Sáu là, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
* Năng lực tài chính
Để nâng cao năng lực tài chính cho doanh nghiệp trước hết cần lành mạnh hóa tình hình
tài chính của doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng. Thúc đẩy sự phát triển của thị
trường vốn thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, quỹ
đầu tư, thị trường chứng khoán. Phát triển các công cụ tài chính cần thiết, tạo hàng hóa
như: cổ phiếu, trái phiếu công ty thông qua Trung tâm giao dịch chứng khoán để đáp
ứng nhu cầu của các DNVN. Khuyến khích và phát triển các định chế tài chính trung
gian như: các công ty đầu tư tài chính, công ty thuê mua tài chính để tăng việc huy động
và luân chuyển vốn trên thị trường.
* Năng lực công nghệ
Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, khen thưởng kịp thời để khuyến khích các hoạt
động nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào đầu tư nâng cao năng suất lao
động và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp và
trường đại học trong vấn đề nghiên cứu các giải pháp công nghệ và công nghệ cơ bản
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp ứng dụng vào hoạt động đầu tư ở Campuchia.
* Năng lực quản lý
DNVN cần lựa chọn người lãnh đạo doanh nghiệp thực sự là người quản lý năng động,
quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, có tầm nhìn chiến lược, chịu khó nghiên cứu nắm bắt
những vấn đề mới, am hiểu luật lệ, thị trường Campuchia Nếu trước đây doanh
nghiệp có thể chọn người thân, người cùng ê kíp, cấp trên gửi gắm thì bây giờ khi đầu
tư sang Campuchia bắt buộc doanh nghiệp phải chọn người thực sự có năng lực bởi nếu
không doanh nghiệp sẽ không cạnh tranh được với các nhà đầu tư nước ngoài khác tại
Campuchia. Đề bạt, bổ nhiệm người lãnh đạo doanh nghiệp cần coi trọng tiêu chí “Tâm
– Tài – Trí – Tầm”.
Bảy là, tăng cường mối quan hệ Chính phủ và Doanh nghiệp.
Chính phủ là người nắm thông tin đầu tiên về các diễn biến trong hoạt động đầu tư, hợp
tác kinh tế Việt Nam – Campuchia. Các cuộc đàm phán song phương, các Hiệp định,
thỏa thuận được ký kết giữa Chính phủ hai nước qua kênh chính phủ và phi chính phủ
cần được truyền đạt thông tin và định hướng đến doanh nghiệp. Ngược lại, doanh
nghiệp hỗ trợ chính phủ trong việc phản ánh kịp thời những tích cực và hạn chế của
pháp luật, chính sách đầu tư đã ban hành để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với thực
tiễn. Doanh nghiệp cần thông tin cho chính phủ những vướng mắc nảy sinh trong quá
trình đầu tư từ phía Campuchia để có thể trao đổi, đàm phán giải quyết tránh thiệt hại
kinh tế cho cả hai bên, làm chậm tiến độ thực hiện dự án đầu tư.
10 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 679 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đầu tư trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam vào campuchia - Thực trạng và giải pháp - Nguyễn Văn Thắng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 01(17)/2011: tr. 126-135
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
VÀO CAMPUCHIA - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
NGUYỄN VĂN THẮNG
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay,
đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment: FDI) là xu thế chung
của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới, vì vậy doanh nghiệp Việt
Nam (DNVN) đẩy mạnh đầu tư trực tiếp vào Campuchia cũng nằm trong xu
thế đó. Bài viết nhằm làm rõ sự cần thiết khách quan, thực trạng và giải pháp
thúc đẩy đầu tư trực tiếp của DNVN vào Campuchia.
1. SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM VÀO CAMPUCHIA
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, đầu tư trực tiếp nước
ngoài là vấn đề mang tính toàn cầu và là xu thế chung của các quốc gia trong khu vực
và trên thế giới. Thực hiện FDI là nhằm mở rộng thị trường, nâng cao trình độ khoa học
công nghệ, năng lực quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh, tận dụng nguồn tài nguyên,
nguyên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, tránh được chế độ giấy phép
xuất khẩu trong nước và tận dụng quota xuất khẩu của nước nhận đầu tư. Ngày nay, tùy
thuộc vào nhu cầu, khả năng và điều kiện của mỗi nước mà hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài cân bằng và song hành với việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào.
Việt Nam đến nay, trải qua hơn 20 năm đổi mới đã và đang thành công trong việc thu
hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI. Song dưới tác động của xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế và với tư cách một thành viên của WTO, nhiều doanh nghiệp Việt Nam
(DNVN) đã mạnh dạn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tại nhiều nước và vùng lãnh thổ trên
thế giới, trong đó có Campuchia.
Việt Nam và Campuchia vốn có quan hệ hữu nghị truyền thống từ lâu đời. Việt Nam và
Campuchia có chung hàng ngàn ki lô mét đường biên giới, sự gần gũi về trình độ phát
triển và lịch sử văn hoá cùng với sự tương đồng về việc lựa chọn mục tiêu, con đường
xây dựng, phát triển đất nước, trở thành một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định,
tiếp tục thiết lập và thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước.
Với bề dày truyền thống hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, quan hệ hợp tác kinh tế
và đầu tư giữa Việt Nam với Campuchia cũng đã được thiết lập từ lâu, mặc dù có nhiều
bước thăng trầm nhưng về cơ bản vẫn phát triển và khá toàn diện. Đặc biệt, trong những
năm gần đây, ngoài những lĩnh vực hợp tác truyền thống, các bên tập trung nhiều hơn
đến hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp của Việt Nam với
Campuchia. Ngay từ năm 1987, khi Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được ban
hành, các DNVN đã tìm kiếm cơ hội đầu tư sang Campuchia, nhất là một số doanh
nghiệp tư nhân của những địa phương có chung đường biên giới với Campuchia. Các
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO CAMPUCHIA...
127
doanh nghiệp này đã thực hiện một số dự án đầu tư trực tiếp theo thoả thuận hợp tác
song phương giữa chính quyền địa phương hai nước [5, tr. 18].
Tuy nhiên, hoạt động đầu tư trực tiếp của DNVN vào Campuchia chưa tương xứng với
mối quan hệ, tiềm năng, lợi thế của mỗi nước trong xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Vì vậy, khuyến khích các DNVN đẩy mạnh đầu tư trực tiếp vào Campuchia
hiện nay là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn [2, tr. 115].
2. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO
CAMPUCHIA
2.1. Những kết quả đạt được
Tính từ tháng 7/1999 đến tháng 5/2010, Việt Nam có 63 dự án đầu tư tại Campuchia,
với tổng vốn đầu tư đăng ký trên gần 900 triệu USD, quy mô trung bình đạt 14,2 triệu
USD/dự án. Trong đó, ngành công nghiệp có 40 dự án, ngành nông nghiệp có 15 dự án,
ngành viễn thông có 7 dự án, ngành du lịch có 1 dự án. Campuchia hiện là một trong 3
quốc gia dẫn đầu trong thu hút vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trong tổng số 50
quốc gia và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư của các DNVN. Hiện tại, Việt Nam đã có
200 doanh nghiệp thành lập chi nhánh, mở văn phòng đại diện, cửa hàng tại Campuchia
[1, tr. 9].
Tổng Công ty Viễn thông Quân đội (Viettel) đầu tư mạng di động trên 200 triệu USD.
Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam (BIDV) đã phát triển 4 lĩnh vực đầu tư vào dịch
vụ ngân hàng, bảo hiểm trên đất bạn. Việc BIDV thành lập ngân hàng tại Campuchia,
"Ngân hàng Đầu tư Phát triển Campuchia" (BIDC) vào tháng 9/2009 từ mua lại, đổi tên
một ngân hàng tư nhân tại Phnompenh và tăng vốn điều lệ lên 70 triệu USD, sau 8
tháng hoạt động, tổng tài sản của BIDC đã đạt hơn 150 triệu USD; hỗ trợ vốn cho doanh
nghiệp đầu tư vào Campuchia trên 30 triệu USD, đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp
Việt Nam tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn để phát triển kinh doanh tại thị trường nước
bạn.
Tổng Công ty Hàng không Việt Nam (VNA) và Ngân hàng Đầu tư Phát triển Việt Nam
(BIDV) thành lập Hãng hàng không Combodia Angkor Air, trong đó Vietnam Airlines
đóng góp 49% vốn, tương đương 100 triệu đôla Mỹ; và phía Campuchia đóng góp 51%.
Thời hạn đầu tư là 30 năm. Hãng Cambodia Angkor Air khai trương dịch vụ bay từ
27/07/2010. Cùng lúc, Ngân hàng BIDV Việt Nam cũng đầu tư 100 triệu đôla vào lĩnh
vực bảo hiểm ở Campuchia.
Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam và Công ty Kasimex CPC có dự án liên doanh
khai thác bauxit với vốn giai đoạn 1 là 20 triệu USD. Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai với
hai dự án trồng 10.000 ha cao su, nhà máy chế biến gỗ 10.000m3 mỗi năm và một mỏ
khai thác chế biến sắt với tổng vốn đầu tư 102,4 triệu USD; Tập đoàn Hoàng Anh Gia
Lai cũng đã tài trợ 4 triệu USD xây dựng Học viện Bóng đá Campuchia khởi công vào
ngày 15/4/2010 tại Phnôm Pênh
NGUYỄN VĂN THẮNG
128
Tập đoàn FPT thông qua Công ty FPT Telecom, đang đệ trình hồ sơ xin cấp phép đầu tư
cho dự án đầu tư, phát triển, khai thác mạng viễn thông tại vương quốc Campuchia, với
tổng vốn đầu tư từ 6 đến 10 triệu USD. Theo đó, FPT Telecom sẽ đầu tư 100% vốn
cung cấp dịch vụ điện thoại di động trước tiên tại 3 thành phố là Phnom Penh; Siemriep
và Sihanoukville. Đồng thời, Công ty cổ phần Hệ thống thông tin FPT cũng vừa khai
trương văn phòng đại diện tại Lào và Campuchia. Các văn phòng này sẽ nghiên cứu mở
rộng triển khai cung cấp dịch vụ tích hợp hệ thống, thông qua hai hệ thống cáp kết nối
quốc tế qua ngõ Việt Nam thông qua hai cửa khẩu Mộc Bài-Tây Ninh và An Giang.
Như vậy, tính đến nay, Tập đoàn FPT đã thành lập văn phòng đại diện tại 9 quốc gia ở
nước ngoài.
Công ty Cổ Phần đường Bình Định và Công ty NILV Việt Nam có dự án liên doanh
Nhà máy sản xuất phức hợp đường, Ethanol và điện; tổng vốn đầu tư xấp xỉ 70 triệu
USD.
Công ty phân bón Star Long An có dự án nhà máy phân bón NPK, công suất 350.000
tấn một năm.
Trong những dự án đầu tư vào Campuchia, bệnh viện Chợ Rẫy - Phnompenh, liên
doanh giữa Saigontourist và Công ty Sokimex, với tổng vốn đầu tư hơn 27 triệu USD,
được xem là dấu ấn của kết quả triển khai thực hiện Hội nghị đầu tư hợp tác kinh tế
Campuchia tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/2009. Bệnh viện được xây
dựng trên diện tích 5 ha, với 500 giường, trang thiết bị khám chữa bệnh theo công nghệ
châu Âu. Bệnh viện sẽ hoàn thành sau 18 tháng thi công. Phát biểu tại Lễ khởi công
bệnh viện Chợ Rẫy - Phnompenh, ngày 15/5/2010, Thủ tướng chính phủ Campuchia
Hun Sen, nói: “Bệnh viện Chợ Rẫy tại Thành phố Hồ Chí Minh là một bệnh viện có
danh tiếng trong khu vực. Hàng ngày có khoảng 250 người Campuchia sang Việt Nam
chữa bệnh, trong đó 2/3 đến bệnh viện Chợ Rẫy. Bản thân tôi, mặc dù đã từng khám
bệnh tại Pháp, Nhật, Singapore... nhưng tôi vẫn chọn Chợ Rẫy làm nơi khám bệnh. Sắp
tới, bệnh viện Chợ Rẫy – Phnompenh đi vào hoạt động, không chỉ nhân dân Campuchia
mà còn cả người nước ngoài đến Campuchia cũng nhận được sự chăm sóc y tế tốt. Lúc
đó họ sẽ càng đến Campuchia đông hơn, khi biết Campuchia đã có một bệnh viện đẳng
cấp quốc tế".
Việt Nam đã có công thư giới thiệu Petro Vietnam với các bộ, ngành Campuchia và
ngày 13/11/2009 bản hợp tác khảo sát, thăm dò dầu khí Lô 15 tại Biển Hồ trên diện tích
6.900km2, thời hạn 30 năm với dầu và 35 năm với khí, giữa Petro Vietnam và đối tác
nước bạn đã được ký kết.
Việt Nam và Campuchia đã liên doanh thành lập Công ty Alumina khảo sát, thăm dò,
đầu tư nhà máy sản xuất alumin trên diện tích 1.254km2.
Việt Nam cũng cam kết đẩy nhanh tiến độ dự án thủy điện Stung Treng công suất
980MW. Trong hành trang kinh doanh ở Campuchia, các doanh nghiệp Việt Nam đặt
lên đầu mục tiêu “giúp bạn cũng là giúp mình”; “win-win” (cùng có lợi, cùng thắng);
và “lời hứa đi đôi với việc làm”. Trong vòng 5 năm tới, với việc triển khai các dự án
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO CAMPUCHIA...
129
thủy điện Stung Treng (công suất 980 MW), thủy điện hạ Sesan 2 (công suất 420
MW) thì giá trị đầu tư của Việt Nam vào nước này sẽ đạt tối thiểu 6 tỷ USD.
Hiện tại, Campuchia đang thực hiện một chính sách kinh tế mở khá thông thoáng với tất
cả các nhà đầu tư, không phân biệt nước ngoài hay trong nước. Họ mở cửa cả những
lĩnh vực nhạy cảm như bảo hiểm, viễn thông, ngân hàng vốn là những lĩnh vực mà
nhiều quốc gia khác yêu cầu phải có doanh nghiệp nội địa tham gia góp vốn. Thủ tướng
Campuchia Hun Sen thậm chí cam kết biến Campuchia thành nước có môi trường kinh
doanh tốt nhất khu vực và đảm bảo với các nhà đầu tư về một môi trường có lợi và thúc
đẩy đầu tư. Bộ trưởng kiêm Tổng Thư ký CDC Sok Chanda Sophea cho rằng, có 8 lý do
để đầu tư vào Campuchia, đó là đất nước này có sự ổn định về chính trị; ổn định về kinh
tế vĩ mô; Chính phủ ủng hộ kinh doanh; khuyến khích cạnh tranh đầu tư; bảo đảm đầu
tư; đất đai và lao động dồi dào; đã hội nhập thị trường quốc tế và có vị trí chiến lược.
Campuchia cũng đối xử bình đẳng với tất cả các nhà đầu tư, không phân biệt trong và
ngoài nước. Các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông mở cửa 100%. Bên cạnh đó
là các chính sách như miễn thuế lợi tức 6-9 năm, miễn thuế nhập khẩu, được tự do
chuyển lợi nhuận về nước... Đặc biệt, Campuchia là 1 trong 50 nước nghèo nhất trên thế
giới và được rất nhiều nước như Mỹ, EU miễn thuế ở các ngành may mặc, da giày Vì
vậy, nếu DNVN đầu tư vào Campuchia, làm ra sản phẩm dưới xuất xứ của nước này để
xuất đi các nước sẽ được mức thuế ưu đãi 0% [4, tr. 27]. Tuy nhiên, Bộ trưởng kiêm
Tổng Thư ký CDC cũng cho biết, đây là sự ưu đãi chỉ đặc biệt với Việt Nam chứ không
phải dành cho tất cả các nhà đầu tư các nước khác. Thủy điện, dầu khí, khai khoáng,
trồng cao su là bốn lĩnh vực được các DNVN chú trọng khi đầu tư vào Campuchia.
2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù FDI của DNVN vào Campuchia đứng thứ 3 trong tổng số hơn 40 quốc gia và
vùng lãnh thổ có FDI của Việt Nam, nhưng so với tiềm năng, lợi thế hiện có thì hoạt
động FDI của DNVN vào Campuchia còn rất khiêm tốn. Tính đến hết năm 2009, vốn
bình quân một dự án của DNVN FDI vào Campuchia là 14,2 triệu USD, với mức vốn
như vậy DNVN chỉ được xếp vào loại doanh nghiệp nhỏ và vừa của thế giới, điều này
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của DNVN trên thị trường Campuchia. Sở dĩ có các
hạn chế nêu trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhận thức về vai trò của FDI trên lãnh thổ Campuchia chưa đúng mực.
FDI là lĩnh vực còn rất mới đối với các DNVN. Cái gì mới mẻ đều khiến người ta nghi
ngại, lo sợ, rụt rè khi tiếp cận vì vậy nhiều DNVN chưa quan tâm lắm đến việc FDI vào
Campuchia là tất yếu. Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ có trách nhiệm trong các cơ
quan quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài và một số nhà đầu tư Việt Nam còn có
nhận thức sai lầm rằng: Việt Nam đang thiếu vốn, đang cần thu hút vốn FDI nên không
có khả năng và chưa cần thiết đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Thứ hai, cơ chế chính sách của nhà nước Việt Nam trong hoạt động FDI còn thiếu.
Khi chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, cơ chế
chính sách, văn bản pháp luật của nhà nước Việt Nam về FDI còn thiếu, chưa đồng bộ,
NGUYỄN VĂN THẮNG
130
thậm chí còn chồng chéo lên nhau gây ra nhiều bất cập. Với Campuchia, nước có quan
hệ truyền thống lâu đời nhưng chúng ta vẫn chưa có cơ chế đặc thù để khuyến khích
DNVN đầu tư vào. Các văn bản liên quan đến đầu tư còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp
và giải quyết được những vấn đề nảy sinh trong quá trình thẩm định, cấp phép, điều
chỉnh, thanh lý, giải thể doanh nghiệp Các cấp Bộ, ngành, địa phương có chung
đường biên giới với Campuchia chưa có những chủ trương, biện pháp thích hợp để khắc
phục khó khăn; không kịp thời sửa đổi, thay thế, ban hành mới những quy định về quản
lý hoạt động FDI nhằm thúc đẩy DNVN đột phá FDI vào Campuchia.
Thứ ba, năng lực cạnh tranh của DNVN trên thị trường Campuchia còn yếu.
Khả năng tài chính của các DNVN còn quá eo hẹp nên rất khó khăn trong việc tham gia
đấu thầu và trúng thầu các dự án lớn ở Campuchia.
Trình độ khoa học công nghệ của DNVN cũng ở mức thấp và còn nhiều bất cập. So với
mức trung bình của khu vực, công nghệ của DNVN cả ở khu vực doanh nghiệp nhà
nước lẫn khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn rất lạc hậu. Trình độ công nghệ
của DNVN chủ yếu ra đời từ thập kỷ 80 của thế kỷ XX nên rất khó cạnh tranh được với
các nước khác.
Kinh nghiệm đầu tư và kinh nghiệm thương trường của DNVN còn hạn chế. Một mặt,
DNVN còn chịu ảnh hưởng của cơ chế “xin-cho” nên còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào
nhà nước. Mặt khác, hơn 20 năm đổi mới mặc dù đã có nhiều thành tựu đáng kể nhưng
so với kinh nghiệm hàng trăm năm phát triển kinh tế thị trường của các nước khác thì
DNVN còn kém xa.
Thứ tư, sự hỗ trợ đầu tư từ phía Nhà nước cho các DNVN trong FDI vào Campuchia
còn mờ nhạt, thiếu đồng bộ từ cơ chế chính sách đến các biện pháp cụ thể.
Muốn đầu tư, DNVN phải tự tìm hiểu, nghiên cứu, nắm bắt cơ hội dẫn đến làm mất thời
gian, tốn kém và tăng chi phí làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Các cơ chế hỗ trợ
về vốn, lãi suất cho vay, thủ tục pháp lý, thủ tục xuất nhập cảnh, thủ tục chuyển vốn,
ngoại tệ, tài sản trong nước sang Campuchia, chuyển lợi nhuận từ Campuchia về Việt
Nam, thủ tục đưa lao động Việt Nam sang Campuchia và đưa lao động Campuchia về
Việt Nam đào tạo không được quy định rõ ràng. Chính những điều này làm mất cơ
hội đầu tư của DNVN khi thời cơ qua đi.
Thứ năm, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp.
Trình độ quản lý của các DNVN (cả doanh nghiệp nhà nước lẫn doanh nghiệp tư nhân )
còn yếu, đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp chưa am hiểu thị trường, nhận thức hiểu biết
tập quán kinh doanh của Campuchia chưa cao. Về trình độ người lao động, hầu hết các
dự án đầu tư sang Campuchia của DNVN đều ở quy mô nhỏ, lực lượng lao động chỉ ở
mức trung bình, chưa đáp ứng khả năng ứng dụng kỹ thuật, công nghệ cao do đó việc
phải gấp rút đào tạo và đào tạo lại lực lượng lao động chất lượng cao là hết sức cần
thiết.
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO CAMPUCHIA...
131
Tóm lại, trong điều kiện kinh nghiệm FDI chưa nhiều, chưa hiểu hết môi trường đầu tư,
sự khác biệt về phong tục tập quán, ngôn ngữ cùng với sự cạnh tranh gay gắt từ các
nước Thái Lan, Trung Quốc muốn thành công trong FDI ở Campuchia, DNVN cần
nhanh chóng khắc phục những hạn chế thiếu sót trên, nâng cao trình độ nhận thức hiểu
biết, tăng cường tiềm lực tài chính vững vàng, quyết đoán, bản lĩnh, dám đương đầu với
khó khăn thử thách điều đó sẽ mang đến thành công.
3. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM VÀO CAMPUCHIA
- Một là, đổi mới nhận thức về FDI nói chung và FDI vào Campuchia nói riêng.
Mọi hành động và giải pháp thực tiễn đều bắt nguồn từ nhận thức, có nhận thức đúng
mới đi đến có giải pháp tối ưu. Cho đến nay, nhiều nhà quản lý cũng như nhiều nhà đầu
tư Việt Nam vẫn chưa quan tâm đúng mức về hoạt động FDI. Không ít người cho rằng
nếu dòng vốn trong nước chảy ra bên ngoài sẽ khiến đầu tư trong nước bị giảm sút, ảnh
hưởng đến mức đầu tư trong nước, gây thất thoát ngoại tệ và không giải quyết được vấn
đề việc làm đang bức xúc ở trong nước. Nhiều người còn lo ngại rằng sức cạnh tranh
của DNVN còn yếu, khó cạnh tranh thắng lợi ngay chính thị trường Việt Nam thì không
thể cạnh tranh và hoạt động có lãi ở thị trường Campuchia.
Việc lập luận như trên là chưa toàn diện, chưa thấy hết lợi ích và vai trò mà hoạt động
đầu tư trực tiếp vào Campuchia đã và đang mang lại cho nền kinh tế cũng như cho bản
thân các doanh nghiệp. Thực tiễn cho thấy, nếu dòng vốn của một nước đầu tư ra nước
ngoài càng tăng thì càng có nhiều khả năng mở rộng thị trường và tăng cơ hội kinh
doanh, từ đó tăng việc làm, tăng thu nhập, tăng tiêu dùng thúc đẩy kinh tế trong nước
phát triển tạo điều kiện làm tăng khả năng thu hút dòng vốn đầu tư từ bên ngoài vào.
- Hai là, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, cơ chế chính sách đặc thù về FDI vào
Campuchia.
Chính phủ Việt Nam cần ban hành hệ thống cơ chế chính sách, quy định và các văn bản
hướng dẫn cụ thể việc cấp phép cho các doanh nghiệp, cơ chế đảm bảo vốn, cơ chế
chuyển tiền và tài sản sang Campuchia để đầu tư, cơ chế giám sát các vấn đề về tài
chính, về thuế tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư của doanh nghiệp.
Xem xét ban hành thông tư hướng dẫn cụ thể một số nội dung của Nghị định số
78/2006/NĐ-CP về đầu tư ra nước ngoài phù hợp với mối quan hệ hợp tác đặc biệt Việt
Nam – Campuchia. Chính phủ cần khẩn trương ban hành các chính sách tạo cơ sở pháp
lý cho các Bộ, ngành, địa phương thực hiện các giải pháp khuyến khích, thúc đẩy FDI
của DNVN vào Campuchia.
- Ba là, tăng cường công tác xúc tiến đầu tư và nâng cao hiệu quả công tác quản lý
nhà nước về FDI của DNVN vào Campuchia.
Khi đầu tư vào Campuchia, các DNVN cần phải có sự hiểu biết đầy đủ, rõ ràng về pháp
luật, môi trường đầu tư, phong tục tập quán sinh hoạt và tiêu dùng của cư dân
Campuchia cũng như những lợi thế của mình so với đối tác. Do vậy, vấn đề xúc tiến đầu
NGUYỄN VĂN THẮNG
132
tư để các doanh nghiệp biết được những lợi thế này là hết sức cần thiết. Cục Đầu tư
nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan thương vụ, tham tán kinh tế của Đại
sứ quán Việt Nam tại Campuchia cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước, các
địa phương Việt Nam có đường biên giới và các cửa khẩu với Campuchia tăng cường
hơn nữa các hình thức tiếp xúc giao lưu trao đổi thông tin, hội thảo, giới thiệu quảng bá
kêu gọi đầu tư cả ở cấp trung ương lẫn địa phương theo tinh thần Thỏa thuận hợp tác
thương mại, dịch vụ, đầu tư của Chính phủ hai nước. Tổ chức biên dịch tài liệu của
Campuchia về luật pháp, chính sách và cơ hội đầu tư tại Campuchia ra tiếng Việt cung
cấp cho các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý đầu tư thông qua các ấn phẩm cũng như
qua trang tin điện tử, cổng thông tin điện tử Chính phủ nhằm tăng cường hiểu biết và
ngăn chặn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
Nhằm nâng cao khả năng và hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về FDI, vấn đề cấp
thiết hiện nay là rà soát lại và chính xác hóa các dự án FDI của DNVN vào Campuchia.
Thực hiện phân cấp quản lý đầu tư một cách cụ thể, rõ ràng và triệt để cho các tỉnh,
thành phố trong việc cấp phép và quản lý hoạt động đầu tư, đồng thời giảm khối lượng
công việc cho các cơ quan quản lý tổng hợp. Khẩn trương xây dựng đề án về cơ chế hỗ
trợ, khuyến khích mang tính chất đặc thù riêng biệt phù hợp với cơ chế ưu đãi của
Chính phủ Campuchia dành cho các DNVN khi đầu tư sang Campuchia. Cần xây dựng
những giải pháp mang tính đột phá, cú hích để khuyến khích các DNVN tích cực hơn
nữa, tăng tốc đầu tư trực tiếp vào Campuchia.
- Bốn là, thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích DNVN trong quá
trình thực hiện FDI vào Campuchia.
* Hỗ trợ nguồn vốn đầu tư
Bất cứ doanh nghiệp nào đang đầu tư tại Campuchia cũng rất cần Nhà nước hỗ trợ về
vốn nhưng trước hết cần tập trung hỗ trợ cho các dự án đầu tư có mục tiêu quan trọng
tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của nước ta thuộc danh mục các
ngành nghề, dự án khuyến khích FDI vào Campuchia như: dự án sản xuất điện nhập
khẩu về Việt Nam; dự án khai thác một số khoáng sản thay thế nhập khẩu phục vụ sản
xuất trong nước; dự án trồng và chế biến cây công nghiệp Sự hỗ trợ thể hiện bằng
cách cho phép chủ đầu tư vay tối thiểu 30% tổng vốn đầu tư của dự án và cho phép
miễn hình thức đảm bảo tiền vay bằng tài sản, được hưởng lãi suất ưu đãi. Chính phủ có
thể đứng ra bảo lãnh vốn vay của doanh nghiệp với Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt
Nam (BIDV). Các ngân hàng thương mại trong nước cho vay vốn đối với các dự án đầu
tư tại Campuchia trong các lĩnh vực như trên có thể cho vay vượt quá 15% vốn điều lệ
của Ngân hàng thương mại. Trong một số trường hợp đặc biệt, Nhà nước có thể góp vốn
cùng với doanh nghiệp để thực hiện dự án, chia sẽ rủi ro với doanh nghiệp.
* Ưu đãi về thuế
DNVN đầu tư vào Campuchia chứa đựng nhiều nguy cơ rủi ro hơn đầu tư ở trong nước
vì vậy cần được sự ưu đãi về thuế nhất là trong một số lĩnh vực đặc thù như đã nêu ở
trên. Các dự án đầu tư trên được áp dụng mức thuế suất ưu đãi về khoảng thời gian miễn
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO CAMPUCHIA...
133
giảm thuế, cho miễn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần lợi nhuận chuyển về
nước đã được nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại Lào. Đặc biệt, cho phép các dự án mà
DNVN đầu tư ở Campuchia trong các lĩnh vực giống hay có tác dụng bổ sung, hỗ trợ
cho hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam thì cần được hưởng các ưu đãi thuế
đầu tư ít nhất là ngang hàng với doanh nghiệp trong nước đang được hưởng theo Luật
đầu tư.
* Chính sách ngoại hối thuận lợi
Khi các DNVN thực hiện FDI vào Campuchia tất yếu có sự chuyển đổi ngoại tệ giữa
Việt Nam và Campuchia, nguy cơ rủi ro trong tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi nhuận của doanh nghiệp. Sự biến động trên thị trường ngoại hối có tác động đến nhu
cầu đầu tư của các DNVN, vì vậy để có thị trường ngoại hối hoạt động hiệu quả, thuận
lợi cho hoạt động FDI vào Campuchia cần hoàn thiện tổ chức ngoại tệ liên ngân hàng
theo hướng đẩy mạnh các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi, cho phép các ngân hàng
thương mại thực hiện giao dịch quyền chọn và hợp đồng tương lai để phòng ngừa rủi ro
tỷ giá cho các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động đầu tư trên thị trường Campuchia.
* Hỗ trợ đào tạo lao động.
Lực lượng lao động người Campuchia trình độ còn rất thấp chưa đáp ứng được nhu cầu
về lao động cho DNVN về cả số lượng lẫn chất lượng. Mặt khác, Chính phủ Campuchia
còn khống chế tỷ lệ lao động nước ngoài với 10% lao động phổ thông và không vượt
quá 20% lao động kỹ thuật. Đây là quy định khiến cho nhiều doanh nghiệp gặp rất nhiều
khó khăn trong việc giải bài toán sắp xếp nhân lực cho việc sản xuất của doanh nghiệp
khi phải đảm bảo tiến độ thực hiện các công trình hay dự án. Với những lý do trên,
Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ cho các DNVN đầu tư trực tiếp sang Campuchia
đào tạo lực lượng lao động. Các khoản viện trợ, hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam hàng
năm cho Chính phủ Campuchia và các Hiệp định về giáo dục – đào tạo đã ký kết giữa
hai nước cần gắn chặt và tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư như hỗ trợ đào tạo nghề gắn
với các các lĩnh vực FDI của DNVN sang Campuchia, viện trợ đào tạo cán bộ các cấp
nhất là cấp xã của Campuchia tại Việt Nam [3, tr. 36].
Năm là, hoàn thiện hệ thống dịch vụ đầu tư và xây dựng chiến lược đầu tư linh hoạt.
Nhà nước cần tăng cường hiệu quả của những dịch vụ như: viễn thông, mở rộng mạng
lưới thông tin, cung cấp thông tin về thị trường, về tình hình cạnh tranh, về đối tác
cho doanh nghiệp. Chính phủ cần xây dựng công tác dự báo và định hướng thị trường,
chiến lược xây dựng ngành chủ lực, xây dựng thương hiệu quốc gia và thương hiệu sản
phẩm, các kế hoạch minh bạch hóa chế độ tài chính và công tác quản lý.
FDI vào Campuchia, mỗi doanh nghiệp đã là “doanh nghiệp quốc tế” và mang tính chất
toàn cầu đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải xem xét và tính toán lại toàn bộ chiến lược kinh
doanh trong đầu tư ở Campuchia. Các doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận, nắm bắt
thông tin thị trường, tận dụng thời cơ lập phương án đầu tư, đấu thầu; chủ động đàm
phán ký kết các hợp đồng, dự án đầu tư và thực hiện có hiệu quả đảm bảo mục tiêu sinh
lợi cho doanh nghiệp. Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, cần linh hoạt điều chỉnh
NGUYỄN VĂN THẮNG
134
chiến lược phát triển đầu tư cả về lĩnh vực đầu tư lẫn hình thức đầu tư khi có những biến
động kinh tế của Campuchia cũng như khu vực và thế giới. Một điểm yếu của DNVN
trong đầu tư là sự phản ứng của doanh nghiệp trước sự biến động của thị trường còn rất
chậm. Ví dụ, trong năm 2008, trước áp lực tăng giá do lạm phát toàn cầu, phản ứng của
DNVN chỉ là tăng giá bán sản phẩm hay thực hiện tiết kiệm mà ít có doanh nghiệp nào
phản ứng với lạm phát thông qua việc nâng cao hiệu quả sản xuất bằng cách tái cấu trúc
tổ chức, đầu tư đổi mới công nghệ, cải tổ quy trình quản lý nâng cao hiệu quả kinh tế.
Hoặc là không nhanh chóng nắm bắt thời cơ tăng tốc đầu tư vào Campuchia khi các nhà
đầu tư nước ngoài gặp khó khăn do khủng hoảng kinh tế.
Sáu là, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
* Năng lực tài chính
Để nâng cao năng lực tài chính cho doanh nghiệp trước hết cần lành mạnh hóa tình hình
tài chính của doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng. Thúc đẩy sự phát triển của thị
trường vốn thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, quỹ
đầu tư, thị trường chứng khoán. Phát triển các công cụ tài chính cần thiết, tạo hàng hóa
như: cổ phiếu, trái phiếu công ty thông qua Trung tâm giao dịch chứng khoán để đáp
ứng nhu cầu của các DNVN. Khuyến khích và phát triển các định chế tài chính trung
gian như: các công ty đầu tư tài chính, công ty thuê mua tài chính để tăng việc huy động
và luân chuyển vốn trên thị trường.
* Năng lực công nghệ
Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, khen thưởng kịp thời để khuyến khích các hoạt
động nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào đầu tư nâng cao năng suất lao
động và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp và
trường đại học trong vấn đề nghiên cứu các giải pháp công nghệ và công nghệ cơ bản
tạo thuận lợi cho doanh nghiệp ứng dụng vào hoạt động đầu tư ở Campuchia.
* Năng lực quản lý
DNVN cần lựa chọn người lãnh đạo doanh nghiệp thực sự là người quản lý năng động,
quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, có tầm nhìn chiến lược, chịu khó nghiên cứu nắm bắt
những vấn đề mới, am hiểu luật lệ, thị trường Campuchia Nếu trước đây doanh
nghiệp có thể chọn người thân, người cùng ê kíp, cấp trên gửi gắm thì bây giờ khi đầu
tư sang Campuchia bắt buộc doanh nghiệp phải chọn người thực sự có năng lực bởi nếu
không doanh nghiệp sẽ không cạnh tranh được với các nhà đầu tư nước ngoài khác tại
Campuchia. Đề bạt, bổ nhiệm người lãnh đạo doanh nghiệp cần coi trọng tiêu chí “Tâm
– Tài – Trí – Tầm”.
Bảy là, tăng cường mối quan hệ Chính phủ và Doanh nghiệp.
Chính phủ là người nắm thông tin đầu tiên về các diễn biến trong hoạt động đầu tư, hợp
tác kinh tế Việt Nam – Campuchia. Các cuộc đàm phán song phương, các Hiệp định,
thỏa thuận được ký kết giữa Chính phủ hai nước qua kênh chính phủ và phi chính phủ
cần được truyền đạt thông tin và định hướng đến doanh nghiệp. Ngược lại, doanh
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀO CAMPUCHIA...
135
nghiệp hỗ trợ chính phủ trong việc phản ánh kịp thời những tích cực và hạn chế của
pháp luật, chính sách đầu tư đã ban hành để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với thực
tiễn. Doanh nghiệp cần thông tin cho chính phủ những vướng mắc nảy sinh trong quá
trình đầu tư từ phía Campuchia để có thể trao đổi, đàm phán giải quyết tránh thiệt hại
kinh tế cho cả hai bên, làm chậm tiến độ thực hiện dự án đầu tư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Cục Đầu tư nước ngoài (2008). Dự báo đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài năm 2008 và 2009. Hà Nội.
[2] Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Nguyễn Hữu Hiểu (2000). Giải pháp tài chính thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 4, tr. 36.
[4] Trần Lãm (1994). Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước ASEAN. Tạp chí Kinh tế
và Dự báo, số 12 (260), tr. 27.
[5] Nguyễn Thanh Long (1987). Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với Lào và Campuchia
trong điều kiện mở rộng phân công lao động quốc tế XHCN. Luận án PTS, Hà Nội.
Title: DIRECT INVESTMENT OF VIETNAMESE BUSINESS IN CAMBODIA - CURRENT
SITUATION AND SOLUTIONS
Abstract: In the context of globalization and international economic integration, at present,
Foreign Direct Investment (FDI) is the general trend of the countries in the region and the
world. So, in order to mix with that trend, Vietnamese business also promote direct investment
in Cambodia. This article focuses on clarifying the objective situation and measures to promote
direct investment in Cambodia of Vietnamese business.
ThS. NGUYỄN VĂN THẮNG
Khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
ĐT: (CQ) 054.3833542. (NR) 054.3624612. (DĐ) 0914.534.327
Email: thangnguyenvandhsphue@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 16_243_nguyenvanthang_20_nguyen_van_thang_9575_2021027.pdf