Dầu khí, địa chất - Chương 2: Những nguyên tắc chung để nghiên cứu và phân loại đất đá trong địa chất công trình
Mọi loại đất đá bị khai đào, làm hố móng, làm vật liệu xây dựng
nền đường, đê, đập đất, hoặc nằm trong phạm vi tác dụng của
công trình và các biện pháp xây dựng thường được gọi là đất
nền.
Tuy nhiên có nhiều quan điểm khác nhau.
Theo N.M. Filatov – đất nền là những tầng dưới lớp mặt của các
loại đất đá khác nhau, nằm trong đới vỏ phong hóa hiện đại.
Theo K.I. Lukasev – đất nền là những sản phẩm vỡ vụn rời xốp
của đá phun trào và biến chất hợp thành vỏ phong hóa của
thạch quyển.
15 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Dầu khí, địa chất - Chương 2: Những nguyên tắc chung để nghiên cứu và phân loại đất đá trong địa chất công trình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 2
NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG
ĐỂ NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN LOẠI
ĐẤT ĐÁ TRONG ĐỊA CHẤT CÔNG
TRÌNH
1. Đất đá làm nền
• Trong thực tiễn xây dựng, đất đá được sử dụng làm nền thiên
nhiên, môi trường hoặc vật liệu xây dựng cho các loại công trình.
Vì vậy, nghiên cứu đất đá trong ĐCCT đều nhằm nghiên cứu độ
bền, mức độ biến dạng, độ ổn định và độ ngấm nước của chúng
dưới tác dụng của các quá trình tự nhiên.
• Độ bền là tính chất của đất đá chống lại sự phá hoại dưới tác
dụng của tải trọng.
• Mức độ biến dạng được đặc trưng bằng sự thay đổi hình dạng kết
cấu và thể tích của đất đá;
• Độ ổn định là khả năng đất đá giữ nguyên được trạng thái vật lý,
độ bền hoặc sự cân bằng cho trước dưới tác dụng của các lực
khác nhau (phong hóa, trọng lực);
• Độ ngấm nước – tính chất cho nước ngấm qua.
•
• Những tính chất quan trọng nêu trên là do điều kiện lịch sử tự nhiên
hình thành chúng (tức điều kiện thế nằm, thành phần, kiến trúc, cấu
tạo và trạng thái vật lý) quyết định, cho nên việc nghiên cứu đất đá
trong ĐCCT cần phải mang tính chất thạch học.
• Quan điểm nghiên cứu đất đá trong ĐCCT như vậy còn do đất đá
trong vỏ Trái Đất thường xuyên bị biến đổi đáng kể dưới tác dụng
của các quá trình địa chất tự nhiên (sinh đá, biến chất, phá hủy kiến
tạo, khe nứt, phong hóa …) do vậy nghiên cứu thạch học trong
ĐCCT khác với thạch học chính thống.
• Cũng cần xét tới các yếu tố nhân tạo phát sinh khi xây dựng công
trình như khi đào hố sâu, khai thác ngầm trong đất, khi dỡ tải và làm
giảm độ chặt, khi tác dụng tải trọng và nén chặt thêm, tháo khô, làm
thay đổi độ ẩm, tăng hay giảm ảnh hưởng của nước dưới đất, thay
đổi chế độ nhiệt của đất đá …
Phương hướng nghiên cứu ĐCCT đòi hỏi:
1. Nghiên cứu chi tiết toàn bộ mặt cắt đất đá trong phạm vi đới
chịu nén dưới tác dụng của công trình hoặc trong phạm vi ảnh
hưởng của nó.
2. Tách trong mặt cắt ra tất cả những loại đất đá có các dấu hiệu
thạch học và chất lượng xây dựng khác nhau nhiều, không kể
chiều dày và sự phân bố của chúng. Đặc biệt lưu ý tách các
loại đất yếu theo quan điểm xây dựng.
3. Nghiên cứu không riêng gì các dấu hiệu thạch học của đất đá
mà cả trạng thái vật lý và các tính chất cơ lý của chúng.
4. Nghiên cứu đất đá ở trạng thái tự nhiên với kết cấu và độ ẩm tự
nhiên, trong điều kiện sũng nước… Trong những trường hợp đất
đá được sử dụng làm vật liệu xây dựng thì có thể nghiên cứu
chúng trong tình trạng kết cấu bị phá hoại.
5. Xét đến và phát hiện sự thay đổi thành phần, trạng thái và tính
chất đất đá dưới tác dụng của công trình và dự báo những biến
đổi đó,
6. Aùp dụng rộng rãi các phương pháp chuyên môn ở trong phòng
và ngoài trời để nghiên cứu tính chất của đất đá kể cả những
phương pháp mới còn chưa ứng dụng trong địa chất.
7. Tuân theo một trình tự nhất định trong việc nghiên cứu đất đá.
Khái niệm đất nền:
Mọi loại đất đá bị khai đào, làm hố móng, làm vật liệu xây dựng
nền đường, đê, đập đất, hoặc nằm trong phạm vi tác dụng của
công trình và các biện pháp xây dựng thường được gọi là đất
nền.
Tuy nhiên có nhiều quan điểm khác nhau.
Theo N.M. Filatov – đất nền là những tầng dưới lớp mặt của các
loại đất đá khác nhau, nằm trong đới vỏ phong hóa hiện đại.
Theo K.I. Lukasev – đất nền là những sản phẩm vỡ vụn rời xốp
của đá phun trào và biến chất hợp thành vỏ phong hóa của
thạch quyển.
V.K. Đmokhovski – đất nền là tất cả đất đá hợp nên phần trên
của vỏ trái đất khi chúng được sử dụng để làm nền cho các
công trình bên trên.
2. Phân loại đất đá trong địa chất công trình
• Phân loại đất đá trong ĐCCT cũng là một phương tiện và
phương pháp nhận thức chúng. Phân loại cần thiết cho những
mục đích sau:
1. Để phân chia toàn bộ tính chất đa dạng của đất đá gặp trong
thiên nhiên ra thành từng nhóm khác biệt theo các dấu hiệu về
nguồn gốc và thạch học và chất lượng xây dựng, để khi dùng
bảng phân loại có thể đánh giá được sơ bộ đất đá về mặt
ĐCCT
2. Để lập các bản đồ, mặt cắt và sơ đồ ĐCCT;
3. Để xác định thành phần, khối lượng, phương pháp và phương
hướng nghiên cứu đất đá về mặt ĐCCT;
4. Để lựa chọn phương pháp cải thiện các tính chất của đất đá
• Có hệ thống phân loại chuyên môn và tổng quát.
• Các hệ thống phân loại chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu
trong một lĩnh vực nào đó của công tác xây dựng. Các hệ phân
loại này thường dựa vào một dấu hiệu nào đó của đất đá và
trong trường hợp đó thường phân chia đất đá ra tương đối chi
tiết.
• Các hệ thống phân loại tổng quát được sử dụng vào các lĩnh vực
xây dựng khác nhau, có xét tới một số hoặc nhiều dấu hiệu của
đất đá. Trong các hệ phân loại này thường phân biệt tất cả các
loại đất đá thông dụng nhất và nhận xét chúng về mặt xây dựng
ở mức độ chi tiết nào đó. Dĩ nhiên, hệ phân loại tổng quát kém tỉ
mỉ hơn so với phân loại chuyên môn.
• Vì vậy, hệ phân loại chuyên môn gần như là bổ sung cho hệ
phân loại tổng quát.
• Trong các hệ phân loại chuyên môn thì thông dụng nhất là
những hệ sau:
1. Phân loại theo sự ổn định của đất đá ở mái dốc dùng trong thiết
kế xây dựng đường đắp, đường đào, đê thấp và những công
trình bằng đất thông qua góc mái dốc tự nhiên;
2. Phân loại theo khả năng chịu tải của đất đá được sử dụng khi
thiết kế và xây dựng móng công trình.
3. Phân loại theo biện pháp và khả năng khai thác đất đá được sử
dụng khi thực hiện các công việc làm đất khác nhau vì loại đất
quyết định giá thành 1m3 công tác này.
4. Phân loại theo độ kiên cố của đất đá (đặc trưng bởi sức chống
lại lực phá hoại) dùng trong công tác mỏ.
5. Phân loại theo mức độ ngấm nước hoặc hấp thụ nước
Trong những hệ thống phân loại tổng quát có các phân loại của
N.N. Maxlov, E.M. Xergeev và F.P. Xavarenski.
* Phân loại của N.N. Maxlov
•Đất
đá
Lôùp ñaù cöùng
Lôùp ñaù nöûa
cöùng
Lôùp ñaát rôøi
Lôùp ñaát loaïi
seùt
Lôùp ñaát bò
neùn luùn
nhieàu
•Nhóm chịu nước
•Nhóm chịu nước
•Nhóm chịu nước
•Nhóm chịu nước
•Nhóm chịu nước
•Nhóm không chịu nước
•Nhóm không chịu nước
•Nhóm không chịu nước
•Nhóm không chịu nước
•Nhóm không chịu nước
Bảng II.2. Phân loại tổng quát đất đá (E.M. Xergeev)
Lôùp Nhoùm Phuï nhoùm
Ñaù coù
lieân
keát
cöùng
acmaM Saâu (xaâm nhaäp)
Noâng ( Phun traøo)
Bieán chaát Bieán chaát khu vöïc
Bieán chaát tieáp xuùc
Traàm tích ñöôïc
gaén keát
Hoøn to ñöôïc gaén keát
Haït nhoû ñöôïc gaén keát
Loaïi seùt vaø loaïi buïi ñaõ hoùa
cöùng
Traàm tích hoùa
hoïc vaø sinh hoùa
ilitS
Saét
acbonatC
ulfatS
aloitH
Bảng II.2. Phân loại tổng quát đất đá (E.M. Xergeev)
(tiếp theo)
Lôùp Nhoùm Phuï nhoùm
Ñaù
khoâng
coù lieân
keát
cöùng
Ñaát loaïi seùt
vaø loaïi buïi
seùt
Seùt
Hoaøng thoå
Ñaát hoøn
maûnh khoâng
gaén keát
Hoøn maûnh to
Caùt
Ñaát
Maët
Ñaát
Maët
Thuoäc töøng ñôùi
Trung gian giöõa caùc ñôùi
Ñaát
nhaân taïo
Ñaát nhaân taïo
Caùc taàng vaên hoùa
Phuø sa
Ñaép
Do con ngöôøi caûi taïo
Do con ngöôøi laøm xấu ñi
3. Cơ sở phân loại đất đá theo địa chất công trình
• Dấu hiệu địa chất tự nhiên để phân chia đất đá là nguồn gốc. Do
vậy ta có đá macma, biến chất, trầm tích.
• Mỗi kiểu nguồn gốc đều có những dấu hiệu và tính chất đặc trưng
riêng;
• Dấu hiệu và tính chất đó là:
• 1. Thành phần khoáng vật;
• 2. Kiến trúc, cấu tạo;
• 3. Điều kiện thế nằm;
• 4. Trạng thái vật lý và tính chất cơ lý.
• Có thể hợp nhất các kiểu nguồn gốc và thạch học khác nhau của
đất đá thành những nhóm theo các t/c cơ lý.
• Căn cứ theo t/c cơ lý có thể chia thành 5 nhóm sau:
• 1. Đá rắn chắc (đá cứng);
• 2. Đá tương đối rắn chắc (đá nửa cứng);
• 3. Đất rời xốp;
• 4. Đất mềm dính;
• 5. Đất đá có thành phần, trạng thái và t/c đặc biệt
• Trong cách phân loại này (Phân loại Xavarenski được Lomtadje sửa
đổi và bổ sung) nhận thấy có sự thay đổi chất lượng xây dựng từ
nhóm 1 tới nhóm 5, có sự mất đi một số dấu hiệu và tính chất, xuất
hiện một số dấu hiệu và tính chất mới.
• Đá cứng là loại hoàn hảo nhất về mặt xây dựng. Độ bền và độ ổn
định cao, độ biến dạng và độ ngấm nước bé;
• Đá nửa cứng có độ bền và độ ổn định thấp hơn, độ biến dạng và độ
ngấm nước cao hơn. Chúng bị nứt nẻ nhiều hoặc có hang hốc,
không đồng nhất và có tính dị hướng rõ rệt;
• Đất rời xốp và mềm dính có độ bền và độ ổn định thấp, độ biến
dạng lớn, một số ngấm nước mạnh. Chúng chủ yếu có tuổi đệ Tứ.
• Đất đá có thành phần, trạng thái và tính chất đặc biệt thông
thường yếu về mặt xây dựng. (Xem 2.1)
• (Xem bảng II.3 sách “Thạch luận công trình” Lomtadje)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 58_compatibility_mode__0571.pdf