Đấu tranh chống chính sách “tố cộng” của chính quyền Ngô Đình Diệm ở Quảng Nam Đà Nẵng (1955-1957)

Nhìn chung, phong trào đấu tranh chống chính sách “tố Cộng” của chính quyền Ngô Đình Diệm ở Quảng Nam Đà Nẵng trong hai năm 1955-1957 diễn ra rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, ở bên ngoài vào cả bên trong nhà tù, với nhiều hình thức cụ thể phong phú, lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham gia. Đặc biệt, phong trào đã thể hiện mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và dân, tình đoàn kết Kinh - Thượng trong một mặt trận chung chống chính sách “tố Cộng” của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong phong trào đấu tranh đã xuất hiện hình thức vũ trang tự vệ kết hợp với đấu tranh chính trị để chống lại bạo lực của kẻ thù. Nhờ đó, thời gian sau này địch không còn công khai bắn giết, tra tấn người vô tội như trước nữa. Dẫu phải chịu nhiều hi sinh, tổn thất nhưng phong trào đấu tranh chống địch “tố Cộng” trong hai năm 1955-1957 ở Quảng Nam Đà Nẵng có một ý nghĩa rất quan trọng, góp phần làm thất bại chính sách "tố Cộng" thâm độc của chính quyền Ngô Đình Diệm, cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng trong những năm sau đó.

pdf7 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đấu tranh chống chính sách “tố cộng” của chính quyền Ngô Đình Diệm ở Quảng Nam Đà Nẵng (1955-1957), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 02(14)/2010: tr. 79-85 ĐẤU TRANH CHỐNG CHÍNH SÁCH “TỐ CỘNG” CỦA CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM Ở QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG (1955-1957) HÀ THỊ HẢI Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế Tóm tắt: Sau khi cơ bản thiết lập xong bộ máy thống trị ở Quảng Nam Đà Nẵng, chính quyền Ngô Đình Diệm biến nơi đây thành trọng điểm để thi hành chính sách "tố Cộng". Trong vòng 2 năm (1955 - 1957), trước những thủ đoạn "tố Cộng" khốc liệt của kẻ thù, nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng đã kiên quyết đấu tranh với một tinh thần rực lửa. Phong trào diễn ra rộng khắp, lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham gia với nhiều hình thức đấu tranh phong phú, linh hoạt, sáng tạo. Mặc dù phải chịu tổn thất nặng nề, song phong trào đã góp phần từng bước làm thất bại chính sách "tố Cộng" thâm độc của chính quyền Ngô Đình Diệm, thể hiện tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng. Quảng Nam Đà Nẵng (nay là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng), là tỉnh nằm ở “đầu cầu” của khu vực duyên hải Nam Trung bộ, nắm giữ một vị trí địa - chính trị rất quan trọng. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, nơi đây có vùng tự do rộng lớn gồm 4 huyện miền núi và 4 huyện đồng bằng phía nam sông Bà Rén (Quế Sơn) trở vào, 4 huyện phía Bắc là vùng căn cứ du kích; có lực lượng vũ trang ba thứ quân chiến đấu trên địa bàn tỉnh, có chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng vững mạnh, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển. Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cũng như nhân dân miền Nam nói chung, nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng chưa kịp hưởng niềm vui của ngày hòa bình lập lại đã phải đối diện ngay với kẻ thù mới. Thực hiện đúng quy định của Hiệp định, trong vòng một tháng, Tỉnh ủy tức tốc lao vào chuẩn bị cho việc chuyển quân, tập kết, chuẩn bị tư tưởng cho cán bộ và nhân dân, giải quyết tài sản của chính quyền cách mạng còn lại, bàn giao chính quyền cho đối phương. Đảng bộ tỉnh chủ trương, ngoài số cán bộ, đảng viên tập kết ra Bắc cùng với lực lượng vũ trang thì đại bộ phận công nhân viên thoát ly của các ngành, các cấp và cán bộ, đảng viên cơ sở đều ở lại và trở về sinh sống với gia đình trong vùng tiếp quản của địch, một bộ phận được chỉ định thoát ly hoạt động bí mật, trở thành những cán bộ hạt nhân. Đến trước ngày 30/8/1954, các đơn vị bộ đội trong tỉnh đã tập trung về An Tân (Núi Thành) để đi tập kết. Sau ngày bàn giao chính quyền cho đối phương (31/8/1954), trên quê hương Quảng Nam Đà Nẵng đầy bóng giặc. Trước tiên là lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp, Quốc dân Đảng phản động, tiếp đến là sự có mặt của chính quyền Ngô Đình Diệm. Những lực lượng này ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, vi phạm nghiêm trọng điều 14C của Hiệp định: khủng bố, trả thù những người tham gia kháng chiến cũ, uy hiếp tinh thần quần chúng nhân dân. Các cuộc đấu tranh chính trị đầu tiên đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ của quần chúng nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng đã diễn ra đẫm máu trước họng súng HÀ THỊ HẢI 80 của kẻ thù. Những vụ khủng bố ở Chợ Được, Chiên Đàn, Cây Cốc, Vĩnh Trinh... là bằng chứng điển hình cho sự khát máu của chúng. Đầu năm 1955, sau khi cơ bản thiết lập xong bộ máy thống trị ở Quảng Nam Đà Nẵng, chính quyền Ngô Đình Diệm cho thi hành một loạt các chính sách cai trị hết sức phản động trên tất cả các mặt, xâm phạm nghiêm trọng đến đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Đây là nơi đầu tiên ở miền Nam chúng chọn làm “trọng điểm” để thi hành chính sách “tố Cộng”. Liên tục từ năm 1955 đến năm 1959, địch cho thực hiện chính sách “tố Cộng” khắp nơi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, nhưng khốc liệt nhất là trong những năm 1955- 1957. Thoạt tiên, chúng đánh phá một cách ồ ạt, sau đó xoáy vào các trọng tâm. Thủ đoạn của chúng là mở các lớp "tố Cộng" để truy tìm cán bộ, đảng viên, quần chúng trung kiên và cơ sở cách mạng, bằng mọi cách triệt hạ uy thế của Đảng, gây không khí lo sợ, hoang mang trong nhân dân. Nhà tù, trại giam mọc lên dày đặc nhưng vẫn không đủ chỗ cho chúng giam người. Năm 1956, địch nâng chính sách "tố Cộng" lên thành quốc sách, cơ bản đi sâu vào đánh phá quần chúng, gia đình cán bộ, tình nghi can cứu. Hình thức chủ yếu là “tố điển hình”, “ngồi tự tu”, “sám hối”, “tống tà cộng sản”, tiếp tục mở các lớp học “tố Cộng” kéo dài hết đợt này đến đợt khác. Cũng trong thời gian này, địch đẩy mạnh “tố Cộng” vào nhà lao Thông Đăng (Hội An), tập trung vào những đảng viên cộng sản trung kiên mà chúng coi là đối tượng “đầu sỏ”, “nguy hiểm cho an ninh quốc gia” đem ra “tố điển hình”. Ở phía Tây Quảng Nam Đà Nẵng, thời gian đầu, do tập trung lực lượng "tố Cộng" vùng đồng bằng nên sự kiểm soát của địch ở đây còn lỏng lẻo. Năm 1955, địch chỉ mới thiết lập được chính quyền ở một số xã vùng thấp như Pui, Đốc (Trà My), Thạnh Mỹ (Giằng), Phước Gia, Phước Hiệp, Phước Trà (Phước Sơn). Chúng lợi dụng lái buôn để thăm dò, tung gián điệp xâm nhập vào buôn làng làm quen, mua chuộc, dụ dỗ, thực chất là để dò la hoạt động của cán bộ. Tháng 7/1956, địch mở chiến dịch “Thượng du vận”, đưa lực lượng lên vùng trung du và vùng cao ngày càng nhiều, xây dựng các đồn, bốt để kiểm soát, đánh mạnh vào căn cứ đứng chân của cán bộ; xây dựng các khu dồn dân, loại bỏ ảnh hưởng của các đảng viên cộng sản ra khỏi đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ trong vòng hai năm (1955-1957), địch đã gây ra không biết bao nhiêu tội ác trên mảnh đất Quảng Nam Đà Nẵng. Cảnh chết chóc, tang thương, bắt bớ, tù đày diễn ra từng ngày, từng giờ. Phong trào cách mạng bị đẩy vào giai đoạn khó khăn chưa từng thấy, tổn thất hết sức nặng nề. Khi ký Hiệp định Giơ ne vơ, Đảng bộ Quảng Nam Đà Nẵng có 35.000 đảng viên, đến tháng 7/1957, toàn tỉnh chỉ còn lại 4.500 đảng viên. Những nơi bị đánh phá nặng như Điện Bàn, đến thời điểm tháng 3/1957, Đảng bộ huyện chỉ còn lại 3 chi bộ với 9 đảng viên; huyện Hòa Vang chỉ còn 98 đảng viên trong đó có 18 đảng viên mới kết nạp. Cũng trong năm 1957, các huyện, thị như Tiên Phước, Thăng Bình, Đà Nẵng, Hội An, cán bộ bị bắt, bị giết rất nhiều, hoạt động của các chi bộ Đảng hầu như bị tê liệt. Ở những nơi khác, cán bộ đi lại hoạt động rất khó khăn, phải nằm hầm bí mật dài ngày, tìm cách chuyển vùng hoặc bật lên núi để hoạt động và xây dựng căn cứ đứng chân [4, tr. 9]. ĐẤU TRANH CHỐNG CHÍNH SÁCH “TỐ CỘNG” CỦA CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM... 81 Trên cơ sở tiếp thu những chủ trương chung của Trung ương Đảng, Liên khu ủy V, Đảng bộ Quảng Nam Đà Nẵng căn cứ vào tình hình “tố Cộng” của địch ở địa phương để chỉ đạo sát sao phong trào đấu tranh của nhân dân. Phương châm đấu tranh là khéo che giấu, khéo hoạt động để bảo toàn lực lượng; vận dụng triệt để các hình thức đấu tranh hòa bình, hợp pháp, kết hợp với hình thức bất hợp pháp, đấu tranh “có lý, có lợi, có mức” với địch. Trong hai năm 1955-1957, dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, phong trào đấu tranh chính trị của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân chống các chiến dịch “tố Cộng” của chính quyền Ngô Đình Diệm diễn ra trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, nhưng chính trong hoàn cảnh đó càng thể hiện tinh thần đấu tranh rực lửa của nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng. Bằng nhiều hình thức đấu tranh linh hoạt và sáng tạo, phong trào từng bước làm thất bại âm mưu “tố Cộng” thâm độc của địch, bảo vệ và duy trì lực lượng cách mạng của tỉnh. Đi tiên phong trong phong trào chống địch “tố Cộng” là các cuộc đấu tranh của đảng viên cộng sản bảo vệ uy tín của Đảng, giữ vững lập trường cách mạng, xây dựng niềm tin và cổ vũ quần chúng nhân dân đấu tranh. Để xóa bỏ mọi ảnh hưởng của Đảng Cộng sản, địch ép đảng viên, những người kháng chiến cũ phải ra xuất thú, khai báo, viết giấy ly khai Đảng, xé cờ Đảng, nhận những việc làm trước đây là sai trái... Trong những giờ phút thử thách ác liệt nhất, các đảng viên cộng sản đã tỏ rõ chí khí của mình trước kẻ thù, nhiều tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng xuất hiện đã giữ vững niềm tin cho quần chúng, để lại trong lòng nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng sự cảm phục. Đồng chí Lê Hạt ở Bình Lãnh (Thăng Bình) bị địch đổ dầu vào rốn, châm lửa đốt đến chết vẫn không khai nửa lời; đồng chí Lê Quang Cảnh (Bình Dương, Thăng Bình) gan dạ nhận phần hi sinh về mình để giải thoát cho nhân dân tại đình Lạc Câu khỏi sự trấn áp của địch. Đồng chí Nguyễn Xuân Hòa, cán bộ Huyện ủy Duy Xuyên, trước lúc hi sinh vẫn lớn tiếng vạch trần bộ mặt phản dân hại nước của chế độ Ngô Đình Diệm và khẳng định: “Cách mạng là chính nghĩa, là tất thắng. Hỡi những người cộng sản hãy anh dũng tiến lên !” [8, tr. 15-16]. Hay như đồng chí Nguyễn Liệu (Tiên Phước), bị địch bắt, biết không thể thoát khỏi đã chộp lấy con dao trên một bàn bán thịt lợn cạnh đường để mổ bụng tự tử, nêu cao chí khí của người cộng sản, khiến kẻ thù phải run sợ [7, tr. 168]. Song song với chống địch khủng bố, bắt bớ là phong trào chống học tập “tố Cộng”. Chính quyền Diệm rất coi trọng công tác “huấn chính”, "tố Cộng", xem đây là biện pháp “xương sống” của chiến dịch “tố Cộng” nhằm đánh bật ảnh hưởng của Đảng ra khỏi quần chúng. Trong lớp học “tố Cộng”, học viên bị tra tấn cả thể xác lẫn tinh thần, bị bắt nghe giảng về “chính nghĩa quốc gia”, về “công đức Ngô Đình Diệm”, nói xấu Đảng, bắt xuất thú, xé Đảng kỳ, bắt “sám hối”, “tống tà”... Nhưng mọi thủ đoạn thâm độc của địch đã không lay chuyển được ý chí đấu tranh của các đảng viên cộng sản. Đồng chí Nguyễn Thành, cán bộ thoát ly huyện Duy Xuyên khi bị địch bắt ra trước lớp “tố Cộng” ở đình Thu Bồn chào cờ của chúng, đã dõng dạc tố cáo tội ác của địch, bị HÀ THỊ HẢI 82 chúng đánh và treo ngược lên trụ cờ, đồng chí vẫn hô vang khẩu hiệu: “Hồ Chí Minh muôn năm! Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!” [9, tr. 430-431]. Sau những phát đạn của địch xả liên tiếp vào người, đồng chí đã hi sinh trước sự cảm phục của hơn 500 học viên trong lớp “tố Cộng”. Ở Điện Bàn, nhân dân chứng kiến sự hi sinh anh dũng của nhiều đảng viên như: đồng chí Phạm Toại vì quá căm phẫn trước những lời phỉ báng, nói xấu cách mạng của địch đã tự mổ bụng giữa lớp “tố Cộng” để cảnh cáo kẻ thù; đồng chí Lê Đình Xáng bị địch tra tấn, truy bức, đã nhảy xuống sông tự tử để giữ khí tiết cách mạng; còn đồng chí Trần Tuyển, địch dùng bàn ủi áp vào bụng, khói bốc nghi ngút nhưng vẫn không hề nao núng, còn chửi thẳng vào mặt bọn chúng [6, tr. 176]. Tại Ái Nghĩa (Đại Lộc), địch dùng vũ lực bắt học viên phải tố giác cán bộ, đảng viên, những người kháng chiến cũ, các học viên đã khai chính những tên trong ban “tố Cộng”. Cảnh sát quận được điều về điều tra sự việc, lực lượng trong Ban “tố Cộng” đã đánh nhau với cảnh sát. Nhân cơ hội đó, học viên xông vào đánh tới tấp lực lượng “tố Cộng” khiến chúng phải giải tán lớp học [5, tr. 33]. Để bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ chủ chốt trước các cuộc lùng sục, truy quét của địch, Đảng bộ Quảng Nam Đà Nẵng có chủ trương “điều lắng” cán bộ: Tạm ngừng hoạt động ở những nơi địch khủng bố quá khốc liệt, chuyển vùng đối với những cán bộ bị lộ mặt hoặc bật lên núi bám trụ, xây dựng căn cứ đứng chân chờ khi có chủ trương mới. Nhờ vậy, những cán bộ chủ chốt được bố trí ở lại sau ngày Hiệp định Giơnèvơ ký kết vẫn được an toàn để tiếp tục chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân. Trong nhà lao, không bị khuất phục bởi “địa ngục trần gian” của kẻ địch, tù nhân yêu nước còn biến nơi đây thành trường học chính trị lớn. Phần đông tù nhân đều là đảng viên cộng sản, những người kháng chiến cũ và quần chúng trung kiên. Tại nhà lao Thông Đăng (Hội An), Chi bộ Đảng được thành lập để hướng dẫn, tổ chức các cuộc đấu tranh của tù nhân yêu nước. Trong cuộc đấu tranh sinh tử với địch, có người bị tra tấn đến tàn phế, có người bị giết chết nhưng họ vẫn giữ được khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Cuối tháng 7/-1956, địch đẩy mạnh công tác “huấn chính” “tố Cộng” vào nhà lao Thông Đăng. Chỉ trong vòng một tháng, 300 tù chính trị đã chết bởi các hình thức tra tấn dã man chưa từng có của kẻ thù [3, tr. 8]. Điển hình cho tấm gương kiên trung của các chiến sĩ cộng sản bị lao tù ở đây là Trần Cảnh Trinh, trước mặt kẻ thù, đồng chí dõng dạc tố cáo tội ác của chúng và khẳng khái tuyên bố: “Đối xử thế nào là tùy các ông, tôi làm cách mạng là vì dân, vì nước, tôi không khai ai hết” [9, tr. 423]. Địch vừa tra tấn, vừa dụ dỗ rồi bỏ đói, nhưng đồng chí vẫn giữ vững ý chí cho đến hơi thở cuối cùng. Hoặc như trường hợp Trần Thị Lý, bị địch bắt giam, tra tấn hết sức dã man nhưng vẫn không khai nửa lời. Bên cạnh phong trào đấu tranh chống địch “tố Cộng” của đảng viên cộng sản, tù nhân yêu nước, trong quần chúng nhân dân cuộc đấu tranh cũng diễn ra quyết liệt. ĐẤU TRANH CHỐNG CHÍNH SÁCH “TỐ CỘNG” CỦA CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM... 83 Đầu năm 1955, địch dùng lực lượng quân sự huy động quần chúng tham gia các cuộc mít tinh, biểu tình cổ động cho chiến dịch “tố Cộng” ở Đà Nẵng, Hội An và các trung tâm hành chính địa phương. Tuy nhiên, số người tham gia so với số dân rất ít, chủ yếu là đồng bào di cư, công chức, công an, cảnh sát, lưu manh. Những người phải miễn cưỡng đi thì hàng ngũ lộn xộn, nói chuyện cười đùa, không hô khẩu hiệu, một số lấy cớ đau đầu, xây xẩm để rút lui dần [1, tr. 10]... Trong lễ mít tinh, địch đưa tên phản bội lên phát giác cơ sở, một ông cụ già đứng dậy vặn ngay: “Anh là người trong làng, chuyện gì anh biết đồng bào cũng biết, có thì nói có, không thì đừng tư thù” [2, tr. 12]. Tên kia lúng túng, không còn tinh thần để phát giác nữa. Để tránh không tham gia các lớp học “tố Cộng”, nhiều người viện cớ đi làm ăn xa hoặc đi không đúng thành phần. Địch dùng bạo lực bắt buộc nhân dân phải đến địa điểm học tập thì những người phụ nữ mang theo con nhỏ đến nơi học rồi chọc cho con khóc, nói chuyện ồn ào, có người ngủ gục. Các cụ già thì chất vấn: “Tố Cộng như thế có vi phạm hiệp định không?” hoặc chuyển sang đấu tranh kêu cơm thua gạo kém, vật giá cao vọt, mất mùa, mất ruộng v.v... khó mà theo học được. Những lúc ở vào thế bí, quần chúng vận dụng các hình thức đấu tranh rất linh hoạt như: Địch bắt lên xé cờ, không tránh được, có người mửa ra, có người giả vờ trúng gió nằm la giãy giụa tuột cả quần áo, quần chúng nhân đó tập trung lại cứu chữa và cũng nhân đó mà giải tán ra về [2, tr. 13]. Tại Điện Bàn, tháng 3/1957, tên quận trưởng Trần Quốc Thái cho mở một cuộc mít tinh lớn ở Điện An để tuyên truyền thắng lợi sau một thời gian dài tổ chức các lớp “tố Cộng”. Trong cuộc mít tinh, tên Thái huênh hoang “Đã diệt 27 cán bộ quan trọng của huyện và đã làm sạch cỏ cú Điện Bàn”. Dựa vào lời tuyên bố của tên Thái, một số phụ nữ chất vấn: “đã thủ tiêu hết những người cộng sản thì còn phải tố cáo làm gì ?”. Bọn chúng đuối lý phải giải tán lớp học [6, tr. 177]. Nuôi giấu cán bộ cũng là một hình thức đấu tranh hết sức linh hoạt của nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng trong những năm địch “tố Cộng” khốc liệt. Trước sự gia tăng khủng bố của địch, nhất là từ cuối năm 1956 đến đầu năm 1957, hầu hết cán bộ, đảng viên không còn hoạt động công khai được nữa phải chuyển vào hoạt động bí mật, bám trụ trong lòng dân. Nhân dân có nhiều sáng kiến về cách nuôi giấu, tiếp tế, bảo vệ cán bộ cách mạng trước sự truy lùng của kẻ thù. Địch ra lệnh cho nhân dân hễ cứ thấy cán bộ về làng là phải đánh mõ, la làng đuổi bắt. Lúc cán bộ đến hoạt động bị lộ, đồng bào cũng đánh mõ la làng, song họ chỉ lối cho cán bộ chạy một đường, hô hào, đuổi theo một nẻo. Nhiều bà mẹ đã biến ngôi nhà của mình thành chỗ trú chân an toàn cho cán bộ trong một thời gian dài, khi bị địch phát hiện thì sẵn sàng nhận phần hi sinh về mình để giải thoát cho cán bộ. Hầm bí mật được bố trí dưới bồ lúa, cong khoai và ngay cả nơi thờ cúng tôn nghiêm nhất của gia đình để làm chỗ ẩn nấp cho cán bộ. Tiêu biểu là gia đình các bà: Huỳnh Thị Lựu ở Đại An (Hòa Quý, Hòa Vang), Phạm Thị Cộng ở Điện Tiến (Điện Bàn), Nguyễn Thị Chỉ ở Kỳ Sanh (Tam Kỳ). Bên cạnh các hình thức đấu tranh kể trên, Đảng bộ Quảng Nam Đà Nẵng còn chú trọng công tác binh, địch vận và tranh thủ, phân hóa, lôi kéo đối với địa chủ, tạo thành một mặt trận chống địch “tố Cộng” rộng rãi. Ngoài ra, còn vận động quần chúng nhân dân HÀ THỊ HẢI 84 viết đơn thư tố cáo tội ác “tố Cộng” của địch lên Ủy hội Quốc tế, gây dư luận để vạch bộ mặt phản dân hại nước của chính quyền miền Nam. Ở miền núi, dưới sự lãnh đạo của Ban Cán sự miền Tây, phong trào đấu tranh chống địch “tố Cộng” của đồng bào dân tộc thiểu số 4 huyện Trà My, Phước Sơn, Hiên, Giằng diễn ra khá quyết liệt, hình thức đấu tranh phổ biến là bất hợp tác với địch. Đồng bào lợi dụng tập tục kiêng cữ để tránh học tập “tố Cộng”; dùng lý lẽ đơn giản nhưng sắc bén đập lại luận điệu xuyên tạc, nói xấu cách mạng, nói xấu Bác Hồ của địch. Chúng treo ảnh Bác Hồ bên cạnh ảnh Ngô Đình Diệm rồi cho đồng bào thảo luận xem ai tốt, ai xấu. Đồng bào trả lời cả hai đều tốt: “Ông Hồ Chí Minh tốt vì ông có tài lãnh đạo cả nước đánh thắng Tây, thắng Nhật rồi lại thắng Tây. Ngày đêm lo cho dân, không nghĩ đến mình nên phải gầy yếu. Hồ Chí Minh gầy nhưng bụng ông tốt (...). Còn ông Diệm, ông béo tốt, ví như người làng tôi có nuôi một con heo thiến mập ú, ai xem cũng khen: Con heo hết lớn ấy béo quá” [9, tr. 339]. Vận dụng triệt để phương châm đấu tranh “lấy dọa dẫm chống dọa dẫm”, đồng bào phao tin “giặc mùa”, gài thò, cắm chông, đặt bẫy ở khắp bìa rừng, xung quanh nương rẫy để ngăn chặn sự lùng sục của địch. Bên cạnh đó, phong trào chống địch thiết lập bộ máy ngụy quyền, chống dồn dân cũng diễn ra trong thế giằng co quyết liệt, tiêu biểu là cuộc đấu tranh loại bỏ hai tên Lý, Dầu (tay sai của địch) ra khỏi bộ máy hành chính ở miền Phước Sơn; đồng bào thôn Pa Dương (huyện Giằng) đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ để phá bỏ khu dồn dân Thạnh Mỹ. Các cuộc đấu tranh kiên quyết của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi đã làm thất bại chiến dịch “Thượng du vận” của địch, vùng căn cứ cách mạng được giữ vững, góp phần to lớn vào việc gìn giữ và phát triển lực lượng cách mạng của tỉnh. Nhìn chung, phong trào đấu tranh chống chính sách “tố Cộng” của chính quyền Ngô Đình Diệm ở Quảng Nam Đà Nẵng trong hai năm 1955-1957 diễn ra rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, ở bên ngoài vào cả bên trong nhà tù, với nhiều hình thức cụ thể phong phú, lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham gia. Đặc biệt, phong trào đã thể hiện mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và dân, tình đoàn kết Kinh - Thượng trong một mặt trận chung chống chính sách “tố Cộng” của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong phong trào đấu tranh đã xuất hiện hình thức vũ trang tự vệ kết hợp với đấu tranh chính trị để chống lại bạo lực của kẻ thù. Nhờ đó, thời gian sau này địch không còn công khai bắn giết, tra tấn người vô tội như trước nữa. Dẫu phải chịu nhiều hi sinh, tổn thất nhưng phong trào đấu tranh chống địch “tố Cộng” trong hai năm 1955-1957 ở Quảng Nam Đà Nẵng có một ý nghĩa rất quan trọng, góp phần làm thất bại chính sách "tố Cộng" thâm độc của chính quyền Ngô Đình Diệm, cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân Quảng Nam Đà Nẵng trong những năm sau đó. ĐẤU TRANH CHỐNG CHÍNH SÁCH “TỐ CỘNG” CỦA CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM... 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng (8/1955). Báo cáo tình hình trong tỉnh Quảng Nam (tháng 5, 6, 7/1955). Kí hiệu tài liệu G-III-53. [2] Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng (28/12/1955). Báo cáo sơ kết kinh nghiệm đấu tranh chống "tố Cộng" ở Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam. Kí hiệu tài liệu Y-III- 46. [3] Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng (23/5/1965). Báo cáo về quá trình phát triển phong trào trong tỉnh từ khi hòa bình lập lại đến nay (1954-3/1965). Kí hiệu tài liệu G-7+8-III. [4] Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng (1/1976). Đề cương cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở Quảng Nam Đà Nẵng. Kí hiệu tài liệu Y-V-37. [5] Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng (12/1960). Đề cương tập huấn hệ thống tình hình (từ 1954-1960). Kí hiệu tài liệu G-V-54. [6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ huyện Điện Bàn (2003). Lịch sử Đảng bộ huyện Điện Bàn. NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng. [7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ huyện Tiên Phước (1993). Lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Tiên Phước (1858-1975). NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng. [8] Nhiều tác giả ( ). Quảng Nam - Đà Nẵng 30 năm chiến đấu và chiến thắng 1945- 1975, Tập II. NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. [9] Tỉnh uỷ Quảng Nam, Thành uỷ Đà Nẵng (1997). Những ngày giữ lửa - Khởi đầu cuộc đụng đầu lịch sử giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng 1954-1959. NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng. Title: COMBATING “TO CONG” POLICY OF THE NGO DINH DIEM ADMINISTRATION IN QUANG NAM DA NANG (1955-1957) Abstract: After setting up the basic structure is complete domination of Da Nang in Quang Nam, the Ngo Dinh Diem administration where the key variable for policy implementation "To Cong”. Within two years (1955-1957), before the tricks “To Cong” of the fiercest enemies, the people of Quang Nam Da Nang was determined to fight the fire with a flaming spirit. Movement occurs widely, attracted mass participation struggling with many forms of rich, flexible and creative. Although it suffered heavy losses, but the movement has gradually contributed to frustrating the policy "To Cong" wicked of the Ngo Dinh Diem administration, expressed indomitable fighting spirit of the people of Quang Nam Da Nang. HÀ THỊ HẢI Học viên Cao học, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế. Địa chỉ: Số nhà 79, Trần Hưng Đạo, Thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam. ĐT: 01665.149249. Email: tranvanvhdl@gmail.com.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf18_275_hathihai_13_ha_thi_hai_8987_2021123.pdf