KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây đã có rất nhiều
nghiên cứu tập trung vào mạng không dây
kiểu không cấu trúc. Một trong những hướng
nghiên cứu quan trọng là thiết kế các giao
thức định tuyến đảm bảo thời gian truyền dữ
liệu nhanh, độ tin cậy cao và có cơ chế đảm
bảo chất lượng dịch vụ. Nhằm cải tiến các
nhược điểm của các giao thức định tuyến đơn
đường truyền thống trong mạng không dây
kiểu không cấu trúc, đã có một số giao thức
định tuyến đa đường tiếp cận theo mục tiêu
giảm thời gian trễ khi truyền dữ liệu được đề
xuất. Với những cải tiến đã đưa ra của các
giao thức này, hiệu năng của chúng đã được
cải thiện so với các giao thức đơn đường
truyền thống nhưng rất khó để có thể lựa chọn
một giao thức định tuyến đa đường giảm thời
gian trễ là giao thức tối ưu đối với mọi tham
số về hiệu năng. Việc lựa chọn một giao thức
định tuyến đa đường giảm thời gian trễ còn
phải phụ thuộc vào các tham số cụ thể của mô
hình mạng cụ thể. Ngoài ra, các giao thức
định tuyến này vẫn cần phải cải tiến về cơ
chế tìm đường, cơ chế lựa chọn đường và
cơ chế cân bằng tải để có thể đạt được hiệu
năng tốt hơn.
7 trang |
Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 622 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá một số giao thức định tuyến đa đường giảm thời gian trễ trong mạng Manet - Đỗ Đình Cường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đỗ Đình Cường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 51 - 57
51
ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ GIAO THỨC ĐỊNH TUYẾN ĐA ĐƯỜNG
GIẢM THỜI GIAN TRỄ TRONG MẠNG MANET
Đỗ Đình Cường*, Nguyễn Anh Chuyên
Trường Đại học Công nghệ Thông tin & Truyền thông – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Trong những năm gần đây có một hướng tiếp cận mới cho bài toán định tuyến trong mạng
MANET là định tuyến đa đường. Bài báo này trình bày một cách tổng quan về các đặc điểm chính
trong cơ chế hoạt động của một số giao thức định tuyến đa đường mới cho mạng MANET tiếp cận
theo mục tiêu giảm thời gian trễ, sau đó thực hiện việc phân tích, so sánh và đánh giá chúng theo
các tiêu chí về hiệu năng hoạt động, đồng thời chỉ ra hướng cần cải tiến của các giao thức này.
Từ khoá: Mạng MANET, Định tuyến đa đường, Thời gian trễ, Tìm đường, Lựa chọn đường.
GIỚI THIỆU*
Mạng không dây di động không cấu trúc
(MANET) là một mạng bao gồm tập các nút
di động không có cơ chế quản trị tập trung.
Mạng MANET có khả năng tự cấu hình, tự tổ
chức và tự bảo trì hoạt động của mình, có thể
tương thích với các mạng có hình trạng động.
Tuy nhiên, mỗi nút di động lại có những hạn
chế về tài nguyên như năng lượng nguồn, khả
năng xử lý và bộ nhớ. Cơ chế truyền thông
giữa các nút di động trong mạng MANET là
cơ chế đa chặng. Do đó, thời gian tồn tại của
mỗi nút đi động trong mạng là rất quan trọng.
Việc thiết kế giao thức định tuyến hiệu quả
cho mạng MANET là một bài toán được quan
tâm nhiều trong các nghiên cứu về hệ thống
mạng di động trong thời gian qua.
Có nhiều giao thức định tuyến đơn đường cho
mạng MANET đã được đề xuất và có thể chia
chúng thành hai nhóm chính là các giao thức
“tìm đường trước” và các giao thức “tìm
đường theo yêu cầu”. Các giao thức này đều
chỉ sử dụng duy nhất một con đường tối ưu để
truyền dữ liệu giữa một cặp nút nguồn-đích.
Thông thường đây là con đường ngắn nhất.
Các nghiên cứu trong [1], [2], [10] và [13] đã
chỉ ra rằng, thuật toán tìm đường ngắn nhất
không phải là lựa chọn tốt nhất cho mạng
MANET. Khi thuật toán này được sử dụng,
các nút phân bố xung quanh tâm sẽ phải
truyền lưu lượng dữ liệu định tuyến nhiều hơn
các nút phân bố gần biên của mạng. Điều này
*
Tel: 0982 990908, Email: ddcuong@ictu.edu.vn
có thể gây ra tình trạng tắc nghẽn khi có nhiều
kết nối được thiết lập trong mạng làm ảnh
hưởng tới hiệu năng mạng ở khía cạnh thời
gian trễ và thông lượng.
Để giải quyết các hạn chế này, thay vì việc
tìm ra và sử dụng duy nhất một con đường để
truyền dữ liệu, sẽ có nhiều hơn một con
đường được sử dụng đồng thời để truyền dữ
liệu trong các giao thức định tuyến đa đường.
Các giao thức định tuyến đa đường được phân
loại theo mục tiêu tiếp cận của chúng. Trong
số năm nhóm giao thức định tuyến đa đường
đã được phân loại trong [12], bài báo này chỉ
tập trung đánh giá nhóm thứ nhất là nhóm các
giao thức định tuyến đa đường giảm thời gian
trễ. Nhóm này bao gồm các giao thức: Định
tuyến đường dự phòng [8], định tuyến đa
đường trên cơ sở định tuyến vùng Fresnel
(FZR) [7], định tuyến AODV đa đường với
cơ chế chọn đường theo xác suất (AODVM-
PSP) [6], định tuyến đa đường có độ ưu tiên
(PRIMAR) [5], định tuyến theo góc địa lý
(BGR) [11] và định tuyến đa đường Split-n-
save [4].
Phần còn lại của bài báo được tổ chức như
sau: Mục 2 trình bày về hoạt động chi tiết, ưu
điểm, nhược điểm và các hạn chế của các
giao thức định tuyến đa đường nhằm giảm
thời gian trễ đã nói đến ở trên. Mục 3 thực
hiện việc so sánh phân tích các giao thức đã
đưa ra trên các tham số về hiệu năng. Mục 4
phân tích các nhược điểm cần cải tiến của các
giao thức này và Mục 5 là kết luận của bài báo.
Đỗ Đình Cường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 51 - 57
52
ĐỊNH TUYẾN ĐA ĐƯỜNG NHẰM GIẢM
THỜI GIAN TRỄ
Phần lớn các giao thức định tuyến đa đường
đều được phát triển từ các giao thức định
tuyến đơn đường truyền thống dành cho mạng
MANET là giao thức DSR[3] và AODV[9].
Tuy nhiên các giao thức DSR và AODV
không có khả năng tương thích cao với các
mạng có kích thước thay đổi thường xuyên.
Vấn đề thay đổi hình trạng mạng dẫn đến tình
trạng làm tăng các gói tin điều khiển, tăng
thời gian trễ, mất độ tin cậy khi truyền dữ liệu
và tốn năng lượng nguồn nuôi các nút di
động. Thời gian trễ lớn khi truyền gói tin giữa
hai điểm đầu-cuối là một vấn đề ảnh hưởng
nhiều tới hiệu năng của các giao thức định
tuyến theo yêu cầu. Nguyên nhân của vấn đề
này là việc lựa chọn đường không hiệu quả,
cân bằng tải không thích hợp và số lượng gói
tin điều khiển lớn.
Mục tiêu chính của những giao thức định
tuyến thuộc nhóm định tuyến đa đường nhằm
giảm thời gian trễ là đảm bảo cân bằng tải dữ
liệu giữa các nút di động sao cho không có
đoạn mạng nào bị tắc nghẽn. Các tác giả
Pham và Perau trong [10] đã chỉ ra rằng nếu
sử dụng định tuyến chọn đường ngắn nhất,
các liên kết gần tâm của mạng phải hoạt động
nhiều hơn so với các liên kết ở gần biên. Do
đó không đảm bảo cân bằng tải dữ liệu giữa
các nút mạng và điều này làm cho thời gian
trễ của các gói tin phải truyền qua tâm của
mạng tăng lên. Để giải quyết vấn đề này các
giao thức định tuyến đa đường giảm thời gian
trễ dành cho mạng MANET đã được đề xuất.
Giao thức định tuyến đa đường dự phòng
Một cơ chế định tuyến có tên gọi là định
tuyến đa đường dự phòng đã được tác giả Lim
giới thiệu trong [8] nhằm cải thiện hiệu năng
của các mạng sử dụng giao thức TCP ở tầng
Chuyển vận. Tác giả này đã phát biểu rằng
mặc dù giao thức định tuyến đa đường làm
việc tốt với các lưu lượng UDP nhưng khi sử
dụng các lưu lượng TCP, hiệu năng của nó sẽ
bị giảm. Vấn đề giảm hiệu năng này do một
trong các nguyên nhân sau gây nên: thứ nhất
là không ước lượng được một cách chính xác
thời gian truyền một vòng trung bình (RTT)
trong định tuyến đa đường bởi vì mỗi một con
đường có một giá trị RTT khác nhau và thứ
hai là các gói tin đi theo các con đường khác
nhau tới đích với thứ tự thay đổi có thể làm
cho nút đích gửi đúp gói báo nhận dẫn tới
việc giảm một cách không cần thiết kích
thước cửa sổ trượt. Để giải quyết vấn đề này,
chỉ có một con đường được sử dụng tại một
thời điểm nhưng vẫn cần duy trì các con
đường dự phòng. Vấn đề quan trọng ở đây
chính là cơ chế lựa chọn đường chính cũng
như lựa chọn một tập các đường dự phòng.
Khác với giao thức DSR, một nút đích chỉ trả
lời hai gói yêu cầu tìm đường. Một gói trả lời
đường chứa đường chính và một gói khác
chứa đường dự phòng. Nút đích sử dụng ba
điều kiện chính để lựa chọn đường: (1) đường
ngắn nhất, (2) đường có thời gian trễ nhỏ nhất
và (3) đường khác biệt nhiều nhất. Đường
ngắn nhất tương tự như đường do giao thức
DSR lựa chọn. Sự kết hợp của ba điều kiện
này sẽ tạo thành nhiều kiểu cơ chế lựa chọn
đường chính và đường dự phòng khác nhau.
Cơ chế lựa chọn thứ nhất thực hiện việc chọn
đường ngắn nhất là đường chính và đường có
độ trễ nhỏ nhất là đường dự phòng. Cơ chế
thứ hai chọn đường có độ trễ ngắn nhất làm
đường chính và đường khác biệt nhiều nhất là
đường dự phòng. Kết quả mô phỏng của
nghiên cứu này đã cho thấy rằng hiệu năng
của mạng đã được tăng lên đối với thông số
độ trễ định tuyến và lượng thông điệp điều
khiển khi các nút di chuyển với tốc độ từ
10m/s tới 20m/s khi áp dụng định tuyến đa
đường dự phòng so với định tuyến DSR khi
áp dụng cơ chế thứ nhất.
Giao thức định tuyến đa đường trên cơ sở
định tuyến vùng Fresnel
Định tuyến đa đường trên cơ sở định tuyến
vùng Fresnel (FZR) được các tác giả Liang và
Midkiff đề xuất trong [7]. Khái niệm vùng
Fresnel là khái niệm xuất phát từ lý thuyết
truyền sóng áp dụng vào kỹ thuật định tuyến
trong mạng ad-hoc. FZR phân loại các nút
trung gian theo khả năng và hiệu suất chuyển
tiếp gói tin của chúng. Giao thức FZR là giao
thức định tuyến kết hợp giữa kỹ thuật định
tuyến “tìm đường trước” và kỹ thuật định
tuyến “theo yêu cầu”. FZR có thể làm giảm
Đỗ Đình Cường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 51 - 57
53
bớt tắc nghẽn tại các nút trung gian và đạt
được thông lượng tốt hơn tại tầng Chuyển
vận. Nó sử dụng độ đo số chặng trong quá
trình xây dựng vùng. Xét một nút nguồn S và
một nút đích D trong mạng. Khoảng cách
ngắn nhất tính theo số chặng giữa S và D là L.
Nếu có một con đường ngắn nhất từ S tới D
qua một nút trung gian có L+n-1 chặng thì nút
này thuộc vào vùng thứ n và con đường này
được gọi là con đường thứ n. Trong FZR, mỗi
một nút phải duy trì một bảng khoảng cách.
Để xây dựng và duy trì bảng này, nút di động
sử dụng các gói tin Hello. Khi một nút nhận
được một gói tin Hello, nó sẽ cập nhật bảng
khoảng cách của mình. Khi bảng khoảng cách
được truyền qua mạng, mỗi nút sẽ cập nhật
bảng khoảng cách của mình và xác định con
đường thứ nhất. FZR xác định con đường thứ
hai theo kiểu “tìm đường theo yêu cầu”. Khi
có một nút nằm trong vùng thứ nhất khởi tạo
tiến trình tìm đường bằng gói tin yêu cầu
đường, gói tin này sẽ được quảng bá tới các
nút láng giềng thuộc vùng thứ hai. Ta gọi nút
thuộc vùng thứ hai nhận gói tin yêu cầu
đường đầu tiên là nút láng giềng một chặng.
Nút một chặng sẽ tiếp tục quảng bá gói tin
này tới các nút láng giềng của nó. Khi một nút
tiếp theo nằm trong vùng thứ hai nhận được
gói tin yêu cầu đường từ nút một chặng, nó sẽ
là nút hai chặng. Nút hai chặng này sẽ gửi gói
tin trả lời đường cho nút nguồn qua nút láng
giềng một chặng. Nút láng giềng một chặng
sẽ ghi lại con đường chuyển tiếp qua nút 2
chặng vào bảng định tuyến của mình và
chuyển tiếp gói tin trả lời đường tới nút
nguồn. Khi đó nút nguồn sẽ ghi con đường
này vào bảng định tuyến của mình. Với cơ
chế này, một nút nguồn có thể tìm ra một
hoặc nhiều đường thứ hai. Có thể hình thành
nhiều vùng bằng cách sử dụng phương pháp
này nhưng để hạn chế nhiễu, định tuyến FZR
chỉ giới hạn sử dụng con đường thứ nhất và
đường thứ hai. FZR chấp nhận cách tiếp cận
đơn giản khi phân phối dữ liệu qua nhiều
đường. Nếu tồn tại nhiều con đường khác
nhau, FZR sẽ phân phối dữ liệu từng phần
qua tất cả các con đường. Quá trình phân phối
dữ liệu qua nhiều đường có thể điều chỉnh
động tuỳ theo điều kiện về băng thông và tắc
nghẽn của mạng.
Giao thức định tuyến AODV đa đường với
cơ chế chọn đường theo xác suất
Giao thức định tuyến đa đường theo yêu cầu
dạng véc tơ khoảng cách với cơ chế chọn
đường theo xác suất (AODVM-PSP) do tác
giả Jing đề xuất trong [6]. Giao thức này là
giao thức mở rộng của giao thức AODVM
[15]. Tiến trình tìm đường của AODVM-DSP
tương tự như AODV [9]. Quá trình thiết lập
nhiều đường tương tự như giao thức
AODVM. Sự khác biệt chính giữa AODVM-
DSP và AODVM là AODVM-DSP xem xét
đến yếu tố độ trễ dọc theo con đường khi đưa
ra một quyết định chọn đường. Khi một nút
gửi một gói tin tới đích, gói tin này sẽ chứa
các thông tin về thời gian bắt đầu được truyền
đi. Một nút trung gian hoặc một nút nguồn có
thể ước lượng độ trễ trên cơ sở thông tin này.
Nút nguồn xác định con đường tốt nhất theo
xác suất của con đường đó trên cơ sở độ trễ
khi truyền theo đường này. Xác suất của một
con đường thứ i giữa nút nguồn S và nút đích D
ký hiệu là Pi(S, D) được tính bằng công thức:
trong đó Ti(S, D) là thời gian trễ khi truyền từ
nút S tới nút D theo con đường thứ i và k là
số lượng các con đường đi từ nút S tới nút D.
Khác với giao thức AODVM, giao thức
AODVM-PSP không tìm kiếm các con đường
khác biệt. Nó cũng không sử dụng các gói tin
nhận biết sự tồn tại của các nút như AODVM.
Vì vậy, tiến trình tìm đường của giao thức
AODVM-PSP không diễn ra thường xuyên
như trong giao thức AODVM và điều này làm
giảm bớt lượng thông tin điều khiển truyền
trong mạng.
Giao thức định tuyến đa đường Split-n-Save
Các tác giả Cha và Lee đã hiệu chỉnh giao
thức AODVM thành giao thức split-n-save
[4] nhằm đạt được hai mục tiêu chính: (1) để
đảm bảo giao thức định tuyến đa đường hoạt
động tốt qua thời gian hoạt động của các nút
và (2) để cân bằng giữa định tuyến và chuyển
tiếp dữ liệu trong mạng. Các tác giả này đã
đặt tên cho hai mục tiêu trên là khả năng sống
Đỗ Đình Cường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 51 - 57
54
của mạng và khả năng đáp ứng của nút. Khả
năng sống của mạng được định nghĩa là số
lượng nút đang hoạt động qua một khoảng
thời gian cho trước. Khả năng đáp ứng của
mạng được định nghĩa là tỷ lệ giữa số lượng
gói tin do nút sinh ra trên số lượng gói tin do
nút chuyển tiếp tới các nút khác. Các tác giả
đã đề xuất một cơ chế phân kênh đơn giản
dành cho việc chuyển đổi lưu lượng giữa các
con đường. Theo cơ chế này, một nút nguồn
sẽ chuyển đường truyền dữ liệu sau khi truyền
k gói tin trên một con đường. Khi k=1, giao
thức sẽ chuyển đường truyền dữ liệu sau mỗi
gói tin được gửi. Khi k=0, nó sẽ sử dụng duy
nhất một con đường cho đến khi đường này bị
lỗi. Các kết quả mô phỏng trên cơ sở các giá
trị k khác nhau đã chỉ ra rằng thời gian trễ cho
từng gói tin cao hơn khi k=0 hoặc k=1 so với
các trường hợp k lớn hơn 1. Đối với trường
hợp k=0 hoặc k=1, giá trị thời gian trễ biến
động tương đối rộng còn đối với các trường
hợp k nhận giá trị khác, giá trị thời gian trễ
biến động không nhiều. Từ các kết quả này,
các tác giả đã kết luận rằng với trường hợp
k=0 hoặc k=1, một số ít nút trong mạng phải
đóng vai trò là nút trung tâm giữa các kết nối
khác nhau do đó rất dễ xảy ra hiện tượng tắc
nghẽn dữ liệu tại các nút này. Khi lựa chọn
các giá trị k lớn hơn, xác xuất xảy ra hiện
tượng tắc nghẽn này sẽ giảm đi.
Giao thức định tuyến đa đường có độ ưu tiên
Giao thức định tuyến đa đường có độ ưu tiên
(PRIMAR) được đề xuất bởi Huang và Fang
năm 2005 [5]. Trong giao thức này, nhiều con
đường được lựa chọn giữa nút nguồn và nút
đích phụ thuộc vào loại lưu lượng. Giao thức
này giả định rằng nút nguồn nhận biết được
độ quan trọng của một gói tin khi gửi nó tới
nút đích. Nút nguồn sử dụng một giá trị để
phân loại các gói tin dựa vào độ quan trọng
của nó. Quá trình quyết định đường đi được
tạo ra trên cơ sở sử dụng độ ưu tiên của giá trị
này. Các gói tin có độ ưu tiên thấp hơn sẽ
được truyền trên các con đường dài hơn so
với các gói tin có độ ưu tiên cao. Độ ưu tiên
được gán các giá trị từ 1 tới M với M là độ ưu
tiên cao nhất. Gói tin có độ ưu tiên cao nhất
sẽ được truyền trên con đường tối ưu trong số
M con đường. Đường tối ưu được định nghĩa
là đường có độ trễ nhỏ nhất. Mặc dù có M giá
trị độ ưu tiên đã được thiết lập nhưng có thể
có trường hợp số lượng các con đường đầu ra
nhỏ hơn M. Trong trường hợp này độ ưu tiên
cao nhất được thiết lập là m = min(M, K) với
K là tổng số con đường giữa nút nguồn và nút
đích đã tìm được. Sau khi nhận được một gói
tin, một nút sẽ kiểm tra độ ưu tiên của gói tin
và chuyển tiếp gói này tới chặng kế tiếp thích
hợp. Độ trễ đầu-cuối luôn biến đổi trong
mạng không dây vì vậy độ trễ trung bình
được sử dụng để cập nhật bảng định tuyến.
Các nút sẽ cập nhật độ trễ trung bình bằng
cách sử dụng cơ chế báo nhận thuộc tầng
MAC. Tiến trình duy trì đường của giao thức
PRIMAR tương tự như giao thức DSR nhưng
thủ tục duy trì đường của PRIMAR chỉ được
kích hoạt khi có một con đường bị lỗi hoặc có
một con đường không đáp ứng điều kiện về
độ trễ của gói tin. Sự thay đổi này trong tiến
trình duy trì đường cho phép giao thức
PRIMAR đáp ứng được yêu cầu truyền dữ
liệu có độ ưu tiên cao.
Giao thức định tuyến theo góc địa lý
Giao thức định tuyến theo góc địa lý (BGR)
[11] được Popa và các cộng sự giới thiệu
nhằm cải thiện thông số thời gian trễ của hiệu
năng mạng bằng cách sử dụng thông tin về sự
tắc nghẽn trong mạng. Ý tưởng chính của
giao thức BGR là chèn vào mỗi gói tin một
giá trị góc nghiêng bias. Giá trị này xác định
quỹ đạo của con đường tiến về phía đích. Hai
thuật toán điều khiển tắc nghẽnđược sử dụng
trong giao thức BGR là thuật toán thuật toán
tách gói trong mạng IPS và thuật toán tách
gói đầu cuối EPS. Thuật toán IPS phân tách
dòng lưu lượng truyền dữ liệu để tránh khỏi
hiện tượng tắc nghẽn tức thời. Hiện tượng này
xảy ra khi có quá nhiều kết nối cùng được
thiết lập trên một đoạn mạng nào đó. Để tránh
khỏi hiện tượng này, thuật toán IPS phân tách
dòng lưu lượng dữ liệu ngay trước các điểm
tắc nghẽn. Thuật toán này yêu cầu thông tin
về tắc nghẽn phải được định kỳ trao đổi giữa
các nút láng giềng. Nếu thuật toán IPS không
đạt được hiệu quả về giảm tắc nghẽn, thuật
Đỗ Đình Cường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 51 - 57
55
toán EPS sẽ được kích hoạt. Trong trường
hợp của thuật toán EPS, nút nguồn sẽ chia lưu
lượng dữ liệu theo nhiều con đường khác
nhau và do đó giảm được tắc nghẽn. Các kết
quả mô phỏng cho thấy rằng việc kết hợp
giữa thuật toán IPS và thuật toán EPS cải
thiện khá tốt thời gian phân phối gói tin giữa
các nút và do đó làm cho thông lượng của
mạng tăng lên.
ĐÁNH GIÁ HIỆU NĂNG CÁC GIAO
THỨC ĐỊNH TUYẾN ĐA ĐƯỜNG GIẢM
THỜI GIAN TRỄ
Trên cơ sở mô phỏng các giao thức định
tuyến đa đường và so sánh cơ chế hoạt động
của các giao thức [12], bảng sau đây trong
đưa ra các so sánh về hiệu năng của các giao
thức định tuyến đa đường giảm thời gian trễ:
Nhìn vào bảng trên có thể kết luận rằng
không có giao thức nào là tối ưu đối với mọi
tham số về hiệu năng ngoài tham số về thời
gian trễ. Tuy nhiên với từng trường hợp cụ
thể ta có thể lựa chọn được giao thức phù hợp
nhất. Đối với các mạng có tần suất di chuyển
của các nút mạng và tần suất thay đổi hình
trạng mạng là lớn, nếu chấp nhận được mức
độ tiêu tốn nhiều năng lượng nguồn của các
nút mạng và lượng thông tin điều khiển nhiều
thì giao thức PRIMAR là giao thức tốt nhất.
Đối với các mạng cần dành nhiều băng thông
cho dữ liệu và tần suất di chuyển của các nút
không nhiều đồng thời không yêu cầu quá cao
về độ tin cậy tại tầng mạng thì giao thức định
tuyến đa đường dự phòng là giao thức tối ưu.
Đối với các mạng sử dụng các ứng dụng cần
thời gian hoạt động dài của các nút mạng
trong khi các nút mạng di chuyển nhiều và
chấp nhận được tỷ lệ cao giữa số lượng gói
tin điều khiển/ số lượng gói tin dữ liệu thì
giao thức định tuyến Split-N-Save lại là sự
lựa chọn hàng đầu.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN CẢI TIẾN TRONG
CÁC GIAO THỨC ĐỊNH TUYẾN ĐA
ĐƯỜNG
Mặc dù các giao thức định tuyến đa đường cải
thiện được kỹ thuật phân luồng dữ liệu, độ tin
cậy, độ trễ và khả năng sử dụng hiệu quả
năng lượng nhưng chúng vẫn gặp phải các
vấn đề kỹ thuật sau:
Chọn đường dài hơn: Trong một giao thức
định tuyến đa đường, thông thường các gói
tin di chuyển qua số chặng nhiều hơn so với
giao thức định tuyến chọn đường ngắn nhất.
Do đó, thời gian trễ khi truyền các gói tin sẽ
lớn hơn. Vẫn cần có các thử nghiệm về các kỹ
thuật lựa chọn các con đường truyền dữ liệu
trong các giao thức định tuyến đa đường đã
đề cập để hạn chế việc các giao thức sử dụng
các con đường quá dài.
Gói tin điều khiển đặc biệt: Ngoài các gói
tin điều khiển sử dụng trong cơ chế tìm
đường và duy trì đường, một giao thức định
tuyến đa đường còn sử dụng thêm các gói tin
điều khiển khác. Các gói tin điều khiển này
được nút di động sử dụng để tập hợp các
thông tin về các nút láng giềng để tìm ra các
con đường khác. Chúng có thể chiếm một
phần băng thông quan trọng trong mạng đặc
biệt là đối với các mạng lớn và do đó làm ảnh
hưởng tới hiệu năng của mạng. Vì vậy cần có
những kỹ thuật làm hạn chế số lượng và kích
thước gói tin điều khiển.
Bảng 1: So sánh các thông số về hiệu năng của các giao thức định tuyến đa đường giảm thời gian trễ
Giao thức Thông tin
điều khiển Độ tin cậy
Độ hiệu quả sử
dụng năng
lượng
Hỗ trợ tính
di động
Định tuyến đường dự phòng [8] Ít Trung bình Trung bình Thấp
Định tuyến đa đường Fresnel [7] Nhiều Thấp Thấp Cao
Định tuyến AODVM-PSP [6] Nhiều Thấp Thấp Thấp
Định tuyến PRIMAR [5] Nhiều Cao Thấp Cao
Định tuyến BGR [11] Nhiều Thấp Trung bình Thấp
Định tuyến Spit-n-Save [4] Nhiều Trung bình Cao Thấp
Đỗ Đình Cường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 51 - 57
56
Cơn bão gói tin tìm đường: Giao thức định
tuyến đa đường có thể sinh ra một số lượng
lớn các gói tin tìm đường trong mạng
MANET trong tiến trình tìm đường. Cần có
những kỹ thuật và thuật toán hạn chế chuyển
tiếp các gói tin tìm đường không cần thiết
nhằm làm giảm hiệu ứng của cơn bão gói tin
tìm đường.
Tìm đường không hiệu quả: Tiến trình tìm
đường của một giao thức định tuyến đa đường
có thể không hiệu quả bằng các giao thức
DSR và AODV. Trong tiến trình tìm đường
của DSR và AODV, một nút trung gian được
cho phép gửi gói tin trả lời từ bộ nhớ đường
của chúng nếu chúng tìm thấy một con đường
phù hợp trong bộ nhớ đường của mình. Điều
này làm giảm thời gian tìm đường từ nút
nguồn bởi vì nút nguồn có thể không phải đợi
cho đến khi gói tin tìm đường đến được nút
đích. Tuy nhiên, trong các giao thức định
tuyến đa đường sử dụng các con đường khác
biệt theo nút hoặc khác biệt theo liên kết,
không cho phép các nút trung gian gửi gói tin
trả lời từ bộ nhớ đường của mình. Do đó, nút
nguồn phải đợi cho đến khi gói tin tìm đường
tới được nút đích. Vì vậy, thông thường thời
gian tìm đường của các giao thức định tuyến
đa đường thường dài hơn so với giao thức
DSR hoặc AODV. Do đó, cần có những cải
tiến tiếp theo làm giảm thời gian tìm đường
trong giao thức định tuyến đường dự phòng
[8] khi sử dụng đường khác biệt.
Xử lý các gói tin đúp: Để đảm bảo khả năng
truyền dữ liệu một cách tin cậy, các giao thức
định tuyến đa đường của Tsirigos [13] và
Wang [14] đề xuất sử dụng các đường đi khác
nhau để gửi các bản sao của cùng một gói tin.
Các gói tin nhân bản chính là các gói tin dư
thừa và đương nhiên là chúng sẽ chiếm giữ
băng thông của hệ thống mạng. Thêm vào đó,
các giao thức này cũng yêu cầu kỹ thuật nhân
bản gói tin tại nút nguồn và lọc gói tin nhân
bản tại nút đích. Các kỹ thuật xử lý gói tin
đúp này vẫn cần được cải tiến để đạt được
hiệu quả cao hơn.
KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây đã có rất nhiều
nghiên cứu tập trung vào mạng không dây
kiểu không cấu trúc. Một trong những hướng
nghiên cứu quan trọng là thiết kế các giao
thức định tuyến đảm bảo thời gian truyền dữ
liệu nhanh, độ tin cậy cao và có cơ chế đảm
bảo chất lượng dịch vụ. Nhằm cải tiến các
nhược điểm của các giao thức định tuyến đơn
đường truyền thống trong mạng không dây
kiểu không cấu trúc, đã có một số giao thức
định tuyến đa đường tiếp cận theo mục tiêu
giảm thời gian trễ khi truyền dữ liệu được đề
xuất. Với những cải tiến đã đưa ra của các
giao thức này, hiệu năng của chúng đã được
cải thiện so với các giao thức đơn đường
truyền thống nhưng rất khó để có thể lựa chọn
một giao thức định tuyến đa đường giảm thời
gian trễ là giao thức tối ưu đối với mọi tham
số về hiệu năng. Việc lựa chọn một giao thức
định tuyến đa đường giảm thời gian trễ còn
phải phụ thuộc vào các tham số cụ thể của mô
hình mạng cụ thể. Ngoài ra, các giao thức
định tuyến này vẫn cần phải cải tiến về cơ
chế tìm đường, cơ chế lựa chọn đường và
cơ chế cân bằng tải để có thể đạt được hiệu
năng tốt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Anurag K, Manjunath D, Kuri J.
Communication networking: an analytical
approach, Los Altos, CA: Morgan Kaufmann
Publishers; 2004. P.715-720
[2]. Bertsekas D, Gallager R. Data networks, 2nd
ed. Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall; 1992
p.162-170
[3]. Broch J, Johnson DB, Maltz DA. The
dynamic source routing for mobile ad hoc
networks. IETF Internet-draft, draft-ietf-manet-
dsr-00.txt; 1998.
[4]. Cha M, Lee DK. Split-n-save multiplexing in
wireless ad hoc routing. In: Proceedings of the
24th annual joint conference of the IEEE computer
and communications societies (INFOCOM),
Miami, March 2005.
[5]. Huang X, Fang Y. End-to-end delay
differentiation by prioritized multipath routing in
wireless sensor networks. In: Military
communications conference, MILCOM 2005, vol.
2, p. 1277-1283.
[6]. Jing F, Bhuvaneswaran RS, Katayama Y,
Takahashi N. A multipath on-demand routing with
path selection probabilities for mobile ad hoc
networks. In: Proceedings of the international
Đỗ Đình Cường và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 51 - 57
57
conference on wireless communications,
networking and mobile computing, 2005, vol. 2, p.
1145-1151.
[7]. Liang Y, Midkiff SF. Multipath Fresnel zone
routing for wireless ad hoc networks. In:
Proceedings of the IEEE wireless communications
and networking conference, vol. 4, March 2005,
p. 1958–1963.
[8]. Lim H, Xu K, Gerla M. TCP performance
over multipath routing in mobile ad hoc networks.
In: IEEE international conference on
communication (ICC), vol. 2, 2003, p. 1064–1070.
[9]. Perkins CE. Ad hoc on-demand distance
vector (AODV) routing. IETF Internet-draft, draft-
ietf-manet-aodv-00.txt; 1997.
[10]. Pham PP, Perrau S. Performance analysis of
reactive shortest path and multipath routing
mechanism with load balance. In: Proceedings of
the IEEE INFOCOM, San Francisco, California,
USA, April 2003, p. 251-259.
[11]. Popa L, Raiciu C, Stoica I, Rosenblum DS.
Reducing congestion effects in wireless networks
by multipath routing. In: Proceeding of the 14th
IEEE international conference on network
protocols, Santa Barbara, California, USA,
November 2006, p. 96-104.
[12]. Tarique M, Kelnal E. Tepe, Sasan Adibi,
Shervin Erfani. Survey of multipath routing
protocols for mobile ad hoc networks. In: Journal
of Network and Computer Applications 32, 2009,
p. 1125-1143.
[13]. Tsirigos A, Haas ZJ, Tabrizi SS. Multipath
routing in mobile ad hoc networks or how to route
in the presence of frequent topology changes In:
Proceedings of themilitary communications
conference, vol. 2, Vienna, Virginia, October
2001, p. 878–883.
[14]. Wang L, Jang S, Lee T-Y. Redundant source
routing for real-time services in ad hoc networks.
In: Proceedings of IEEE international conference
on mobile ad hoc and sensor systems conference,
Washington, DC, November, 2005.
[15]. Ye Z, Krishnamurthy SV, Tripathi SK. A
framework for reliable routing in mobile ad hoc
networks. In: Proceedings of the 22nd annual joint
conference of the IEEE computer and
communications societies (INFOCOM), vol. 1,
2003, p. 270-280.
SUMMARY
EVALUATING DELAY-AWARE MULTIPATH ROUTING PROTOCOLS
IN MANET
Do Dinh Cuong*, Nguyen Anh Chuyen
College of Information Technology and Communication - TNU
Recently, multipath routing has become a new approach for routing in MANET. In this paper, we
introduces a fundamental overview about operation mechanism of several new delay-aware
multipath routing protocols. Later, we do more action in analyzing, comparing, and evaluating
these protocols based on target and performance. Furthermore, this paper also points out future
works that these protocols need to do.
Keywords: Mobile Adhoc Network, Multipath Routing, Delay, Route Finding, Route Selecting
Ngày nhận bài:30/1/2013, ngày phản biện: 19/2/2013, ngày duyệt đăng:26/3/2013
*
Tel: 0982 990908, Email: ddcuong@ictu.edu.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_38320_41871_5820131543051_2437_2052127.pdf