Các trang trại chăn nuôi lợn trên địa bàn
huyện Văn Giang đang phát triển mạnh chiếm
93,75% tổng số trang trại chăn nuôi của toàn
huyện. Các trang trại lợn được thành lập chủ
yếu vào giai đoạn 2000 – 2010 theo 4 kiểu hệ
thống là: Vườn cây – Ao cá – Chuồng lợn; Ao
cá – Chuồng lợn; Vườn cây – Chuồng lợn và
hệ thống chỉ có Chuồng lợn.
Các trang trại lợn trên địa bàn huyện Văn
Giang có diện tích biến động lớn với bình
quân là hơn 1ha đối với 2 hệ thống VAC và
AC và từ 500 – 1000 m2 đối với 2 hệ thống
VC và C. Số lượng lợn nuôi trong các trang
trại dao động từ 208 – 630 con/trang trại.
Hiện nay có khá nhiều các hình thức xử lý
chất thải được áp dụng tại các trang trại lợn
trên địa bàn huyện Văn Giang. Trong đó tỷ lệ
áp dụng của các biện pháp chính lần lượt là:
cho cá ăn (52,38%), biogas (47,62%); bón
cho cây (38,10%); thu phân để bán (28,57%)
và ủ compose là 9,52. Tuy nhiên lượng phân
thải từ các trang trại vẫn chưa được xử lý triết
để vẫn có khoảng 28,57% trang trại thải bỏ
trực tiếp chất thải ra ngoài môi trường.
9 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình hình xử lý chất thải tại các trang trại chăn nuôi lợn: Trường hợp nghiên cứu tại huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cao Trƣờng Sơn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 73 - 81
73
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH XỬ LÝ CHẤT THẢI
TẠI CÁC TRANG TRẠI CHĂN NUÔI LỢN: TRƢỜNG HỢP NGHIÊN CỨU
TẠI HUYỆN VĂN GIANG, TỈNH HƢNG YÊN
Cao Trƣờng Sơn, Hồ Thị Lam Trà
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
TÓM TẮT
Nghiên cứu này đƣợc thực hiện tại huyện Văn Giang, tỉnh Hƣng Yên nơi có tỷ lệ các trang trại
chăn nuôi phát triển mạnh trong những năm qua nhằm: đánh giá tình hình xử lý chất thải và đề
xuất các biện pháp bảo vệ môi trƣờng giúp phát triển bền vững các trang trại chăn nuôi lợn. Các
trang trại lợn ở đây đƣợc thành lập chủ yếu trong giai đoạn 2000-2010 theo 4 kiểu hệ thống: VAC
(Vƣờn cây – Ao cá – Chuồng lợn); AC (Ao cá – Chuồng lợn); VC (Vƣờn cây – Chuồng lợn) và C
(hệ thống chỉ có Chuồng lợn). Các hình thức xử lý chất thải tại các trang trại lợn khá phong phú
với các tỷ lệ tƣơng ứng là: cho cá ăn (52,38%); biogas (47,62%); bón cho cây (38,10%); ủ
compose (9,52%)Tuy nhiên chất thải của các trang trại lợn chƣa đƣợc xử lý triệt để khi vẫn còn
28,57% trang trại thải bỏ chất thải ra ngoài môi trƣờng mà không qua xử lý. Nhìn chung các biện
pháp xử lý đều phù hợp và có hiệu quả cao nhƣng có hạn chế chung là không xử lý triệt để đƣợc
lƣợng chất thải phát sinh. Để bảo vệ môi trƣờng tại các trang trại chăn nuôi lợn cần sử dụng đồng
bộ và phối hợp các biện pháp xử lý chất thải nói trên.
Từ khóa: Chất thải chăn nuôi, ô nhiễm, huyện Văn Giang, trang trại lợn, xử lý chất thải
MỞ ĐẦU*
Đặc điểm nổi bật nhất trong thời gian qua của
ngành chăn nuôi nƣớc ta là chuyển từ hình
thức chăn nuôi nhỏ lẻ tại hộ gia đình sang
chăn nuôi tập trung theo quy mô trang trại.
Hình thức chăn nuôi tập trung theo quy mô
trang trại dần đƣợc hình thành và có xu hƣớng
phát triển mạnh, nhất là khi Chính phủ ban
hành Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày
02/02/2000 về Phát triển kinh tế trang trại.
Tính đến năm 2001 nƣớc ta mới chỉ có 1.761
trang trại chăn nuôi thì đến năm 2010 đã tăng
lên là 23.558 trang trại, trong đó khu vực
đồng bằng sông Hồng có tổng số 10.277 trang
trại chiếm 42,67% tổng số trang trại chăn
nuôi của cả nƣớc (Cục Chăn nuôi, 2011).
Phát triển các trang trại chăn nuôi là xu hƣớng
phổ biến trên thế giới và là hƣớng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp của nƣớc ta.
Trong các loại vật nuôi, trang trại chăn nuôi
lợn chiếm tỷ lệ lớn nhất với tổng số 7.475
trang trại (chiếm 42,2%/tổng số trang trại
*
Tel:
chăn nuôi). Trong đó, miền Bắc có 3.069
trang trại, chiếm 41,1%, miền Nam có 4.406
trang trại, chiếm 58,9% (Cục Chăn nuôi,
2008). Trong 3 năm gần đây, quy mô chăn
nuôi lợn trong các trang trại có xu hƣớng tăng
nhanh do có tƣơng quan giữa tỷ lệ lợi nhuận
và số lƣợng đầu con chăn nuôi. Quy mô chăn
nuôi lợn nái phổ biến từ 20-50 con/trang trại,
chiếm 71,3% trang trại chăn nuôi lợn nái và
quy mô lợn thịt phổ biến từ 100-200
con/trang trại chiếm 75,5% trang trại chăn
nuôi lợn thịt (Đào Lệ Hằng, 2008; Phùng
Đức Tiến và cộng sự, 2009).
Việc hình thành và phát triển mạnh các trang
trại chăn nuôi lợn ở nƣớc ta đã đem lại hiệu
quả kinh tế cao, tăng năng suất lao động và
thu nhập của ngƣời nông dân. Tuy nhiên, các
trang trại chăn nuôi lợn cũng ảnh hƣởng xấu
đến chất lƣợng môi trƣờng xung quanh bởi
các loại chất thải rắn, lỏng và khí phát sinh
ngày càng nhiều và không đƣợc xử lý triệt để.
Trƣớc tình hình đó đề tài này đƣợc thực hiện
nhằm: đánh giá tình hình xử lý chất thải và đề
xuất các biện pháp bảo vệ môi trƣờng giúp phát
triển bền vững các trang trại chăn nuôi lợn.
Cao Trƣờng Sơn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 73 - 81
74
ĐỐI TƢỢNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào các trang trại chăn
nuôi lợn đƣợc xác định theo Thông tƣ số
27/2011/BNNPTNT.
Khu vực nghiên cứu
Nghiên cứu đƣợc tiến hành tại huyện Văn
Giang nơi có mật độ các trang trại chăn nuôi
cao nhất của tỉnh Hƣng Yên.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: từ các
công trình nghiên cứu, các báo cáo, bài báo
khoa học và các số liệu thống kê sẵn có liên
quan tới đề tài.
Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp:
Phƣơng pháp điều tra bảng hỏi: Tiến hành
điều tra bảng hỏi tại 42/60 trang trại chăn
nuôi lợn của huyện Văn Giang.
Phƣơng pháp khảo sát hiện trƣờng: Tiến hành
khảo sát các trang trại nuôi Lợn trên địa bàn
huyện Văn Giang nhằm quan sát, chụp ảnh và
thu thập các thông tin liên quan tới đề tài.
Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu thu
thập đƣợc tổng hợp và xử lý thống kê trên
phần mềm Excel 2007.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Tình hình phát triển và đặc điểm của các
trang trại chăn nuôi lợn trên địa bàn
huyện Văn Giang
Tình hình phát triển
Theo số liệu thống kê của phòng Nông nghiệp
huyện Văn Giang tính đến cuối năm 2011
toàn huyện có tổng số 128 trang trại. Trong
đó, số trang trại chăn nuôi là 64 trang trại
chiếm 28% (hình 1). Điều đáng chú ý là trong
số 64 trang trại chăn nuôi của huyện Văn
Giang thì có tới 60 trang trại chăn nuôi lợn,
chỉ có ba trang trại chăn nuôi bò và 1 trang
trại chăn nuôi gà. Điều này cho thấy chăn
nuôi lợn chiếm ƣu thế tuyệt đối trong các
trang trại chăn nuôi của huyện Văn Giang.
Các trang trại chăn nuôi lợn đƣợc phát triển
theo 4 kiểu hệ thống khác nhau: hệ thống
Vƣờn cây – Ao cá – Chuồng lợn (VAC); hệ
thống Ao cá – Chuồng lợn (AC); hệ thống
Vƣờn cây – Chuồng lợn và hệ thống chỉ có
Chuồng nuôi lợn (C). Trong đó, tỷ lệ các
trang trại phát triển theo hệ thống VAC chiếm
tỷ lệ cao nhất với 38% (hình 2).
Hình 1: Cơ cấu các loại hình trang trại trên địa
bàn huyện Văn Gian
Hình 2: Các hệ thống trang trại chăn nuôi lợn
trên địa bàn huyện Văn Giang
Đặc điềm chuồng trại
Theo kết quả điều tra khảo sát tại 42 trang trại
chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện Văn Giang
cho thấy đại đa số các trang trại này đƣợc
thành lập vào trong giai đoạn 2000 – 2010 với
tỷ lệ là 76,19 % (32/42 trang trại), tỷ lệ các
trang trại đƣợc thành lập trƣớc năm 2000 và
sau năm 2010 thấp hơn khá nhiều với lần lƣợt
là 14,29% (6/42 trang trại) và 9,52% (4/42
trang trại). Giải thích cho kết quả này là do
vào thời điểm năm 2000 Chính phủ đã ban
Cao Trƣờng Sơn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 73 - 81
75
hành Nghị quyết số 03/2000 về Phát triển
kinh tế trang trại khiến cho số lƣợng các trang
trại nói chung và trang trại nuôi lợn nói riêng
tại nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc tăng lên
đáng kể.
Cũng theo kết quả điều tra thì tỷ lệ các trang
trại chăn nuôi lợn nằm bên ngoài khu dân cƣ
của Văn Giang chiếm tỷ lệ khá cao 66,67%
(28/42), tỷ lệ trang trại nằm trong khu dân cƣ
là 33,33% (14/42) trang trại. Các trang trại
nằm trong khu dân cƣ thƣờng tập trung chủ
yếu ở hệ thống C với tỷ lệ trên 70%, điều này
tƣơng đối dễ hiểu bởi khi thiết kế trong khu
dân cƣ thì diện tích đất thƣờng khá nhỏ nên
chỉ có thể phát triển theo hệ thống chuồng
nuôi lợn đơn lẻ.
Về thiết kế chuồng trại, đại đa số chuồng nuôi
của các trại lợn đƣợc thiết kế theo kiểu kiên
cố đạt tỷ lệ 95,52%; chỉ có 4,76% chuồng
nuôi đƣợc thiết kế theo kiểu bán kiên cố. Diện
tích bình quân của các trang trại cũng có sự
biến động lớn. Trong khi các hệ thống VAC
và AC có diện tích trung bình là trên 1ha thì
các hệ thống VC và C chỉ có diện tích vào
khoảng 500 – 1.000 m2. Quy mô lợn nuôi
trong các hệ thống cũng có những biến động
nhất định. Số lƣợng lợn nuôi bình quân trong
các trang trại là từ 208 – 630 con/trang trại
(bảng 1). Nếu tính toán theo hệ số phát thải
của Cục Chăn nuôi thì bình quân mỗi ngày
một con lợn thải ra 2 kg phân/ngày đêm và
0,8 L nƣớc thải/ngày đêm (Cục chăn nuôi,
2008) thì các trang trại trên địa bàn huyện
Văn Giang thải ra khoảng gần 3.0 tấn chất
thải rắn và trên 600 m3 nƣớc thải. Đây là
nguồn thải lớn nếu không đƣợc quản lý triệt
để sẽ gây nguy cơ ô nhiễm môi trƣờng
nghiêm trọng.
Bảng 1. Số lượng lợn nuôi trong các hệ thống trang trại trên địa bàn huyện Văn Giang
Hệ thống Giá trị Lợn thịt (con) Lợn nái (con) Tổng (con)
VAC
(n = 16)
Nhỏ nhất 100 0 100
Lớn nhất 1.000 70 1.000
Trung bình 365 10 375
Trung vị 200 0 235
Sai số chuẩn 69,44 5,42 69,98
Độ lệch chuẩn 277,75 21,68 279,93
AC
(n = 8)
Nhỏ nhất 160 0 160
Lớn nhất 1.600 100 1.700
Trung bình 603,75 26,5 630
Trung vị 310 1 330
Sai số chuẩn 187,29 13,94 193,37
Độ lệch chuẩn 529,74 39,44 546,92
VC
(n = 8)
Nhỏ nhất 0 0 100
Lớn nhất 400 150 415
Trung bình 186 21,88 208
Trung vị 200 0 205
Sai số chuẩn 42,8 18,41 35,96
Độ lệch chuẩn 121,06 52,09 101,7
C
(n = 10)
Nhỏ nhất 100 0 103
Lớn nhất 420 73 420
Trung bình 217 15,4 232
Trung vị 200 3 230
Sai số chuẩn 31,27 8,63 31,58
Độ lệch chuẩn 98,89 27,29 99,87
Cao Trƣờng Sơn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 73 - 81
76
Bảng 2. Tình hình xử lý chất thải tại các trang trại chăn nuôi lợn trên địa bàn huyện Văn Giang
Hình thức
xử lý chất thải
VAC AC VC C Tổng
Hộ % Hộ % Hộ % Hộ % Hộ %
Biogas 6 37,50 2 25,00 6 75,00 6 60,00 20 47,62
Compose 2 12,50 0 0,00 2 25,00 0 0,00 4 9,52
Thu gom để bán 5 31,25 1 12,50 4 50,00 2 20,00 12 28,57
Bón cho cây trồng 9 56,25 1 12,50 5 62,50 1 10,00 16 38,10
Cho cá ăn 14 87,50 8 100,00 0 0,00 0 0,00 22 52,38
Thải bỏ ra ngoài
môi trƣờng
2 12,5 0 0 4 50,00 6 60,00 12 28,57
Đánh giá tình hình xử lý chất thải tại các
trang trại lợn huyện Văn Giang
Kết quả điều tra và khảo sát cho thấy hiện tại
có khá nhiều các biện pháp xử lý chất thải
đƣợc áp dụng tại các trang trại chăn nuôi lợn
trên địa bàn huyện Văn Giang, trong đó có thể
kể tới các biện pháp phổ biến nhất nhƣ:
biogas, ủ phân compose, thu gom phân để
bán, bón cho cây trồng, làm thức ăn cho
cá...Tuy nhiên tỷ lệ các trang trại thải bỏ trực
tiếp chất thải ra ngoài môi trƣờng vẫn còn ở
mức cao (bảng 2).
Biogas:
Xây dựng các hầm biogas để xử lý chất thải
đã đƣợc áp dụng nhiều ở các trang trại chăn
nuôi trên địa bàn cả nƣớc. Theo kết quả điều
tra, tỷ lệ sử dụng hầm biogas tại các trang trại
lợn của huyện Văn Giang là 47,62% (20/42
trang trại). Trong đó, các hệ thống VC và C là
những hệ thống có tỷ lệ sử dụng biogas cao
nhất với lần lƣợt là 75% và 60%. Các bể
biogas thƣờng đƣợc thiết kế với thể tích hiệu
dụng vào khoảng 10-50 m3 (trung bình là
18,05 m
3). Các bể biogas đã góp phần xử lý
đáng kể lƣợng chất thải phát sinh của các
trang trại lợn. Tuy nhiên, theo đánh giá của
các chủ trang trại do khối lƣợng chất thải phát
sinh lớn nên các hầm biogas không thể tiến
hành xử lý hết đƣợc. Tỷ lệ xử lý chất thải của
các bể biogas đạt bình quân 51,75%.
Về việc sử dụng các sản phẩm đầu ra của
biogas bao gồm khí gas và nƣớc thải thì 100%
các hộ có hầm biogas sử dụng khí gas để phục
vụ đun nấu trong trang trại, ngoài ra một tỷ lệ
nhỏ các trang trại (20%) còn sử dụng khí gas
để phát điện thắp sáng. Theo đánh giá của
ngƣời dân việc sử dụng gas để đun nấu và
phát điện giúp cho họ giảm đƣợc một lƣợng
chi phí đáng kể tiền mua gas và tiền điện.
Nƣớc thải sau biogas chủ yếu đƣợc ngƣời dân
thải bỏ trực tiếp ra ngoài môi trƣờng gây ô
nhiêm nƣớc mặt do nƣớc đầu ra của biogas
mặc dù đã đƣợc xử lý nhƣng vẫn có hàm
lƣợng BOD, COD và các chất dinh dƣỡng cao
(Lâm Vĩnh Sơn và Nguyễn Trần Ngọc Sơn,
2011; Vũ Đình Tôn và cộng sự, 2008). Tuy
nhiên, loại nƣớc này có thể đƣợc tận dụng tốt
cho việc tƣới cây hoặc đƣa xuống ao làm thức
ăn cho cá do các mầm bệnh hầu hết đã đƣợc
loại bỏ thông qua quá trình xử lý yếm khí
trong bể biogas. Mặc dù vậy theo kết quả điều
tra, thì chỉ có 10% các trang trại sử dụng nƣớc
sau biogas để tƣới cây (tập trung chủ yếu tại
hệ thống VC), 30% trang trại sử dụng để làm
thức ăn cho cá (thƣờng ở các hệ thống VAC
và AC), trong khi đó có tới 60% số hộ là thải
bỏ trực tiếp nƣớc thải sau biogas ra ngoài các
ao, kênh nƣớc tự nhiên xung quanh trang trại.
Đánh giá về tình hình hoạt động cũng nhƣ các
vấn đề gặp phải khi sử dụng hầm biogas của
các trang trại đƣợc trình bày trong bảng.
Theo kết quả bảng 3 có thể thấy có tới 65%
các trang trại cho rằng các bể biogas hoạt
động tốt và 25% cho rằng hoạt động bình
thƣờng, chỉ có 10% cho rằng hoạt động không
tốt. Về khả năng sinh khí có tới 70% cho rằng
lƣợng khí sinh ra là thừa, 20% cho là đủ và
chỉ có 10% cho là thiếu. Việc khí gas bị dƣ là
do hầu hết các trang trại mới chỉ sử dụng gas
để đun nấu mà chƣa sử dụng vào các mục
đích khác (chỉ có 20% sử dụng để phát điện).
Điều này dẫn đến việc các trang trại phải thải
bớt lƣợng khí gas dƣ thừa ra ngoài môi
Cao Trƣờng Sơn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 73 - 81
77
trƣờng. Ngoài tình trạng dƣ thừa khí gas thì
trong quá trình sử dụng hầm biogas các trang
trại còn gặp các vấn đề nhƣ bể biogas không
sinh khí (10%), bể biogas bị tràn (15%) và bể
bị rạn nứt (5%), còn lại 70% các trang trại có
hầm biogas cho rằng họ không gặp vấn đề gì.
Ủ phân compose
Theo kết quả điều tra tỷ lệ ủ phân compose để
xử lý chất thải là khá thấp với 9,5% (4/42
trang trại) trong đó tập trung chủ yếu tại hai
hệ thống AC (25%) và VAC (12,5%). Kết
quả này cũng đã đƣợc Phùng Đức Tiến và
cộng sự chỉ ra khi nghiên cứu về các trang trại
chăn nuôi lợn tại một số địa phƣơng trên cả
nƣớc. Để có thể ủ đƣợc phân compose thì cần
phải phân tách đƣợc chất thải rắn và chất thải
lỏng do đó chỉ có trang trại nào tiến hành
phân tách chất thải mới áp dụng biện pháp
này. Tuy nhiên, tỷ lệ phân tách chất thải tại
các trang trại lợn của Văn Giang khá thấp nên
việc ủ phân compose không đƣợc sử dụng
nhiều. Nguyên nhân là do phân lợn thƣờng rất
khó thu gom vì bị nát, dễ hòa tan cùng với
nƣớc tiểu và nƣớc rửa chuồng. Do đó, khối
lƣợng phân thu gom đƣợc để đem đi ủ là khá
ít. Về thời gian ủ theo các chủ trang trại là từ
8-25 ngày (trung bình 14,5 ngày) cũng do thời
gian của một mẻ ủ khá dài nên biện pháp này
cũng ít đƣợc sử dụng và tỷ lệ xử lý so với
tổng nguồn thải cũng rất ít.
Đánh giá về kỹ thuật ủ phân compose thì cả 4
trang trại (100%) đều cho là dễ ủ và họ không
gặp khó khăn gì. Về chất lƣợng phân thì ¾
trang trại (75%) cho rằng chất lƣợng phân ủ
tốt, chỉ có 1 trang trại (25%) cho rằng chất
lƣợng phân ủ là bình thƣờng.
Khi đƣợc hỏi về tác dụng của biện pháp ủ
phân compose đối với xử lý phân thải thì cả 4
chủ trang trại (100%) đều đánh giá là tốt vì
phân sau ủ không còn mùi hôi thối, lại có thể
sử dụng tốt để bón cho cây, đất hoặc dễ bán
hơn là phân tƣơi.
Thu gom phân để bán
Đây là biện pháp thu gom chất thải rắn trong
những lần dọn chuồng, lƣợng phân rắn thu
đƣợc sẽ bán cho những hộ trồng trọt có nhu
cầu sử dụng phân. Biện pháp này cũng đƣợc
áp dụng khá phổ biến ở các trang trại lợn của
huyện Văn Giang với tỷ lệ là 28,57% (12/42
trang trại). Trong đó, tỷ lệ cao nhất là ở hệ
thống VC với 50%; tiếp đó là hệ thống VAC
31,25% và hệ thống C với 20%; tỷ lệ thấp
nhất là hệ thống AC với chỉ 12,5% (Bảng 4).
Bảng 3. Tình hình hoạt động và các vấn đề nảy sinh của bể biogas
trong các trang trại lợn huyện Văn Giang
Hạng mục Tình trạng Số trang trại Tỷ lệ (%)
Hoạt động
Tốt 13 65,00
Bình thƣờng 5 25,00
Không tốt 2 10,00
Lƣợng khí
sinh ra
Thừa 14 70,00
Đủ 4 20,00
Thiếu 2 10,00
Các vấn đề
gặp phải
Không sinh khí 2 10,00
Tràn bể 3 15,00
Rạn nứt 1 5,00
Không vấn đề gì 14 70,00
Bảng 4. Thông tin về hình thức thu gom phân để bán tại các trang trại lợn huyện Văn Giang
Giá trị
Nhỏ
nhất
Lớn
nhất
Trung
bình
Trung
vị
Sai số
chuẩn
Độ lệch
chuẩn
Tỷ lệ xử lý (%) 3 80 40,25 45 8,08 27,99
Tần suất thu gom (lần/ngày) 0,1 3 1,6 2 0,28 0,95
Thời gian thu gom (phút/lần) 20 180 84,17 75 11,96 41,44
Số bao thu gom đƣợc (bao/ngày) 0,2 30 6,06 4,5 2,28 7,91
Giá bán (1.000VNĐ/bao) 10 16 13,17 13,5 0,63 2,21
Cao Trƣờng Sơn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 73 - 81
78
Theo kết quả bảng 4 biện pháp thu gom phân
thải để bán có thể đáp ứng đƣợc trung bình là
40,25% lƣợng phân thải phát sinh của các
trang trại. Tuy nhiên khoảng dao động lại rất
lớn từ 3-80%. Trung bình các trang trại sẽ thu
gom phân thải là 1,6 lần mỗi lần mất khoảng
từ 20-180 phút (trung bình 84,14 phút) tùy
theo quy mô và số lƣợng vật nuôi của các
trang trại. Số lƣợng phân thu gom đƣợc trong
mỗi lần dọn chuồng là từ 0,2-30 bao (trung
bình là 6 bao) và giá bán phân dao động từ
10-16 nghìn đồng/bao.
Theo ý kiến đánh giá của 12 trang trại có áp
dụng biện pháp này thì có 9 trang trại cho là
biện pháp này hiệu quả và tốt. Lý do đƣợc
ngƣời dân đánh giá là tốt thì có 100% là do
thu đƣợc thêm kinh phí, khoảng 78.000
đồng/ngày (tính theo số liệu bảng 4) trong khi
đó chỉ có 55,59% (5 trang trại) cho là tốt vì
giảm thiểu đƣợc chất thải bảo vệ môi trƣờng.
Mặt khác có 3 trang trại mặc dù đang áp dụng
biện pháp thu gom phân nhƣng đánh hiệu quả
của biện pháp này chỉ ở mức bình thƣờng. Lý
do họ đƣa ra là việc thu dọn phân khá mất
thời gian (bình quân 84 phút/lần) đặc biệt là ở
các trang trại lớn. Mặt khác họ cũng cho rằng
phân lợn thƣờng rất khó thu gom, đặc biệt là
lợn thịt do thức ăn chủ yếu là thức ăn tinh nên
phân rất nát. Chỉ có lợn nái do thức ăn đƣợc
bổ sung thêm chất sơ nên phân rắn hơn và dễ
thu gom. Thêm vào đó việc thu gom phân
cũng khá vất vả và tƣơng đối bẩn đối với
những ngƣời thu gom.
Bón cho cây
Đây là biện pháp mà các trang trại sử dụng
trực tiếp phân và nƣớc thải của các chuồng
nuôi lợn để tƣới hoặc bón cho cây trồng. Đây
cũng là một trong những biện pháp đƣợc áp
dụng khá phổ biến với tỷ lệ các trang trại sử
dụng là 38,10%. Trong đó, biện pháp này
đƣợc sử dụng chủ yếu ở hai kiểu hệ thống VC
(62,50%) và VAC (56,25%); khá thấp ở hai
hệ thống AC (12,5%) và C (10%). Nguyên
nhân chủ yếu là do hai hệ thống VAC và VC
có bộ phận vƣờn cây còn hai hệ thống AC và
C không có vƣờn cây (bón cho cây ngoài
trang trại nên mất công và thời gian hơn).
Đánh giá về biện pháp này, hầu hết các chủ
trang trại đều cho là tốt do họ giảm đƣợc chi
phí mua phân bón cho cây trồng, cây trồng
nhờ đó cũng phát triển tốt và đất đai trong
trang trại của họ cũng đƣợc cải thiện. Tuy
nhiên, trên thực tế đây là biện pháp bón phân
không hợp vệ sinh bởi trong chất thải chuồng
lợn có chứa nhiều mầm bệnh nên khi bón trực
tiếp vào đất và cây trồng sẽ đem theo cả các
mầm bệnh này từ đó tiềm ẩn khả năng gây
bệnh cho con ngƣời cũng nhƣ khả năng ngộ
độc thực phẩm cao.
Sử dụng làm thức ăn cho cá
Đây là hình thức xử lý chất thải bằng cách
đƣa chất thải từ các chuồng lợn xuống ao
nhằm cung cấp thức ăn cho cá. Tỷ lệ các
trang trại áp dụng biện pháp này là 52,38%
cao nhất trong các biện pháp xử lý chất thải.
Tuy nhiên, biện pháp này chỉ áp dụng ở hai hệ
thống VAC và AC với các tỷ lệ rất cao lần
lƣợt là 87,5% và 100%. Biện pháp này góp
phần giải quyết đƣợc khoảng 76,73 % lƣợng
phân thải và nƣớc thải phát sinh trong các
trang trại lợn thuộc hệ thống VAC và AC.
Theo kết quả đánh giá thì có tới 21/25
(80,76%) chủ trang trại cho rằng biện pháp
này rất hiệu quả do vừa tiết kiệm đƣợc chi phí
mua thức ăn cho cá, vừa giải quyết đƣợc vấn
đề môi trƣờng, hơn nữa biện pháp này lại rất
đơn giản và không tốn nhiều công sức. Tuy
nhiên, cũng có 5/26 (19,24%) chủ trang trại
cho rằng biện pháp này chƣa đƣợc tốt lắm do
nếu đƣa quá nhiều chất thải xuống ao cá có
thể gây ô nhiễm nƣớc ao và làm ảnh hƣởng
đến sự sinh trƣởng của cá; hơn nữa việc sử
dụng phân thải làm thức ăn còn phải căn cứ
vào loại cá thả trong ao, thông thƣờng cá
Chim và Rô phi là hai loại cá thích hợp nhất;
ngoài ra cũng có chủ trang trại cho rằng lƣợng
phân từ chuồng nuôi lợn quá ít không đáp ứng
đƣợc nhu cầu của cá.
Thải bỏ ra ngoài môi trường
Đây thực chất là hình thức các trang trại
không tiến hành xử lý chất thải mà đem xả
thải trực tiếp vào môi trƣờng. Điểm xả thải
Cao Trƣờng Sơn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 73 - 81
79
thƣờng là các ao, mƣơng, kênh, rãnh nƣớc tự
nhiên xung quanh các trang trại. Việc xả thải
này chắc chắn sẽ tác động rất xấu đến môi
trƣờng do nguồn thải phát sinh lớn, liên tục
trong khi các nguồn tiếp nhận thƣờng hạn chế
và nhỏ hẹp.
Theo kết quả bảng 3 thì tỷ lệ các trang trại xả
thải trực tiếp chất thải ra ngoài môi trƣờng
vẫn ở mức khá cao 28,57%. Tỷ lệ này, thƣờng
tập trung cao ở các trang trại thuộc hệ thống
VC và C lần lƣợt là 50% và 60%.
Đề xuất một số giải pháp cải thiện tình
hình xử lý chất thải tại các trang trại chăn
nuôi lợn
Các biện pháp xử lý chất thải tại các trang trại
chăn nuôi lợn huyện Văn Giang hiện khá
phong phú và tƣơng đối phù hợp với trình độ
và điều kiện của ngƣời nông dân. Tuy nhiên,
nhƣợc điểm chung của các biện pháp này là
chƣa xử lý đƣợc triệt để nguồn thải phát sinh
do đó vẫn tác động xấu tới chất lƣợng môi
trƣờng xung quanh. Để cải thiện tình hình và
nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trƣờng chúng
tôi đề xuất một số giải pháp sau:
Giải pháp tổng quát:
Tiến hành quy hoạch phát triển các trang trại
chăn nuôi để tạo ra khu sản xuất chăn nuôi
của huyện. Từng bƣớc di chuyển các trang
trại lợn còn nằm trong khu dân cƣ ra ngoài
khu dân cƣ để hạn chế những tác động môi
trƣờng đến ngƣời dân.
Khuyến khích ngƣời dân phát triển chăn nuôi
lợn theo các hệ thống VAC và AC nhằm tạo
ra sự hỗ trợ giữa các hợp phần trong cùng một
hệ thống khác nhau. Trong đó, cần phải tính
toán phát triển một cách hợp lý, cân đối các
hợp phần trong một hệ thống.
Tiếp cận phƣơng thức quản lý tổng hợp chất
thải chăn nuôi trong đó tập trung đẩy mạnh
việc quay vòng và tái sử dụng nƣớc thải và
phân thải vừa để nâng cao hiệu quả kinh tế,
vừa bảo vệ môi trƣờng cho các trang trại.
Thiết lập các cơ chế hỗ trợ nguồn vốn cho các
trang trại chăn nuôi lợn. Trong đó cần tập
trung vào các cơ chế cho vay vốn trung và dài
hạn để các chủ trang trại có đủ nguồn vốn sản
xuất cũng nhƣ kinh phí để đầu tƣ cho các biện
pháp bảo vệ môi trƣờng.
Giải pháp cụ thể cho các trang trại chăn nuôi
huyện Văn Giang
Đa dạng hóa các hình thức xử lý chất thải
trong mỗi trang trại: Hiện nay các trang trại
thƣờng chỉ sử dụng 1 đến 2 biện pháp xử lý
chất thải đơn lẻ nên không giải quyết triết để
đƣợc nguồn thải phát sinh. Do đó sử dụng
cùng lúc nhiều biện pháp xử lý sẽ giúp các
trang trại không những xử lý triệt để đƣợc
nguồn thải mà còn giúp họ tăng cƣờng sử
dụng chất thải, tiết kiệm đƣợc chi phí và tạo
ra thu nhập tăng thêm.
Đối với hình thức thu gom phân và ủ
compose: cần phải tiến hành phân tách nguồn
phân thải và nƣớc thải. Để làm đƣợc điều này
cần phải thay đổi quy trình rửa và thiết kế
chuồng trại một cách hợp lý, cũng nhƣ thay
đổi khẩu phần ăn của lợn nuôi. Thông thƣờng
các biện pháp này nên áp dụng với các
chuồng nuôi lợn nái vì thức ăn của chúng có
nhiều chất xơ nên phân rắn và dễ thu gom
hơn.
Đối với biện pháp xử lý bằng bể biogas: cần
đƣa một lƣợng phân vừa đủ (không quá
nhiều, không quá ít) để bảo đảm bể biogas
hoạt động tốt. Nếu lƣợng phân thải quá lớn có
thể mở rổng thể tích bể hoặc kết hợp các biện
pháp xử lý khác để giảm đầu vào cho các bể
biogas. Hiện nay tình trạng dƣ thừa khí gas
đang khá phổ biến nên các trang trại cần tăng
cƣờng sử dụng gas nhƣ: dùng cho đun nấu,
phát điện, sƣởi ấm hoặc thu triết gas để bán
cho các hộ khác tránh xả thải khí gas thừa ra
ngoài môi trƣờng. Đối với nƣớc thải và chất
thải rắn sau biogas có thể sử dụng tốt để bón
cho cây trồng, bón ruộng hoặc đƣa xuống ao
làm thức ăn cho cá.
Đối với giải pháp cho cá ăn: hiện tại hầu hết
ngƣời dân đều đƣa trực tiếp phân tƣơi xuống
các ao để cho cá ăn. Tuy nhiên việc làm này
có thể gây nguy cơ ô nhiễm nƣớc ao do chất
thải chăn nuôi thƣờng bị phân hủy nhanh
trong nƣớc, mặt khác phân lợn tƣơi còn chứa
nhiều các mầm bệnh gây bệnh cho cá cũng
nhƣ cho con ngƣời. Vì vậy, trƣớc khi đƣa chất
thải xuống các ao cá các trang trại nên tiến
hành cho chất thải qua bể biogas, tiến hành ủ
phân, hoặc gom phân vào các bao tải và dìm
xuống đáy ao để phân thải có thể phân hủy
Cao Trƣờng Sơn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 73 - 81
80
một cách từ từ nhƣ vậy sẽ bảo đảm đƣợc vệ
sinh môi trƣờng cũng nhƣ chất lƣợng của các
ao nuôi cá.
Đối với hình thức bón cho cây: các trang trại
cũng phải tiến hành ủ phân hoai trƣớc khi bón
cho cây hoặc bón vào đất, không nên bón trực
tiếp phân tƣơi cho cây trồng và đồng ruộng do
cách làm này rất mất vệ sinh và tiềm ẩn nhiều
nguy cơ gây ô nhiễm môi trƣờng, ô nhiễm
thực phẩm.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
Các trang trại chăn nuôi lợn trên địa bàn
huyện Văn Giang đang phát triển mạnh chiếm
93,75% tổng số trang trại chăn nuôi của toàn
huyện. Các trang trại lợn đƣợc thành lập chủ
yếu vào giai đoạn 2000 – 2010 theo 4 kiểu hệ
thống là: Vƣờn cây – Ao cá – Chuồng lợn; Ao
cá – Chuồng lợn; Vƣờn cây – Chuồng lợn và
hệ thống chỉ có Chuồng lợn.
Các trang trại lợn trên địa bàn huyện Văn
Giang có diện tích biến động lớn với bình
quân là hơn 1ha đối với 2 hệ thống VAC và
AC và từ 500 – 1000 m2 đối với 2 hệ thống
VC và C. Số lƣợng lợn nuôi trong các trang
trại dao động từ 208 – 630 con/trang trại.
Hiện nay có khá nhiều các hình thức xử lý
chất thải đƣợc áp dụng tại các trang trại lợn
trên địa bàn huyện Văn Giang. Trong đó tỷ lệ
áp dụng của các biện pháp chính lần lƣợt là:
cho cá ăn (52,38%), biogas (47,62%); bón
cho cây (38,10%); thu phân để bán (28,57%)
và ủ compose là 9,52. Tuy nhiên lƣợng phân
thải từ các trang trại vẫn chƣa đƣợc xử lý triết
để vẫn có khoảng 28,57% trang trại thải bỏ
trực tiếp chất thải ra ngoài môi trƣờng.
Hầu hết các biện pháp xử lý chất thải đang sử
dụng phù hợp với trình độ kỹ thuật của các
trang trại, góp phần giảm thiểu đƣợc chất thải
phát sinh, tiết kiệm chi phí và tạo thêm thu
nhập cho ngƣời nông dân. Tuy nhiên, chúng
có nhƣợc điểm chung là bị sử dụng cách đơn
lẻ nên không giải quyết triệt để đƣợc lƣợng
chất thải phát sinh.
Kiến nghị
Tập trung giải quyết triệt để các vấn đề trong
xử lý chất thải tại các khu vực chăn nuôi lợn
theo quy mô trang trại bằng cách thực hiện
đồng bộ và đa dạng các giải pháp khác nhau.
Đƣa ra những định hƣớng và quy hoạch cụ
thể cho các trang trại chăn nuôi lợn trong đó
phải gắn kết mục tiêu phát triển kinh tế với
mục tiêu về bảo vệ môi trƣờng.
Đẩy mạnh nghiên cứu trong lĩnh vực quản lý
chất thải chăn nuôi, đặc biệt là nghiên cứu
xây dựng các mô hình trang trại lợn sinh thái
và áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn
vào các trang trại chăn nuôi lợn góp phần phát
triển bền vững ngành chăn nuôi trong thời
gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn. Thông
tƣ số 27/2011/BNNPTNT- Quy định về quy chế
và thủ tục cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại.
Hà Nội 2011.
2. Cục Chăn nuôi. Tổng kết chăn nuôi trang trại tập
trung giai đoạn 2001-2006, định hƣớng và giải pháp
phát triển giai đoạn 2007-2015. Hà Nội 2006.
3. Cục Chăn nuôi. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn. Thống kê số lƣợng gia súc, gia cầm 2008
4. Đào Lệ Hằng. Chăn nuôi trang trại: thực trạng
và giải pháp, Thông tin chuyên đề Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, Số 4/2008 trang 16.
5. Lâm Vĩnh Sơn, Nguyễn Trần Ngọc Phƣơng.
Nghiên cứu nâng cao hiệu quả xử lý nƣớc thải
chăn nuôi bằng mô hình Biogas có bổ sung bã
mía. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Môi trƣờng và
Công nghệ sinh học năm 2011. Trang 89 – 105.
6. Vũ Đình Tôn, Lại Thị Cúc, Phạm Văn Duy. Đánh
giá hiệu quả xử lý chất thải bằng bể Biogas của một
số trang trại chăn nuôi lợn vùng Đồng bằng sông
Hồng. Tạp chí Khoa học và Phát triển 2008. Tập 6 số
6. Trang 556-561.
7. Trịnh Quang Tuyên, Nguyễn Quế Côi, Nguyễn
Thị Bình, Nguyễn Tiến Thông và Đàm Tuấn Tú.
Thực trạng ô nhiễm môi trƣờng và xử lý chất thải
trong chăn nuôi lợn trang trại tập trung. Tạp chí
Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, số 23 tháng
4/2010.
8. Phùng Đức Tiến, Nguyễn Duy Điều, Hoàng Văn
Lộc, Bạch Thị Thanh Dân. Đánh giá thực trạng ô
nhiễm môi trƣờng trong chăn nuôi. Tạp chí Chăn
nuôi số 4/2009. Trang 10-16.
9. Tổng cục Thống kê. Số liệu thống kê: số lƣợng
các trang trại, các loại vật nuôi chính ở nƣớc ta
giai đoạn 1990- 2010. Năm 2011.
Cao Trƣờng Sơn và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115(01): 73 - 81
81
SUMMARY
WASTE TREATMENT STATE ASSESSMENT IN PIG-FARMINGS:
A STUDY CASE IN VANGIANG DISTRICT OF HUNGYEN PROVINCE
Cao Truong Son
*
, Ho Thi Lam Tra
Hanoi University of Agriculture
This study was done in Vangiang district of Hungyen province where has a significative increase
of pig-farming in recent years with targets: to assess waste treatment state and to propose some
solutions for environmetal protection and sustainable deverlopment of pig-farmings. They have
mainly were build in 2000 – 2010 period according 4 different systerm types: VAC system with
combination of fruit cultivation-fish culture-pig farming; AC system with combination of fish
culture-pig farming; VC system with combination of fruit cultivation-pig farming; and C system
with only pig farming. Wastreatment solutions were done diversity in pig-farmings in Hungyen
province with ratios as: used for fish-pond (52.38%); biogas (47.62%); used for plant (38.10%);
composting (9.52%).However, waste discharge form pig-farmings was not treated completely
because ratio of waste discharge from pig-farmings to environment without treatment was as large
as 28.57%. In a word, these waste treatment solutions are suitable and effective for pig-farmings
but general defect of them was not complety treatment waste discharge. We must applicate
comprehensively and associatively the waste treatment solutions for environmental protection of
pig-farmings.
Keyword: Breeding waste, pig-farming, pollution, Vangiang district, waste treatment
Ngày nhận bài:19/12/2013; Ngày phản biện:13/01/2014; Ngày duyệt đăng: 07/02/2014
Phản biện khoa học: TS. Hà Xuân Linh – Đại học Thái Nguyên
*
Tel:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_tinh_hinh_xu_ly_chat_thai_tai_cac_trang_trai_chan_n.pdf