The vegetation at Muong Nhe nature reserve has been described in 5 types: Tropical
evergreen moist monsoon closed forest (only secondary sub-types formed by human activities);
Tropical semi-evergreen semi-dry monsoon closed forest; Sub-tropical evergreen moist monsoon
closed forest (including secondary sub-types formed by human activities); Sub-tropical evergreen
moist monsoon broad-leaved mixed with conifers forest; Sub-tropical semi-dry monsoon deciduous
forest (only secondary sub-types formed by human activities) and cultivated plant communities. The
results showed that the closed forest is only located at sub-tropical zone. Based on species existed in
each forest sub-type or community, the abundant species in tropical zone are fast-growing and
photophilic plants while the abundant species in sub-tropical zone include both fast-growing plants
and typical sub-tropical plants with monsoon moi climate or monsoon semi-dry climate. In the winter,
the tropical semi-evergreen forest and sub-tropical deciduous forest can enlarge their colony to the
north-western part. The non fast-growing and photophilic species are expected to be most abundant in
the future based on currently vegetation succession indication, and there will be increasingly more
closed forests in the near future at Muong Nhe nature reserve.
12 trang |
Chia sẻ: huongnt365 | Lượt xem: 539 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tính đa dạng thảm thực vật ở khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20
9
Đánh giá tính đa dạng thảm thực vật
ở khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé
Vũ Anh Tài1,*, Đinh Thị Hoa2
1
Viện Địa lý, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội, Việt Nam
2
Trường Đại học Tây Bắc, Chu Văn An, Quyết Tâm, Sơn La, Việt Nam
Nhận ngày 13 tháng 7 năm 2017
Chỉnh sửa ngày 24 tháng 8 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 12 năm 2017
Tóm tắt: Bài báo này trình bày kết quả điều tra thảm thực vật ở KBTTN Mường Nhé, các quần xã
thực vật được mô tả trong 5 kiểu: Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới (chỉ gồm các phân kiểu
thứ sinh nhân tác), Rừng thứ sinh nửa rụng lá hơi khô nhiệt đới; Rừng kín thường xanh mưa ẩm á
nhiệt đới (gồm cả các phân kiểu thứ sinh nhân tác); Rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới hỗn
giao cây lá kim và Rừng rụng lá hơi khô á nhiệt đới (chỉ gồm phân kiểu thứ sinh nhân tác) và các
quần xã cây trồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiện nay rừng kín chỉ có ở vành đai á nhiệt đới.
Hai trạng rừng rụng lá và nửa rụng lá vào mùa đông đem lại sắc thái riêng cho Mường Nhé và Tây
Bắc. Nếu được bảo vệ để tái sinh, phục hồi tự nhiên thì các kiểu rừng kín sẽ có nhiều hy vọng
phục hồi và thảm thực vật của Mường Nhé sẽ đạt được trạng thái ổn định nhất, góp phần không
nhỏ cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học
Từ khóa: Mường Nhé, rừng thường xanh, rừng nửa rụng lá, rừng rụng lá.
1. Mở đầu
Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Mường
Nhé được chính thức thành lập theo Quyết định
số 593/QĐ-UBND ngày 23/5/2008 của UBND
tỉnh Điện Biên về việc “Quy hoạch chi tiết khu
bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé tỉnh Điện Biên
giai đoạn 2008-2020” [1]. Các sinh cảnh tự
nhiên ở Khu bảo tồn Mường Nhé bị xé lẻ và
suy giảm nghiêm trọng, chủ yếu là do ảnh
hưởng của canh tác nương rẫy và cháy rừng.Sau
nhiều tác động, rừng đã bị suy giảm thành các
trạng thái thứ sinh và những cánh rừng còn lại
_______
Tác giả liên hệ. ĐT.: 84-983353711.
Email: tai.botany@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4108
đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nguồn
nước sinh hoạt, canh tác cho các cộng đồng địa
phương và phòng hộ đầu nguồn sông Đà. Để
góp phần vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học
nói chung và bảo tồn và phát triển rừng nói
riêng, việc nghiên cứu đa dạng thảm thực vật có
ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực
tiễn bởi chưa có những nghiên cứu toàn diện
nào vấn đề này ở Mường Nhé ngoài các công
trình nghiên cứu, điều tra tổng thể đa dạng sinh
học, đa dạng thực vật ở Mường Nhé của Hill et
al. (1997) [2], Nguyen Duc Tu et al. (2001) [3]
và các nghiên cứu chung về thực vật sau nương
rẫy ở Tây Bắc của Bùi Chính Nghĩa (2010) [4].
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20
10
2. Đối tượng, địa điểm và phương pháp
nghiên cứu
2.1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là là các quần xã
thực vât phân bố ở KBTTN Mường Nhé, tỉnh
Điện Biên.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Áp dụng các biện pháp nghiên cứu thực vật
được Nguyễn Nghĩa Thìn (2004) [5] giới thiệu
bao gồm: điều tra thực địa, lập ô tiêu chuẩn
(OTC), phân tích mẫu vật và phân tích số liệu
OTC. Áp dụng các mô tả các hệ sinh thái rừng
nhiệt đới của Thái Văn Trừng (1999) [6] để mô
tả và hệ thống hóa các đơn vị thảm thực vật
(kiểu sinh thái phát sinh thường bao gồm phân
kiểu miền thực vật, phân kiểu khí hậu, phân
kiểu thổ nhưỡng và các phân kiểu thứ sinh nhân
tác bao gồm từ trạng thái rừng thứ sinh, trảng
cây bụi đến trảng cỏ). Theo đó, đối với các
trạng thái rừng, độ quan trọng (ĐQT) của loài
được xác định bởi các chỉ số: tỷ lệ số cá thể
(%N), tỷ lệ tiết diện gốc (%G) và độ gặp của
từng loài (F); đối với các trạng thái khác (trảng
cây bụi, trảng cỏ), độ quan trọng được xác định
thông qua tỷ lệ số cá thể và độ che phủ trong ô
đo đạc (ô kích thước 2x2m đối với trảng cỏ và
5x5m đối với trảng cây bụi, tối thiểu 5 ô đối với
mỗi loại, các ô có thể gần nhau nhưng không
sát nhau, tối thiểu cách nhau 10m). Tổ hợp loài
ưu thế là các loài có tổng ĐQT trên 50%, trong
đó nếu chỉ có 1 loài, đó là đơn ưu, nếu có 2-10
loài, đó là ưu hợp và trên 10 loài thì đó là phức
hợp. Tên của tổ hợp này (đơn ưu, ưu hợp, phức
hợp) được sử dụng để gọi tên quần xã với tên
của các loài ưu thế
3. Kết quả nghiên cứu
Trên cơ sở 12 OTC được thiết lập (bảng 1) tại
thực địa ở các xã Chung Khải và Sín Thầu (huyện
Mường Nhé, tỉnh Điện Biên) và các tư liệu tham
khảo, các kiểu và kiểu phụ thảm thực vật tự nhiên
cùng các quần xã thực vật nhân tác có mặt ở
KBTTN Mường Nhé được mô tả dưới đây.
3.1. Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm
nhiệt đới
Trước đây khu vực có nhiều rừng kín
thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, do tác động của
khai thác diễn ra trong thời gian dài, tán rừng bị
phá vỡ, cấu trúc có nhiều thay đổi, thành phần
loài cây ưa sáng, mọc nhanh xuất hiện nhiều,
rừng chỉ ở trạng thái thứ sinh. Kiểu rừng kín
này hiện chỉ còn lại các phân kiểu thứ sinh nhân
tác, bao gồm các trạng thái từ rừng thứ sinh đến
trảng cây bụi.
Phân kiểu rừng thứ sinh thường xanh mưa
ẩm nhiệt đới sau khai thác
Đại diện rừng này được điều tra, khảo sát ở
các OTC thuộc xã Chung Khải, huyện Mường
Nhé, tỉnh Điện Biên. Kết quả cho thấy, trung
bình, mật độ cây gỗ có đường kính gốc trên
10cm chỉ đạt 163 cây/ha, trữ lượng thấp (gần
40m
3/ha), còn lưu giữ một số cây gỗ cao sót lại
từ trạng rừng nguyên sinh trước đây, cao đến 35m
là Castanopsis lecomtei (Dẻ lơ công). Tổ hợp loài
ưu thế sinh thái ghi nhận từ số liệu điều tra OTC
gồm các loài Castanopsis sp. (Dẻ), Syzygium sp.
(Trâm), Cratoxylum formosum (Thành ngạnh),
Adinandra integerrima (Súm) và Schefflera
heptaphylla (Chân chim).
Tầng vượt tán chỉ gồm một số cây
Castanopsis lecomtei (Dẻ lơ công) sót lại từ
trạng rừng tốt hơn trước đây. Tầng ưu thế sinh
thái gồm những cây gỗ có chiều cao đến 25m,
tán trung bình cao 15-22m. Trung bình các cây
gỗ ở tầng này có đường kính gốc khoảng 32cm,
đường kính tán khoảng 4-6m. Các loài ưu thế
gặp được là Castanopsis lecomtei (Dẻ lơ công),
Adinandra integerrima (Súm), Castanopsis sp.
(Dẻ), Cratoxylum formosum (Thành ngạnh),
Mallotus paniculatus (Ba bét). Ngoài ra còn
gặp một số loài khác là Ficus vasculosa (Mít
rừng), Schefflera heptaphylla (Chân chim),
Syzygium sp. (Trâm), Trema orientalis (Hu
đay), Wrightia annamensis (Thừng mực
lông), Phẫu đồ kiểu rừng này được trình bày
trong hình 1.
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20 11
Bảng 1. Hệ thống các ô tiêu chuẩn đã thiết lập tại KBTTN Mường Nhé
OTC
Tọa độ Độ
cao
Hướng
phơi
Độ
dốc
Trạng thái thảm thực vật Ngày điều tra Tổ hợp loài ưu thế
ĐQT
(%) Vĩ độ Kinh độ
1 102.32159 24.67800 617 Đ - B 25
Rừng thứ sinh thường xanh mưa
ẩm nhiệt đới sau khai thác
08/12 /2015
Castanopsis lecomtei (Dẻ lơ công),
Castanopsis sp. (Dẻ), Diospyros
tonkinensis (Thị rừng)
70
2 102.32054 24.66997 642 Đ - N 25
Rừng thứ sinh thường xanh mưa
ẩm nhiệt đới sau khai thác
12/08 /2015
Cratoxylum formosum (Thành
ngạnh), Mallotus paniculatus (Ba
bét), Schefflera heptaphylla (Chân
chim), Castanopsis sp. (Dẻ)
70
3 102.32248 24.69483 594 Đ - B 32
Rừng thứ sinh thường xanh mưa
ẩm nhiệt đới sau khai thác
12/08 /2015
Cratoxylum formosum (Thành
ngạnh), Castanopsis sp. (Dẻ),
Adinandra integerrima (Súm)
76
4 102.33144 24.64082 720 Đ - B 28
Rừng thứ sinh thường xanh mưa
ẩm á nhiệt đới sau nương rẫy
13/08 /2015
Schefflera heptaphylla (Chân chim),
Syzygium sp. (Trâm)
51
5 102.33169 24.64106 732 Đ - B 31
Rừng thứ sinh thường xanh mưa
ẩm á nhiệt đới sau nương rẫy
13/08 /2015
Syzygium sp. (Trâm), Schima
wallichii (Vối thuốc), Cratoxylum
formosum (Thành ngạnh)
74
6 102.33202 24.64105 755 Đ - B 30
Rừng thứ sinh thường xanh mưa
ẩm á nhiệt đới sau nương rẫy
13/08 /2015
Schima wallichii (Vối thuốc),
Syzygium sp. (Trâm), Castanopsis
lecomtei (Dẻ lơ công), Cratoxylum
formosum (Thành ngạnh)
63
7 102.07063 24.81114 1340 Đ-N 39
Rừng thứ sinh rụng lá hơi khô á
nhiệt đới sau nương rẫy
14/08 /2015
Altingia siamensis (Tô hạp điện biên),
Schima wallichii (Vối thuốc)
68
8 102.07155 24.80519 1284 B 35
Rừng thứ sinh rụng lá hơi khô á
nhiệt đới sau nương rẫy
14/08 /2015
Schima wallichii (Vối thuốc),
Bombax ceiba (Gạo)
66
9 102.07221 24.81535 1139 Đ-B 35
Rừng thứ sinh rụng lá hơi khô á
nhiệt đới sau nương rẫy
14/08 /2015 Schima wallichii (Vối thuốc) 52
10 102.15796 24.77879 747 T-B 27
Rừng thứ sinh rụng lá hơi khô á
nhiệt đới sau khai thác
16/08 /2015
Betula alnoides (Cáng lò), Schima
wallichii (Vối thuốc)
74
11 102.15744 24.77817 778 Đ-B 28
Rừng thứ sinh rụng lá hơi khô á
nhiệt đới sau khai thác
16/08 /2015 Betula alnoides (Cáng lò) 62
12 102.15646 24.77862 759 Đ-N 32
Rừng thứ sinh rụng lá hơi khô á
nhiệt đới sau khai thác
16/8 /2015 Betula alnoides (Cáng lò) 50
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20
12
Hình 1. Phẫu đồ OTC 1 - Rừng thứ sinh thường xanh mưa ẩm nhiệt đới sau khai thác.
Chú thích tên loài: 1, 2 - Castanopsis sp. (Dẻ); 3 - Syzygium sp. (Trâm); 4, 7 - Diospyros tonkinensis (Thị rừng);
5 - Trema orientalis (Hu đay); 6 - Betula alnoides (Cáng lò); 8, 9 - Castanopsis lecomtei (Dẻ lơ công).
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20 13
Phân kiểu rừng thứ sinh thường xanh mưa
ẩm nhiệt đới sau nương rẫy
Rừng thứ sinh là kết quả của quá trình tái
sinh sau nương rẫy, phân bố chủ yếu trên các
sườn đồi và là trạng thái thảm thực vật chính ở
đai thấp (dưới 700m). Hiện độ tán che rất thấp,
chỉ đạt khoảng 30%. Thảm thực vật trên các
sườn được ưu thế không rõ ràng bởi các loài:
Alstonia scholaris (Sữa), Styrax tonkinensis (Bồ
đề bắc), Cratoxylum formosum (Thành ngạnh),
Stereospermum colais (Quao núi), Agalaia sp.
(Gội xanh), Gmelina hainanensis (Lõi thọ),
Trên những sườn núi dốc, thảm thực vật
tươi tốt hơn, độ che phủ có thể đạt tới 40%.
Những cây gỗ lớn như Saraca dives (Vàng
anh), Dillenia indica (Sổ bà), Bombax ceiba
(Gạo), Erythrina stricta (Vông) mọc thưa, rải
rác trong khi các loài khác như Macaranga
denticulata (Lá nến), Machilus thunbergii
(Kháo tầng), Cratoxylum formosum (Thành
ngạnh), Cassia sp. (Muồng), Duabanga
grandiflora (Phay) thì mọc tập trung thành những
vệt rừng xanh hai bên bờ cao của con suối.
Trảng cây bụi thứ sinh thường xanh mưa
ẩm nhiệt đới
Có nguồn gốc thứ sinh, hình thành trên các
đất canh tác bỏ hoang. Phân bố thành các mảng
tương đối lớn xen kẽ giữa các trạng rừng thứ
sinh trên và tiếp giáp với các khu vực trảng cỏ
hoặc nương rẫy gần vùng đệm của KBT. Trảng
cây bụi khu vực nghiên cứu được ưu thế bởi các
loài Phyllanthus emblica (Me rừng), Melastoma
spp. (Mua), Pouzolzia sp. (Bọ mắm),
Clerodendrum sp. (Ngọc nữ). Đa số chúng đều
là kết quả của tái sinh sau nương rẫy. Các cây
bụi này thường mọc chung với các loài cỏ cao
như Chromolaena odorata (Cỏ lào), Imperata
cylindrica (Cỏ tranh).
Trảng cỏ thứ sinh thường xanh mưa ẩm
nhiệt đới
Trảng cỏ được hình thành đa phần là kết
quả của tác động nông nghiệp, trên các rẫy đã
bị bỏ hoang, chúng là những quần xã tiên phong
cho quá trình diễn thế tái sinh. Ở chân núi và
trên các địa hình dốc tụ khác thì Chromolaena
odorata (Cỏ lào) xuất hiện đầu tiên khi rẫy bị
bỏ hoang. Ngược lại, trên sườn đồi thì loài này
thường mọc ít hơn, các loài Miscanthus sp.
(Chè vè) xuất hiện nhiều hơn, lên tới đỉnh thì
Miscanthus sp. (Chè vè) lại phải nhường đất
cho Dicranopteris linearis (Guột), Gleichenia
truncata (Tế) và Imperata cylindrica (Cỏ
tranh), loài này xuất hiện ngay cả trên các rẫy
đang sử dụng, chúng tạo thành những vạt rất
rộng lớn phía trên đỉnh núi.
3.2. Kiểu rừng kín nửa rụng lá hơi khô nhiệt đới
Rừng kín nửa rụng lá hơi khô nhiệt đới
trước đây phân bố trên các khu vực có độ dốc
cao, nhiều đá lộ đầu, chủ yếu là các khe suối
trong khu bảo tồn, ở độ cao 400-700m. Tuy
nhiên, sau tác động khai thác hiện không còn
nữa mà thay thế vào đó là trạng rừng thứ sinh
nửa rụng lá.
Phân kiểu rừng thứ sinh nửa rụng lá hơi
khô nhiệt đới
Trạng rừng này là một ưu hợp của các loài
Lagerstroemia angustifolia (Bằng lăng cườm),
Anthocephalus indicus (Gáo), Ficus sp. (Sung),
Albizia chinensis (Ván xe), Litsea monopetala
(Bời lời bao hoa đơn), Engelhardtia spicata
(Cơi). Đa phần đây là các loài cây ưa sáng,
thường tập trung dọc theo các dòng suối có
nước và quanh chân núi. Do mùa khô, các con
suối không còn nước nên các loài rụng lá là
những loài thích nghi nhất.
Rừng có độ tàn che 30-50%. Cây to còn sót
lại sau khai thác thường thấp và cong queo.
Tầng cây gỗ của rừng có chiều cao phổ biến từ
8 - 15m. Thành phần cây rừng khác gồm:
Castanopsis indica (Dẻ gai ấn độ), Castanopsis
chinensis (Dẻ gai trung hoa), Schima wallichii
(Vối thuốc), Machilus thumbergii (Kháo tầng),
Aporosa dioica (Thẩu tấu), Pterospermum
lancaefolium (Lòng mang), Cipadessa sp. (Cà
muối), Choerospondias axillaris (Xoan nhừ),
Litsea glutinosa (Bời lời nhớt), Litsea cubeba
(Màng tang), Adinandra integerrima (Chè đuôi
lươn), Cratoxylum formosum (Thành ngạnh),
Flacourtia sp. (Mùng quân rừng), Bridelia
balansae (Đỏm gai), Wendlandia paniculata
(Hoắc quang),....
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20
14
3.3 Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt
đới cây lá rộng
Phân bố ở độ cao 700m đến 1800m, kiểu
rừng này có độ khép tán trung bình 0,5 - 0,8.
Chiều cao phổ biến 15-25m. Đường kính cây
trung bình 25-30cm. Tầng vượt tán gồm một số
loài cây cao, to như: Betula alnoides (Cáng lò),
Aphanamixis grandifolia (Gội trắng), Machilus
thunbergii (Kháo tầng), Beilschmiedia balansae
var. multicarpa (Chắp xanh), Clerodendron sp.
(Mò gỗ), Castanopsis hystrix (Dẻ gai đỏ),
Michelia sp. (Giổi), Quercus platycalyx (Dẻ
cau), Quercus sp. (Sồi), Choerospondias
axillaris (Xoan nhừ), Ixonanthes chinensis (Hà
nu), Altingia siamensis (Tô hạp), Canarium
album (Trám trắng),... trung bình các cây gỗ
cao trên 25m, đường kính phổ biến 30-35cm,
những cây cá biệt của các loài Aglaia spp.
(Gội), Michelia sp. (Giổi), Altingia siamensis
(Tô hạp), hay Betula alnoides (Cáng lò),... có
đường kính tới 60-70cm nhưng thường bị bệnh.
Phân kiểu rừng thứ sinh thường xanh mưa
ẩm á nhiệt đới sau nương rẫy
Rừng này là kết quả thoái hóa từ các kiểu
rừng kín trong vành đai á nhiệt đới núi thấp.
Hiện tán rừng bị phá vỡ cấu trúc làm xuất hiện
các loài ưu thế thứ sinh. Các OTC khảo sát
được thiết lập tại xã Chung Khải, huyện Mường
Nhé, tỉnh Điện Biên. Kết quả phân tích các chỉ
số về số cá thể, tiết diện gốc và độ gặp cho các
OTC đại diện đã chỉ ra tổ hợp loài ưu thế của
kiểu rừng này gồm Syzygium sp. (Trâm),
Schima wallichii (Vối thuốc), Cratoxylum
formosum (Thành ngạch), Schefflera
heptaphylla (Chân chim), Macaranga indica
(Lá nến), Castanopsis lecomtei (Dẻ lơ công),
Antidesma bunius (Chòi mòi). Rừng có nhiều
cây gỗ nhỏ, mật độ đạt khoảng 250 cây/ha (tính
những cây có đường kính gốc từ 10cm trở lên),
tuy nhiên trữ lượng hiện ở mức rất thấp, khoảng
20m
3/ha (được coi là rừng nghèo kiệt). Rừng
hiện không có tầng vượt tán. Tầng ưu thế sinh
thái gồm các cây gỗ có chiều cao từ 15 đến
25m, đường kính gốc trung bình khoảng 24cm,
tán rộng khoảng 4-6m. Tán có độ che phủ thấp,
chỉ khoảng 40%. Các loài đặc trưng cho tầng ưu
thế là Castanopsis lecomtei (Dẻ lơ công),
Castanopsis sp. (Dẻ), Cratoxylum formosum
(Thành ngạnh), Schima wallichii (Vối thuốc),
Syzygium sp. (Trâm). Bên cạnh đó, còn xuất
hiện các loài cây gỗ khác như Adinandra
integerrima (Súm), Antidesma bunius (Chòi
mòi), Castanopsis tonkinensis (Dẻ bắc bộ),
Diospyros tonkinensis (Thị rừng)... Phẫu đồ
kiểu rừng này được trình bày trong hình 2.
Trảng cây bụi thứ sinh thường xanh mưa
ẩm á nhiệt đới
Có nguồn gốc thứ sinh, hình thành trên các
đất làm nương rẫy bỏ hoang. Phân bố rải rác
thành các mảng nhỏ trong khu vực nghiên cứu.
Phân bố ở độ cao này, trảng cây bụi được đặc
trưng bởi các loài có khả năng sống chịu hạn,
chịu lạnh tốt. Đó là các loài Mallotus
macrostachyus (Bùm bụp bông to), Vernonia
arborea (Bạc đầu gỗ), Melastoma spp. (Mua),
Glochidion eriocarpum (Bọt ếch), Phyllanthus
emblica (Me rừng), Rubus spp. (Ngấy),
Buddleia asiatica (Búp lệ á),...
3.4. Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt
đới hỗn giao cây lá rộng cây lá kim
Kiểu này còn diện tích rất nhỏ, phân bố ở
sườn gần đỉnh các dông núi có độ cao trên
1000m và tập trung nhiều ở phía tây nam Khu
bảo tồn loài và sinh cảnh Mường Nhé, thuộc
khu vực đỉnh Phu Huổi Luông đến biên giới
Việt Lào. Tầng cây gỗ của rừng có chiều cao
thấp phổ biến từ 15 - 25m, đường kính từ 15-
20cm. Cây lá kim gặp trong kiểu rừng này là
Fokienia hodginsii (Pơ mu), Podocarpus spp.
(các loài Thông tre) và Dacrydium elatum
(Thông nàng). Thành phần cây gỗ lá rộng phổ
biến ở tầng tán là Tsoongiodendron odorum
(Gổi thơm), Paramichelia laillonii (Giổi găng),
Choerospondias axillaris (Xoan nhừ),
Beilschmiedia balansae var. multicarpa (Chắp
xanh), Quercus platycalyx (Dẻ cau quả bẹt),
Castanopsis hyrtrix (Dẻ gai đỏ), Machilus
odoratissima (Kháo thơm), Acer flabellatum
(Thích lá xẻ), Exbucklandia tonkinensis (Chắp
tay), Altingia siamensis (Tô hạp),...
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20 15
Hình 2. Phẫu đồ OTC 4 - Rừng thứ sinh thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới sau nương rẫy.
Chú thích tên loài: 6, 14,19 - Castanopsis lecomtei (Dẻ lơ công); 7, 13,21, 22 - Schefflera octophylla (Chân
chim); 8, 9,17 - Cratoxylum formosum (Thành ngạnh); 10, 11 - Macaranga indica (Lá nến); 12, 15,20 -
Syzygium sp. (Trâm); 18, - Schima wallichii (Vối thuốc); 23 - Antidesma bunius (Chòi mòi).
3.5. Kiểu rừng rụng lá hơi khô á nhiệt đới
Ở trạng thái nguyên sinh trước đây, có lẽ
loài ưu thế là Bombax ceiba (Gạo) và Bauhinia
variegata (Ban), tuy nhiên, do hoạt động khai
thác chọn diễn ra trong thời gian dài, rừng bị thay
đổi cấu trúc, độ che phủ chỉ đạt khoảng 50%.
Phân kiểu rừng thứ sinh rụng lá hơi khô á
nhiệt đới sau khai thác
Tán rừng vào mùa khô rụng hoàn toàn hoặc
chỉ còn lác đác một số cây gỗ nhỏ thường xanh.
Các OTC đại diện cho trạng rừng này được lập
ở xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20
16
Biên. Mật độ cây gỗ khá cao vì có nhiều cây gỗ
tái sinh, đạt 313 cây/ha, trữ lượng còn khoảng
trên 60m
3/ha tuy nhiên không còn cây vượt tán
và đa số cây có đường kính gốc giao động trong
khoảng 15 đến 25cm. Trạng rừng này thường
không có tầng vượt tán mặc dù đôi khi có
những cây gạo cao đến trên 35m ở ven suối bìa
các khu rừng sót lại từ trạng rừng kín trước đây.
Tổ hợp theo độ quan trọng của trạng rừng này
gồm các loài ưu thế là Schima wallichii (Vối
thuốc), Altingia siamensis (Tô hạp điện biên),
Bombax albidum (Gạo), Albizia lucida (Bản
xe). Trong đó đa số các loài đều là những cây
rụng lá trong hầu hết các sinh cảnh và ở Mường
Nhé, chúng hoàn toàn là những loài rụng lá vào
mùa khô. Tầng ưu thế sinh thái gồm các cây gỗ
cao 15 đến 25m, đường kính tán khoảng 3-5m,
đường kính gốc khoảng 32cm. Các loài phổ
biến nhất của tầng ưu thế sinh thái là Bombax
ceiba (Gạo), Schima wallichii (Vối thuốc) và
Altingia siamensis (Tô hạp điện biên). Ngoài ra,
tầng ưu thế còn có các loài khác như Albizia
lucida (Bản xe), Canarium tramdenum (Trám
đen),.... Những loài này hầu hết cũng là những
loài rụng lá vào mùa khô. Ở những khu vực
khác ngoài OTC, chúng tôi cũng ghi nhận sự
xuất hiện của các loài Sapium discolor (Sòi tía),
Radermachera macrocalyx (Rà dẹt), Cassia sp.
(Muồng), Peltophorum dasyrachis var.
tonkinensis (Hoàng linh),... Phẫu đồ kiểu rừng
này được trình bày trong hình 4.
Phân kiểu rừng thứ sinh rụng lá hơi khô á
nhiệt đới sau nương rẫy
Rừng này được ưu thế bởi các loài cây gỗ,
rụng lá vào mùa khô. Rừng hình thành sau
nương rẫy bỏ hoang. Tổ hợp loài ưu thế trong
kiểu phụ này là Betula alnoides (Cáng lò),
Schima wallichii (Vối thuốc), Albizia lucida
(Bản xe), Adinandra integerrima (Súm) và
Lithocarpus pseudosundaicus (Dẻ lá mỏng).
Tầng ưu thế sinh thái gồm các cây gỗ cao 15
đến 26m, đường kính gốc trung bình đạt 22cm,
tán rộng 3-5m với các loài ưu thế là Albizia
lucida (Bản xe), Betula alnoides (Cáng lò),
Bombax ceiba (Gạo), Castanopsis lecomtei (Dẻ
lơ công), Cratoxylum formosum (Thành ngạnh),
Schima wallichii (Vối thuốc). Trong đó, Betula
alnoides (Cáng lò) được coi là phổ biến nhất.
Ngoài ra còn gặp các loài khác như Adinandra
integerrima (Súm), Castanopsis sp. (Dẻ),
Castanopsis tonkinensis (Dẻ gai bắc bộ),
Lithocarpus pseudosundaicus (Dẻ lá mỏng),...
Phẫu đồ kiểu rừng này được trình bày trong
hình 3.
Trảng cây bụi thứ sinh rụng lá hơi khô á
nhiệt đới
Cây bụi thấp và một số loài cỏ khác phổ
biến như Trema orientalis (Hu đay), Ixora spp.
(các loài Mẫu đơn), Phyllanthus embelica (Me
rừng), Wendlandia paniculata (Hoắc quang),
Mallotus paniculatus (Ba bét), Litsea cubeba
(Màng tang), Macaranga denticulata (Lá nến),
Vaccinium sp. (Ỏng ảnh), Cratoxylum
formosum (Thành ngạnh), Eurya sp. (Súm),
Helicteres angustifolia (Thao kén), Bridelia
monoica (Đỏm lông), Glochidion eriocarpum
(Bọt ếch), Phyllanthus emblica (Me rừng),
Breynia tomentosa (Bồ cu vẽ), Psychotria sp.
(Lấu), Randia sp. (Găng), Flueggea virosa
(Bỏng nổ), Melastoma spp. (Mua), Cnestis
palala (Dây khế), Chromolaena odorata (Cỏ
lào) và các loài cỏ khác như Imperata
cylindrica (Cỏ tranh), Panicum spp. (các loài
Kê núi), Paspalum spp. (các loài Cỏ lá tre),
Artemisia spp. (các loài Ngải cứu)...
Trảng cỏ thứ sinh hơi khô á nhiệt đới
Trảng cỏ khô, cao là dạng đặc trưng ở độ
cao này, ở đó, Miscanthus sp. (Chè vè),
Imperata cylindrica (Cỏ tranh), Eupatorium
reevesii (Cứt lợn), Chromolaena odorata (Cỏ
lào), Thysanolaena maxima (Chít), Ageratum
houstonianum (Tam duyên), là những dạng điển
hình, thường làm nên những trảng thuần loại.
Trảng cỏ thấp ở đây được đặc trưng bằng các
loài Elephantopus mollis (Cúc chân voi mềm),
Paspalum sp. (Kê), Kyllinga nemoralis (Có
gấu), Chrysopogon aciculatus (Cỏ may).
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20 17
Hình 3. Phẫu đồ OTC7 - Rừng thứ sinh rụng lá hơi khô á nhiệt đới sau nương rẫy.
Chú thích tên loài: 1, 7, 8, 11, 19,20, 30 - Altingian chinensis (Tô hạp); 2, 13, 29 - Mallotus paniculatus (Ba bét);
3 - Canarium tramdenanum (Trám đen); 9, 23 - Albizzia lucida (Bản xe); 10, 15, 21, 34, 35 - Schima wallichii
(Vối thuốc); 12 - Macaranga indica (Lá nến); 22 - Bombax ceiba (Gạo).
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20
18
Hình 4. Phẫu đồ OTC 10 - Rừng thứ sinh rụng lá hơi khô á nhiệt đới sau khai thác.
Chú thích tên loài: 1,8 - Albizzia lucida (Bản xe); 2, 3, 4, 5, 6, 7, 26,27, 28, 30, 31, 34 - Betula alnoides (Cáng
lò); 11, 20,25, 33- Schima wallichii (Vối thuốc); 21, 22 - Lithocarpus pseudosundaicus (Dẻ lá mỏng); 23 -
Choerospondias axillaris (Xoan nhừ); 24- Adinandra integerrima (Súm);
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20 19
3.6. Các quần xã cây trồng
Các quần xã cây trồng lâu năm ở vùng thấp
chủ yếu là cây ăn quả như Dimocarpus longan
(Nhãn), Litchi chinensis (Vải), Mangifera
foetida (Xoài), Prunus armeniaca (Mơ), Prunus
salicina (Mận), Citrus sinensis (Cam), Citrus
aurantifolia (Chanh), còn ở vùng cao, cây trồng
chính là Sterculia foetida (Trôm hôi),
Chukrasia tabularis (Lát hoa), Malus pumila
(Táo mèo), Prunus persica (Đào),... Lúa nước
(Oryza sativa) có diện tích nhỏ, phân bố tập trung
ở vùng thấp, dưới 700m so với mặt nước biển,
trong các khu vực thung lũng trên đất phù sa và
dốc tụ. Nương rẫy phân bố rải rác trên sườn đồi
núi đất thành các khoảng nhỏ. Các cây trồng chủ
yếu là cây ngắn ngày. Cây lương thực thực phẩm
có Manihot esculenta (Sắn), Zea mays (Ngô),
Arachis hypogaea (Lạc), Vigna spp. (Đậu các
loại), Glycine max (Đậu tương), Colocasia
esculenta (Khoai sọ), Ipomoea batatas (Khoai
lang), Canna edulis (Rong riềng), Sesamum
orientale (Vừng); các cây rau phổ biến có
Brassica spp. (các loài Cải), Cucurbita spp.
(các loài Bí đỏ, Bí ngô, Bí rợ); ngoài ra còn có
diện tích nhỏ trồng cây công nghiệp, cây ăn quả
như Saccharum officinarum (Mía), Ananas
sativa (Dứa), Quần xã cây trồng trong khu dân
cư không nhiều loài và ít cá thể gồm các cây ăn
quả có Dimocarpus longan (Nhãn), Litchi
chinensis (Vải), Mangifera foetida (Xoài),
Prunus armeniaca (Mơ), Prunus salicina (Mận),
Citrus sinensis (Cam), C. aurantifolia (Chanh), C.
grandis (Bưởi), Artocarpus heterophyllus (Mít),
Diospyros kaki (Hồng), D. decandra (Thị),
Psidium guajava (Ổi), Musa paradisiaca (Chuối
với nhiều giống khác nhau như Chuối tây, Chuối
ta, Chuối hột). Cây cho vật liệu xây dựng thường
trồng có Bambusa bambos (Tre gai rừng), B.
nutans (Vầu), B. vulgaris (Tre mỡ), Gigantochloa
levis (Bương). Ngoài ra còn có một số cây cho
rau, cây cảnh, thuốc.
4. Kết luận và kiến nghị
Thảm thực vật ở khu bảo tồn thiên nhiên
Mường Nhé đã được mô tả trong 5 kiểu: Kiểu
rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới (chỉ
gồm các phân kiểu thứ sinh nhân tác: Rừng thứ
sinh thường xanh mưa ẩm nhiệt đới sau nương
rẫy, Rừng thứ sinh thường xanh mưa ẩm nhiệt
đới sau khai thác, Trảng cây bụi thứ sinh
thường xanh mưa ẩm nhiệt đới, Trảng cỏ thứ
sinh thường xanh mưa ẩm nhiệt đới); Kiểu rừng
kín nửa rụng lá hơi khô nhiệt đới (chỉ là phân
kiểu thứ sinh nhân tác - Rừng thứ sinh nửa rụng
lá hơi khô nhiệt đới); Kiểu rừng kín thường
xanh mưa ẩm á nhiệt đới cây lá rộng (gồm cả 2
phân kiểu thứ sinh nhân tác là Rừng thứ sinh
thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới và Trảng cây
bụi thứ sinh thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới);
Kiểu rừng kín thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới
hỗn giao cây lá rộng cây lá kim; Kiểu rừng rụng
lá hơi khô á nhiệt đới (hiện chỉ còn là các phân
kiểu thứ sinh nhân tác bao gồm Rừng thứ sinh
rụng lá hơi khô á nhiệt đới sau khai thác, Rừng
thứ sinh rụng lá hơi khô á nhiệt đới sau nương
rẫy, Trảng cây bụi thứ sinh rụng lá hơi khô á
nhiệt đới và Trảng cỏ thứ sinh hơi khô á nhiệt
đới) cùng với các quần xã cây trồng. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra rừng kín hiện nay chỉ xuất hiện
ở vành đai á nhiệt đới với kiểu rừng kín thường
xanh mưa ẩm á nhiệt đới cây lá rộng và rừng kín
thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới hỗn giao cây lá
rộng cây lá kim. Các trạng rừng rụng lá và nửa
rụng lá là một nét đặc trưng cho rừng ở Tây Bắc
vào mùa đông. Ở các trạng thái thứ sinh, tổ hợp
loài ưu thế bao gồm cả những loài ưa sáng, mọc
nhanh và các loài đặc trưng cho trạng rừng kín.
Do vậy, nếu thảm thực vật ở Mường Nhé được
bảo vệ để tái sinh, phục hồi tự nhiên thì các kiểu
rừng kín vốn đã mất đi ở vành đai nhiệt đới trước
đây sẽ có nhiều hy vọng phục hồi trong thời gian
tới đồng thời các trạng thái thứ sinh ở vành đai á
nhiệt đới sẽ trở thành rừng kín và khi đó thảm
thực vật của Mường Nhé sẽ đạt được trạng thái
ổn định nhất, góp phần không nhỏ cho công tác
bảo tồn đa dạng sinh học.
Lời cảm ơn
Để hoàn thành bài báo này, các tác giả xin
cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Tây Bắc,
Bộ Giáo dục và Đào tạo và chủ nhiệm đề tài
“Nghiên cứu tính đa dạng hệ thực vật và xây
V.A. Tài, Đ.T. Hoa / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 4 (2017) 9-20
20
dựng atlat thực vật vùng Tây Bắc”, mã số:
B2014-25-25 đã hỗ trợ và tài trợ cho các hoạt
động nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu là một
phần của đề tài này.
Tài liệu tham khảo
[1] UBND tỉnh Điện Biên, Quyết định số 593/QĐ-
UBND ngày 23/5/2008 về việc phê duyệt Dự án
"Quy hoạch chi tiết khu bảo tồn thiên nhiên Mường
Nhé tỉnh Điện Biên giai đoạn 2008-2020”.
[2] Hill, M., Hallam, D. and Bradley, J., Muong Nhe
Nature Reserve: biodiversity survey, BirdLife,
Ha Noi, 1997.
[3] Nguyen Duc Tu, Le Trong Trai and Le Van
Cham, A rapid field survey of Muong Nhe
Nature Reserve, Lai Chau province, Vietnam,
BirdLife, Ha Noi, 2001.
[4] Bùi Chính Nghĩa, Động thái diễn thế rừng phục
hồi sau khai thác kiệt vùng Tây Bắc, Tạp chí
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số 2
(2010), tr. 72.
[5] Nguyễn Nghĩa Thìn, Các phương pháp nghiên
cứu thực vật, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, 2004.
[6] Thái Văn Trừng, Các hệ sinh thái rừng nhiệt đới
ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học kĩ thuật, Hà
Nội, 1999.
Results of Study on Vegetation Diversity at Muong Nhe
Nature Reserve, Dien Bien Province
Vu Anh Tai1, Dinh Thi Hoa2
1
Vietnam Academy of Science and Technology, 18 Hoang Quoc Viet, Cau Giay, Hanoi, Vietnam
2
Tay Bac University, Block 1, Chu Van An, Quyet Tam, Son La, Vietnam
Abstract: The vegetation at Muong Nhe nature reserve has been described in 5 types: Tropical
evergreen moist monsoon closed forest (only secondary sub-types formed by human activities);
Tropical semi-evergreen semi-dry monsoon closed forest; Sub-tropical evergreen moist monsoon
closed forest (including secondary sub-types formed by human activities); Sub-tropical evergreen
moist monsoon broad-leaved mixed with conifers forest; Sub-tropical semi-dry monsoon deciduous
forest (only secondary sub-types formed by human activities) and cultivated plant communities. The
results showed that the closed forest is only located at sub-tropical zone. Based on species existed in
each forest sub-type or community, the abundant species in tropical zone are fast-growing and
photophilic plants while the abundant species in sub-tropical zone include both fast-growing plants
and typical sub-tropical plants with monsoon moi climate or monsoon semi-dry climate. In the winter,
the tropical semi-evergreen forest and sub-tropical deciduous forest can enlarge their colony to the
north-western part. The non fast-growing and photophilic species are expected to be most abundant in
the future based on currently vegetation succession indication, and there will be increasingly more
closed forests in the near future at Muong Nhe nature reserve.
Keywords: Muong Nhe, evergreen forest, semi-evergreen forest, decidouos forest.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4108_49_8338_2_10_20180119_7902_2013771.pdf