lực cạnh tranh mới với những sắc thái mới. Mở hàng lãi
suất năm nay là Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) với quyết định tăng lãi suất “Tiết
kiệm điện tử”, áp dụng ngay từ ngày đầu tiên của năm (1/1/2007). Lãi suất “Tiết kiệm điện
tử” tiền VND của Techcombank tăng mạnh nhất ở kỳ hạn 12 tháng với mức tăng từ từ
0,12%/năm đến 0,17%/năm, lên 9,42%năm, 9,45%/năm và 9,48%/năm, tương ứng với các
mức tiền gửi dưới 50 triệu VND, 50-200 triệu VND và từ 200 triệu VND. Nhưng cuộc đua
tăng lãi suất mới chỉ thực sự khởi tranh trong vài ngày trở lại đây, với sự tham gia của một
loạt ngân hàng cổ phần. Nhưng nhìn chung, lãi suất năm 2007 không có biến động nhiều
giữa các tháng trong năm. Lãi suất vẫn duy trì ở mức 9.5%/năm.( Nguồn: vneconomy.vn)
- Trong năm 2007, vốn đầu tư phát triển so với GDP đạt 40,6%, là tỷ lệ thuộc loại cao
nhất từ trước tới nay, cũng thuộc loại cao nhất so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới (có chăng chỉ thấp thua tỷ lệ trên 44% của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - tỷ lệ
góp phần làm cho kinh tế nước này liên tục trong nhiều năm tăng trưởng hai chữ số). Đáng
lưu ý, trong khi tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng vốn đầu tư
phát triển tiếp tục giảm xuống, thì tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước
tăng lên (đạt 38%); hiệu quả đầu tư của khu vực này lại cao gấp đôi khu vực kinh tế nhà
nước. Vốn đầu tư nước ngoài đạt kỷ lục mới ở cả ba nguồn. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp đạt
được sự vượt trội cả về tổng số vốn đăng ký mới và bổ sung (20,3 tỉ); cả về quy mô bình
quân một dự án (trên 14 triệu USD/dự án); cả về cơ cấu đầu tư vào nhóm ngành dịch vụ; cả
về lượng vốn thực hiện (4,6 tỉ USD). Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức cuối năm 2006
(cam kết cho năm 2007) đạt mức kỷ lục (4,4 tỉ USD); cuối năm 2007 (cam kết cho năm
2008) còn đạt kỷ lục cao hơn (trên 5,4 tỉ USD). Lượng vốn giải ngân năm nay đạt 2 tỉ USD,
vừa vượt kế hoạch, vừa đạt cao nhất từ trước tới nay. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp năm nay
ước đạt 5,6 tỉ USD, cao gấp 4,3 lần năm trước.
2.2) Giai đoạn 2008-2010:
- Giai đoạn 2008-2010 là giai đoạn mà Ngân hàng nhà nước Việt Nam có sự thay đổi
mạnh mẽ về lãi suất. Ta có bảng số liệu sau:
Năm 2008 2009 2010
Tốc độ tăng trưởng(%) 8,7 5,3 6,78
Vốn đầu tư/GDP(%) 57,4 42,4 42,7
(Nguồn: Niên giám thống kê 2010)
Năm 2008:
- Năm 2008 có thể được coi là năm của lãi suất khi lãi suất biến động trái chiều với
một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. Diễn biến lãi suất trong năm 2008 gồm 2 giai
đoạn chính: Cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc
đua khác theo chiều hướng ngược lại, đua giảm lãi suất, dù mức độ quyết liệt kém hơn.
Những sự kiện lớn đối với diễn biến lãi suất năm 2008 diễn ra như sau:
+ 6 tháng đầu năm 2008, lãi suất tăng mạnh: Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các
ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất, khởi đầu là các ngân hàng thương mại ngoài quốc
doanh. Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2008 là 18,5%. Hiện tượng người
dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân hàng có lãi suất cao xuất hiện.
Đây là lý do để có ngân hàng buộc phải cấp tốc điều chỉnh lãi suất. Có nhiều nguyên nhân
khác nhau:
Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường do
lạm phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ làm
khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các ngân hàng không muốn đẩy mạnh cho
vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động.
Chính vì thế người dân thích gửi tiết kiệm ngân hàng hơn là để tiền đầu tư. Trong khi các
doanh nghiệp phải chịu một mức lãi suất cao gây khó khăn trong việc mở rộng quy mô sản
xuất, đầu tư.
+ 6 tháng cuối năm lãi suất giảm mạnh: Bắt đầu từ tháng 7 trở đi, các ngân hàng lại
bước vào cuộc đua lãi suất mới nhưng với xu hướng ngược lại so với 6 tháng đầu năm.
Cuộc đua ban đầu chỉ mới nhích nhẹ từ 18,5% xuống còn 17,5% và bắt đầu giảm mạnh từ
tháng 10 năm 2008.
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do các ngân hàng đã giữ được tính thanh khoản
của dòng tiền, đảm bảo được độ an toàn cao và tính rủi ro thấp. Mặt khác, sau 6 tháng đã
huy động được một lượng tiền khổng lồ về thì nay các ngân hàng giảm lãi suất cho vay để
kích thích người tiêu dùng trong hoạt động sản xuất cũng như cho các doanh nghiệp vay để
đầu tư. Ngân hàng nào cũng chỉ muốn cho vay khách hàng tốt, nhưng khách hàng tốt thì
chỉ vay khi lãi suất ở mức hợp lý (chỉ có khách hàng xấu là vay bằng mọi giá). Vì vậy để
có vốn rẻ khuyến khích nhu cầu vay của doanh nghiệp tốt thì phải hạ lãi suất huy động.
Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy thoái lượng vốn đầu tư thấp hơn cùng kỳ
năm 2007.
- Trong năm 2008, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ước
tính đạt 637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP. Với việc thực hiện nghiêm túc chủ
trương cắt giảm đầu tư công, nhất là ở các dự án kém hiệu quả từ nửa cuối năm 2008, vốn
đầu tư từ khu vực Nhà nước trong năm qua đã dừng ở mức 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm
28,9% tổng vốn và giảm 11,4%. Tuy nhiên, vốn từ khu vực ngoài Nhà nước đạt 263
nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% tổng vốn và tăng 42,7%; từ khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài 189,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 29,8% tổng vốn và tăng 46,9% so với năm 2007
nên đã kéo tổng vốn đầu tư năm 2008 so với năm 2007 tăng 22,2%. (Nguồn:
Vneconomy)
Năm 2009:
- Ngày 12/3/2009 của các ngân hàng thương mại gây chú ý khi công bố áp dụng
mức lãi suất huy động cao nhất 8,7%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất các kỳ hạn lần
lượt được điều chỉnh tăng, lên mức 8%/năm cho kỳ hạn trên 12 tháng, 7,32%/năm cho kỳ
hạn 3 tháng, và các kỳ hạn 6 - 9 - 12 tháng lần lượt nhận được mức lãi xuất 7,44%/năm,
7,524%/năm và 8,004%/năm.
- Từ tháng 5 đến tháng 7/2009, làn sóng đua tăng lãi suất huy động Việt nam đồng
(VND) ở các ngân hàng thương mại chưa có dấu hiệu dừng do nhu cầu hấp thụ vốn của
nền kinh tế tăng cao, lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức trần cho vay. Nhiều
ngân hàng thương mại chỉ trong 2 tuần đã tăng lãi suất tiền gửi 2 đến 3 lần. Trong tuần
đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ. Ở khối ngân hàng thương mại
Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng:
7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối ngân hàng thương mại cổ
phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng
có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Đến tuần cuối của
tháng 5, làn sóng tăng lãi suất huy động bằng VND tăng khá mạnh.
- Chính vì sự tăng mạnh của lãi suất mà trong năm 2009, với mục tiêu ưu tiên là
ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong năm qua Chính phủ đã tập
trung thực hiện các gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ
thực hiện các dự án, công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá
thực tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8%
GDP, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 245 nghìn tỷ đồng, chiếm 34,8% tổng vốn và tăng
40,5%; khu vực ngoài Nhà nước 278 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,5% và tăng 13,9%; khu
vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7% và giảm 5,8%.
Nghìn tỷ đồng Cơ cấu (%)
So với cùng kỳ năm
trước(%)
Tổng số 704,2 100,0 115,3
Khu vực nhà nước 245 34,8 140,5
Khu vực ngoài nhà
nước
278 39,5 113
Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài
181,2 25,7 94,2
Nguồn dữ liệu : Tổng cục thống kê niên giám 2009.
- Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2009 đạt thấp do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế thế giới. Tính đến ngày 15/12/2009, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt
21,5 tỷ USD, giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm: Vốn đăng ký của 839 dự án
được cấp phép mới đạt 16,3 tỷ USD (giảm 46,1% về số dự án và giảm 75,4% về vốn);
vốn đăng ký bổ sung của 215 dự án được cấp phép từ các năm trước đạt 5,1 tỷ USD,
giảm 1,7%. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2009 ước tính đạt 10 tỷ USD,
giảm 13% so với năm 2008.
- Trong năm 2009, lĩnh vực kinh doanh bất động sản thu hút sự quan tâm lớn nhất của các
nhà đầu tư nước ngoài với 7,4 tỷ USD vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới, chiếm
45,1% tổng vốn đăng ký mới; tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống 5 tỷ USD, chiếm
30,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo với 2,2 tỷ USD, chiếm 13,6%.
- Năm 2009 cả nước có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư
nước ngoài được cấp phép mới, trong đó Quảng Nam có vốn đăng ký dẫn đầu với 4,2 tỷ
USD, chiếm 25,4% tổng vốn đăng ký mới; Bà Rịa-Vũng Tàu 2,9 tỷ USD, chiếm 17,5%;
Đồng Nai 2,3 tỷ USD, chiếm 14,1%; Bình Dương 2,2 tỷ USD, chiếm 13,2%; Phú Yên
1,7 tỷ USD, chiếm 10,3%.
Năm 2010:
- Vào năm 2010, sau khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện đồng bộ, quyết liệt nhiều
giải pháp nhằm ổn định và giảm mặt bằng lãi suất, lãi suất huy động và cho vay VND từ
đầu tháng 4/2010 đã giảm, tuy mức giảm chưa mạnh vì tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy
động vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng dư nợ tín dụng.
- Lãi suất cho vay VND bình quân thực tế của 4 ngân hàng thương mại nhà nước và
7 ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô lớn khoảng 13,3%; Lãi suất cho vay ngắn
hạn phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu ở mức 12,5% - 13%/năm, cho
vay trung và dài hạn khoảng 14%/năm (tương ứng với lãi suất cùng kỳ năm 2006, 2007).
Lãi suất tiền gửi USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng giảm 1,3-3,5%/năm và duy
trì ở mức 0,2-1%/năm; lãi suất tiền gửi USD của dân cư và lãi suất cho vay USD tăng nhẹ
so với cuối năm 2009.
- Vốn đầu tư xã hội thực hiện năm 2010 theo giá so sánh 1994 tăng 64,5% so với
năm 2006, bình quân mỗi năm thời kỳ 2006-2010 vốn đầu tư tăng 13,3%. Vốn đầu tư khu
vực Nhà nước thực hiện năm 2010 tăng 42% so với năm 2006, bình quân mỗi năm thời
kỳ 2006-2010 tăng 9,3%. Vốn đầu tư khu vực ngoài Nhà nước thực hiện năm 2010 tăng
47,6% so với năm 2006, bình quân mỗi năm thời kỳ 2006-2010 tăng 11,4%. Vốn đầu tư
khu vực FDI thực hiện năm 2010 tăng 157,5% so với năm 2006, bình quân mỗi năm thời
kỳ 2006-2010 tăng 25,7%. (Nguồn:www. Economy.vn)
- Đầu tư nước ngoài năm 2010 giảm 18 dự án và tăng 54,9% về vốn đăng ký so với
năm 2006. Bình quân mỗi năm trong thời kỳ 2006-2010 có 1253 dự án đầu tư nước ngoài
được cấp phép với vốn đăng ký bình quân 29,4 tỷ USD
3) Các giải pháp đề xuất:
3.1) Các giải pháp kiến nghị liên quan đến lãi suất:
3.1.1) Điều chỉnh lãi suất hợp lý để thúc đẩy đầu tư.
- Trước mắt là phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị
trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai
trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân ngân hàng trung ương của quốc gia đó
phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm
phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì
vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản - làm cơ sở định hướng chuẩn mực
cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực
hiện trong thời gian này.
- Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như
lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị
trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của
các thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để
đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.
- Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay làm
nảy sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của lãi suất
thực huy động có thể làm kỳ vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi
suất trần trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.
3.1.2) Phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng:
- Hiệu quả của các tổ chức tín dụng cũng là hiệu quả từ sản xuất kinh doanh của
khách hàng, hiệu quả của nền kinh tế vì vậy cần:
+ Củng cố hoàn thiện và đổi mới hệ thống ngân hàng: Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng
và các tổ chức tín dụng theo xu hướng tăng quy mô các ngân hàng quốc doanh ngang tầm
với các ngân hàng trong khu vực. Xây dựng một cơ chế liên kết, phối kết hợp các chủ thể
tham gia vào thị trường tài chính – tiền tệ. Tạo cho ngân hàng trung ương một vị thế độc
lập tương đối để đủ sức kiểm soát sự biến động liên tục của thị trường.
+ Chú trọng bồi dưỡng đào tạo lại đội ngũ cán bộ tín dụng đủ sức thực hiện nhiệm vụ.
+ Tăng tỷ trọng cho vay kinh tế tư nhân, tăng tỷ trọng cho vay lĩnh vực ngành có các
sản phẩm được đánh giá là có lợi thế so sánh và sức cạnh tranh cao
+ Quan tâm phát triển quỹ tín dụng nhân dân ở những nơi có điều kiện, có khả
năng, phát triển.
+ Trong quản trị và điều hành lãi suất cần đảm bảo tính khoa học và thống nhất
trong toàn hệ thống.
+ Cần một ngân hàng trung ương đủ mạnh, với một quyết định thay đổi lãi suất của
mình, Ngân hàng Trung ương Mỹ hay Châu Âu đã tác động đến cả nền kinh tế thế giới.
Ngân hàng Trung ương Singapore, Thái Lan hay Malaysia tác động ngay lên nền kinh tế
của họ, thậm chí có thể ảnh hưởng sang nước láng giềng. Mục tiêu quan trọng nhất của
các ngân hàng thương mại là lợi nhuận. Việc chạy đua lãi suất của họ là điều đương
nhiên. Những cuộc đua như vậy không thể tránh được bằng thỏa thuận lãi suất. Hơn nữa,
làm như vậy sẽ vi phạm luật cạnh tranh. Giải pháp hữu hiệu nhất là nâng cao năng lực và
khả năng điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước sao cho mỗi khi họ đưa
ra các quyết định của mình lập tức có tác động ngay đến nền kinh tế. Một ngân hàng
trung ương mạnh có tính độc lập cao so với chính phủ là một trong những nền tảng cơ
bản nhưng cũng là công cụ hữu hiệu để giảm thiểu những tác động tiêu cực của kinh tế
thị trường.
3.1.3) Giải pháp về cơ chế điều hành lãi suất
- Đối với Ngân hàng Nhà nước cần tập trung vào một số nhiệm vụ: Kịp thời cho vay tái
cấp vốn, tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng để tăng khả năng thanh khoản cho hệ
thống ngân hàng, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, góp phần thực hiện
được mục tiêu tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho việc phát triển ổn định của nền kinh tế
trong giai đoạn 2011-2020.
- Tiếp tục có những giải pháp hỗ trợ cụ thể, phù hợp, trước hết đối với các tổ chức
tín dụng nhỏ, chưa đáp ứng đủ các quy định vay tái cấp vốn, tái chiết khấu bình thường,
nhằm bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động hệ thống ngân hàng một cách an toàn và
bền vững. Đồng thời kiểm soát chặt chẽ việc tăng lãi suất huy động vốn của các tổ chức
tín dụng này.
- Chủ động điều hành tỷ giá hối đoái với biên độ và bước đi hợp lý, bảo đảm tạo
được điều kiện cho thị trường ngoại tệ vận hành ổn định, ngăn ngừa hoạt động đầu cơ
ngoại tệ; thường xuyên theo dõi và có những biện pháp quản lý phù hợp các giao dịch
ngoại hối, các luồng vốn vào-ra, kịp thời hỗ trợ và chỉ đạo các ngân hàng thương mại
đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu những vật tư, hàng hóa
thiết yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng.
- Thực hiện cơ chế cạnh tranh hoàn hảo đối với các ngân hàng thương mại, trên nền
tảng lãi suất định hướng của ngân hàng trung ương. Các ngân hàng thương mại căn cứ
vào diễn biến thực tế của thị trường mà định mức lãi suất phù hợp cho mình. Việc tự do
hóa cạnh tranh sẽ dẫn đến sự phân hóa giữa các ngân hàng thương mại song đó là quy
luật tất yếu của cơ chế thị trường. Ngoài ra chúng ta cũng phải có biện pháp để hạn chế
độc quyền và khuyến khích tạo dựng được vấn đề đạo đức kinh doanh.
3.2) Giải pháp tăng hiệu quả đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn:
3.2.1) Sử dụng vốn ngân sách nhà nước:
- Về thu ngân sách Nhà nước, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi các chính sách
thuế hiện hành theo hướng mở rộng đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế, giảm mức
huy động để khuyến khích phát triển sản xuất và dịch vụ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hoàn thiện quy trình, thủ tục thuế, hải quan phù hợp với quy định của WTO và yêu cầu
đơn giản, minh bạch nhằm cải thiện môi trường đầu tư , kinh doanh.
- Về chi ngân sách Nhà nước, tiếp tục cơ cấu lại chi ngân sách Nhà nước và tăng
cường hiệu quả chi, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, đặc biệt
là hệ thống đường sá, cầu cống; bên cạnh nguồn ngân sách Nhà nước, thực thi các giải
pháp tài chính hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển hệ thống điện, nước, xử
lý môi trường...; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, nhất là đào tạo phổ cập tiểu học và
trung học, đào tạo nghề; đầu tư cho nghiên cứu khoa học – công nghệ; đầu tư phát triển
khu vực nông nghiệp, nông thôn.
- Để quản lý nguồn nguồn ngân sách và tăng hiệu quả các dự án đầu tư từ vốn ngân
sách cần thắt chặt việc cho vay tại khu vực nhà nước. Với những dự án đầu tư công cộng
không thực sự cấp bách và hiệu quả đầu tư còn nghi ngờ, nên cắt bỏ, hoặc tạm hoãn thời
hạn thực hiện. Loại bỏ các dự án đầu tư không hiệu quả, giãn tiến độ các dự án chưa khởi
công hoặc mới khởi công. Giải pháp quan trọng là kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu công,
bớt tối đa những khoản chi không hợp lý.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài
sản của nhà nước ở các đơn vị sử dụng ngân sách. Công khai kết quả thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán và kết quả xử lý của từng cấp, từng đơn vị, các quỹ tài chính. Thực hiện
nghiêm túc việc kiểm toán bắt buộc đối với các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty và doanh
nghiệp nhà nước.
- Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tập trung cải cách thể chế, nâng cao chất lượng
và hiệu lực của quá trình xây dựng và thực thi chính sách và pháp luật. Cải thiện môi
trường kinh doanh, cơ cấu lại đầu tư của Nhà nước, cải cách khu vực doanh nghiệp nhà
nước theo hướng xoá bỏ bao cấp, kiểm soát hiệu quả sự lạm dụng vị thế độc quyền hoặc
khống chế thị trường, thực hiện có hiệu lực và hiệu quả quyền chủ sở hữu tại các doanh
nghiệp nhà nước, quan tâm hỗ trợ các vùng kém phát triển nhằm thu hẹp khoảng cách
giữa các vùng.
- Thắt chặt việc cho vay tại khu vực nhà nước. Nguồn vốn đầu tư từ ngân hàng nhà
nước luôn có vai trò quan trọng và quyết định trong phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước. Vì vậy, nguồn vốn này cần được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Việc giám
sát chặt chẽ hoạt động đầu tư từ vốn ngân sách là trách nhiệm của các cơ quan chức năng
nhằm bảo đảm sự lành mạnh của nền tài chính quốc gia.
3.2.2) Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA
- Để thu hút nguồn vốn vay ODA đòi hỏi phải tăng cường tương ứng khả năng sử
dụng vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Không bố trí hoặc hạn chế bố trí nguồn vốn vay
ODA cho những ngành, lĩnh vực, địa phương giải ngân chậm, sử dụng vốn vay nước
ngoài không hiệu quả, đồng thời, tăng mức phân bổ nguồn vốn vay ODA cho những
ngành, lĩnh vực và địa phương sử dụng nguồn vốn có hiệu quả và bảo đảm tiến độ thực
hiện dự án.
- Đồng bộ hoá khung pháp lý, nghiên cứu và chỉnh sửa các quy định và nghị định
liên quan đến sử dụng và quản lý nguồn vốn ODA. Tạo sự hài hoà và hoàn chỉnh các thủ
tục hành chính giữa các nhà tài trợ và về phía chính phủ Việt Nam.
- Phát triển nguồn nhân lực cho dự án sử dụng nguồn vốn ODA, xây dựng các quy
chuẩn và hướng tới chuyên môn hoá và chuyên nghiệp hoá các ban quản lý dự án.
- Các ngành, các địa phương rà soát lại các công trình sử dụng vốn ODA do mình
quản lý để trình chính phủ, thủ tướng chính phủ ban hành các cơ chế chính sách nhằm
tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn ODA, đào tạo cán bộ quản lý dự án theo
hướng chuyên nghiệp và bền vững.
- Cần thực hiện triệt để việc chống tham nhũng. Bên cạnh Luật chống tham nhũng,
Nhà nước vẫn cần phải xây dựng một cơ chế, một thể chế chặt chẽ. Chẳng hạn, để thực
hiện cơ chế công khai minh bạch, Chính phủ cần phải quy định rõ thế nào là thông tin
mật và không mật, để công khai cho người dân giám sát. Nếu không có quy định này thì
con số nào cũng được cho là mật, sẽ là một ngáng trở lớn cho việc công khai minh bạch.
3.2.3) Thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vồn FDI
- Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có thể xem đây là một kênh tạo lập vốn
mới nhiều tiềm năng, được chi phối bởi Luật đầu tư nước ngoài, nguồn vốn này có tác
động tích cực đến đầu tư phát triển thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Do vậy, trước hết cần xây dựng chiến lược thu hút nguồn vốn này:
- Xác định rõ lộ trình, bước đi, lĩnh vực đầu tư, cơ chế ưu đãi, quy định các lệ phí và
phí dịch vụ, điều kiện cung ứng điện nước, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin
đồng thời hoàn thiện các thể chế có liên quan trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, thương mại.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp nói chung và luật đầu tư nói riêng một cách đồng
bộ nhằm tạo cơ chế thông thoáng và môi trường đầu tư hấp dẫn.
- Rà soát thực trạng của các dự án trên từng địa bàn để phân loại và có chính sách
hỗ trợ phù hợp. Các dự án trọng điểm, có tác động đến địa phương và khu vực sẽ được ưu
tiên hỗ trợ trước.
- Cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các doanh
nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công
tác trả nợ. Nhưng không nên quy định cứng nhắc khiến cho các biện pháp ưu đãi có tác động
ngược chiều trở thành các rào cản của đầu tư.
- Từng bước hoàn thiện, chấn chỉnh lại bộ máy quản lý và các tổ chức xét duyệt
nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài
thực hiện đúng theo luật pháp của Việt Nam , vừa tạo điều kiện cho việc quản lý dự án
một cách chặt chẽ, có hiệu quả kinh tế cao.
- Chủ động chấn chỉnh và hoàn thiện công tác quản lý kinh tế - tài chính trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
chủ động phát triển nhưng phải quản lý và kiểm soát chặt chẽ được các hoạt động này
nhằm đảm bảo an toàn xã hội, an ninh kinh tế và chủ quyền quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1) David Begg, Stanley Fisher, Rudiger Dornbusch;2008; economics; NXB Thống
kê.
2) TS. Bùi Hữu Phước, Lê Thị Lanh, Lại tiến Dĩnh, Phan Thị Như Hiếu - Trường Đại
học kinh tế TP.HCM. – (2008),”Tài chính doanh nghiệp”, NXB Lao Động Xã Hội.
3) Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Hội đồng Trung ương chỉ
đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2005.
4)
5)
6)
7)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- moi_quan_he_giua_lai_suat_va_quy_mo_von_dau_tu_van_dung_phan_tich_danh_gia_tinh_hinh_dau_tu_cua_viet.pdf