Nồng độ progesteron tăng liên quan đồng biến có ý nghĩa thống kê với số noãn cao hơn,
nồng độ E2 ngày hCG cao hơn, tỷ lệ quá kích buồng trứng cao hơn và liên quan nghịch biến
có ý nghĩa thống kê với độ dầy niêm mạc tử cung thấp hơn, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ có thai thấp hơn.
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá ảnh hưởng của nồng độ progesteron tại ngày tiêm hCG đến kết quả thụ tinh trong ống nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 86 (1) - 2014 1
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Xuân Hợi, Trung tâm Hỗ trợ sinh
sản, bệnh viện Phụ sản Ttrung ương
Email: Doctorhoi@gmail.com
Ngày nhận: 26/9/2013
Ngày được chấp thuận: 17/2/2014
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ PROGESTERON TẠI
NGÀY TIÊM hCG ĐẾN KẾT QUẢ THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
Nguyễn Xuân Hợi
Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản, Bệnh viện Phụ sản Trung ương
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định mối liên quan giữa nồng độ progesteron tại ngày tiêm hCG và
tỷ lệ có thai lâm sàng thụ tinh trong ống nghiệm và đánh giá các yếu tố liên quan đến tăng nồng độ progesterone,
phân tích liên quan tương tác của nồng độ progesteron và các yếu tố khác đến tỷ lệ có thai lâm sàng. Nghiên
cứu hồi cứu trên 1395 trường hợp IVF/ICSI được thực hiện tại bệnh viện Phụ sản Trung ương từ tháng 1 năm
2010 đến tháng 5 năm 2012. Tuổi ≤ 38; FSH ≤ 10 IU/L; chuyển phôi ngày 2 - 3; phác đồ dài, ngắn và antagonist.
Loại trừ các trường hợp cho nhận noãn; các trường hợp PESA/ICSI. Kết quả cho thấy nồng độ progesterone trung
bình cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm không có thai (0,88 ± 0,77 so với 0,76 ± 0,65). Khi progesterone tăng
> 1,5 ng/ml thì tỷ lệ có thai thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nồng độ progesterone ≤ 1,5 (21,6% so với 30,7%).
Tỷ lệ progesterone tăng > 1,5 ng/ml trong kích thích buồng trứng là 9%. Với ngưỡng progesterone ≤ 1,5 ng/ml thì
tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn 1,63 lần và tỷ lệ làm tổ cao hơn 1,53 lần so với ngưỡng progesteron > 1,5 ng/ml.
Progesteron tăng vào ngày tiêm hCG liên quan đến tỷ lệ có thai lâm sàng thấp hơn.
Từ khóa: progesteron, kết quả thụ tinh trong ống nghiệm
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kích thích buồng trứng thụ tinh trong ống
nghiệm tạo nên sự phát triển các nang noãn
đồng thời cũng làm thay đổi về các hormone.
Nồng độ E2 tăng cao cùng với sự phát triển
của nang noãn. Gần đây, nồng độ
progesteron (P) tăng lên vào giai đoạn cuối
của pha nang noãn đã được nhiều nghiên cứu
đánh giá. Tỷ lệ tăng progesteron chiếm từ
5 - 35% các chu kỳ kích thích buồng trứng
bằng agonist và 20 - 38% trong các chu kỳ
kích thích buồng trứng bằng antagonist [1].
Bosch [2] nghiên cứu hồi cứu 4032 chu kỳ
IVF/ICSI bao gồm cả phác đồ dài và phác đồ
antagonist thì thấy có liên quan giữa nồng độ
progesteron và tỷ lệ thai tiến triển. Tỷ lệ có
thai tiến triển thấp hơn có ý nghĩa khi nồng độ
progesteron > 1,5 ng/ml. Nồng độ progesteron
của phác đồ agonist cao hơn so với phác đồ
antagonist. Tuy vậy, không chỉ progesteron
liên quan đến tỷ lệ có thai mà có thể có tác
động kép của sự chấp nhận của niêm mạc tử
cung và của chất lượng phôi nữa. Tại Việt
Nam, chưa có nghiên cứu nào đánh giá về
progesteron trong các phác đồ kích thích
buồng và tương tác cộng đồng giữa
progesteron và các yếu tố khác đến tỷ lệ có
thai. Do vậy, đề tài được tiến hành với mục tiêu:
Xác định mối liên quan giữa nồng độ
progesteron tại ngày tiêm hCG và tỷ lệ có thai
lâm sàng trong thụ tinh trong ống nghiệm.
Đánh giá các yếu tố liên quan đến tăng
nồng độ progesteron.
Phân tích mối liên quan tương tác của
nồng độ progesteron và các yếu tố khác đến
tỷ lệ có thai lâm sàng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu hồi cứu.
2 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2. Đối tượng: gồm 1395 trường hợp IVF/
ICSI được thực hiện tại bệnh viện Phụ sản
Trung ương từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 5
năm 2012.
Tiêu chuẩn lựa chọn: Tuổi ≤ 38; FSH ≤
10 IU/L; chuyển phôi ngày 2 - 3; phác đồ kích
thích buồng trứng: dài, ngắn (flare - up),
antagonist.
Tiêu chuẩn loại trừ: Các trường hợp cho
nhận noãn; các trường hợp PESA/ICSI; các
trường hợp không có thông tin đầy đủ.
3. Phương pháp
- Cách tính đơn vị progesteron: 1 ng/ml =
3,18 nmol/L.
- Progesteron tăng được xác định khi nồng
độ progesteron ngày tiêm hCG > 1,5 ng/ml.
- Tỷ lệ có thai lâm sàng/chuyển phôi là tiêu
chuẩn cuối cùng của nghiên cứu. Thai lâm
sàng được xác định khi có túi thai trong tử
cung trên siêu âm.
4. Phân tích số liệu
Sử dụng SPSS và so sánh trung bình, so
sánh tỷ lệ và phân tích hồi quy đa biến.
p < 0,05 được cho là sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
5. Đạo đức nghiên cứu
Đây là nghiên cứu hồi cứu mô tả nên
không can thiệp vào bất kỳ quy trình điều trị
nào. Nghiên cứu tuân thủ các quy định về
thực hiện nghiên cứu y sinh.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Tổng số có 1395 trường hợp IVF/ISCI.
Trong đó phác đồ dài có 890 bệnh nhân chiếm
63,8%, phác đồ ngắn có 384 bệnh nhân chiếm
27,4%, phác đồ antagonist có 121 trường hợp
chiếm 8,6%.
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm chung của bệnh nhân %
Tuổi trung bình 31,67 ± 3,87
Thời gian vô sinh 5,36 ± 3,47
Nguyên nhân vô sinh
Do vòi 45,5%
Rối loạn phóng noãn 0,1%
Tinh trùng bất thường 20,5%
Không rõ nguyên nhân 21,6%
Do cả 2 vợ chồng 5,9%
Bất thường tử cung 0,9%
Lạc nội mạc tử cung 0,4%
Khác 0,8%
X
TCNCYH 86 (1) - 2014 3
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
Đặc điểm chung của bệnh nhân %
Kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm
IVF 29,3%
IVF/ICSI 70,7%
Số chu kỳ 1,36 ± 0,82
Số noãn trung bình 7,59 ± 4,26
Niêm mạc tử cung trung bình 11,52 ± 2,60
Số noãn thụ tinh 6,24 ± 3,99
Tỷ lệ thụ tinh % 82,11%
Số phôi 5,57 ± 3,78
Số phôi chuyển 3,63 ± 1,48
Tỷ lệ làm tổ % 9,83%
Tỷ lệ có thai lâm sàng/ chuyển phôi 29,8% (416/1395)
Nghiên cứu bao gồm các bệnh nhân có tuổi trung bình 31,67 ± 3,87 và nguyên nhân vô sinh
chủ yếu do vòi tử cung.
2. Đánh giá liên quan giữa nồng độ progesteron và tỷ lệ có thai lâm sàng
Bảng 2. Liên quan giữa nồng độ progesteron và tỷ lệ có thai lâm sàng
Có thai Không có thai p
Progesteron trung bình 0,76 ± 0,65 (n = 416)
0,88 ± 0,77
(n = 976) p < 0,05
Progesteron ≤ 1,5 (ng/ml) 30,7% (386/1256)
69,3%
(870/1256)
p < 0,05
OR = 1,61
95% CI = 1,05 - 2,45 Progesteron > 1,5 (ng/ml)
21,6%
(30/139)
78,4%
(109/139)
Bảng 2 cho thấy nồng độ progesteron trung bình cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm không
có thai. Khi progesteron tăng > 1,5 ng/ml thì tỷ lệ có thai thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với
nồng độ progesteron ≤ 1,5. Như vậy nồng độ progesteron tăng có liên quan đến tỷ lệ có thai lâm
sàng trong thụ tinh trong ống nghiệm. Tỷ lệ progesteron tăng > 1,5 ng/ml trong kích thích buồng
trứng là 9% (139/1359).
3. Các yếu tố liên quan đến nồng độ progesteron tăng > 1,5 ng/ml
Nồng độ progesteron tăng liên quan đồng biến có ý nghĩa thống kê với số noãn cao hơn, nồng
độ E2 ngày hCG cao hơn, tỷ lệ quá kích buồng trứng cao hơn. Nồng độ progesteron tăng liên
quan nghịch biến có ý nghĩa thống kê với các yếu tố: độ dầy niêm mạc tử cung thấp hơn, tỷ lệ
làm tổ và tỷ lệ có thai thấp hơn (bảng 3).
X
4 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 3. Các yếu tố liên quan với nồng độ progesteron tăng > 1,5 ng/ml
Các yếu tố Progesterone ≤ 1,5 Progesterone > 1,5 p
Tuổi 31,63 ± 3,91 32,01 ± 3,46 > 0,05
Số noãn 7,31 ± 4,02 10,13 ± 5,39 < 0,05
E2 ngày hCG 3673,19 ± 3136,10 7576,49 ± 4460,77 < 0,05
Niêm mạc tử cung 11,58 ± 2,53 11,12 ± 2,33 < 0,05
≥1 phôi tốt 83,5% 79,9% > 0,05
Tỷ lệ làm tổ 10,23% 6,93% OR = 1,53 (1,06 - 2,21)
Tỷ lệ có thai lâm
sàng
30,9% 21,6% OR = 1,63 (1,06 - 2,50)
Quá kích buồng
trứng
4% 18,7% OR = 5,49 (3,29 - 9,16)
4. Phân tích hồi quy đa biến progesteron và các yếu tố liên quan đến tỷ lệ có thai
lâm sàng
Bảng 4. Các yếu tố liên quan với tỷ lệ có thai lâm sàng
Yếu tố liên quan với tỷ lệ có thai
lâm sàng
OR 95% CI
Tuổi ( ≤ 35 và >35) 1,34 0,97 - 1,84
Progesterone (≤ 1,5 và > 1,5 ng/ml) 1,63 1,06 - 2,50
Số noãn (> 4và ≤ 4) 1,40 1,03 - 1,89
Niêm mạc tử cung
( ≥ 10 và < 10)
1,44 1,03 - 2,03
Chất lượng phôi (≥ 1 phôi tốt và
không có phôi tốt
2,71 1,81 - 4,07
Phân tích hồi quy đa biến liên quan đến tỷ lệ có thai lâm sàng, bảng 4 cho thấy các yếu tố tác
động cộng đồng đến tỷ lệ có thai lâm sàng mà không chỉ đơn thuần là progesteron. Progesteron
≤ 1,5 ng/ml thì tỷ lệ có thai lâm sàng cao hơn 1,63 lần, số noãn > 4 noãn thì tỷ lệ có thai cao hơn
1,4 lần, niêm mạc tử cung ≥ 10 mm thì tỷ lệ có thai lâm sàng cao hơn 1,44 lần. Chất lượng phôi
là yếu tố liên quan chặt chẽ nhất. Các trường hợp có ít nhất một phôi chất lượng tốt để chuyển
thì tỷ lệ có thai cao gấp 2,71 lần.
TCNCYH 86 (1) - 2014 5
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
2014
hồi quy đa biến thì số noãn, E2 ngày hCG và
liều FSH là những yếu tố liên quan đến pro-
gesteron tăng cao. Điều này cũng phù hợp với
cơ chế sản xuất progesteron theo thuyết hai tế
bào - hai gonadotropin. Theo đó, khi có nhiều
nang noãn phát triển do kích thích buồng
trứng bằng FSH thì sẽ sản xuất nhiều pro-
gesteron hơn đặc biệt là khi kích thích buồng
trứng chỉ bằng FSH đơn thuần. Nghiên cứu
của Andersen [5] cũng thấy rằng tỷ lệ bệnh
nhân có tăng progesteron cao hơn ở nhóm
dùng rFSH so với nhóm HP - hMG (24,1 so
với 11,8%).
Mối liên quan tương tác của nồng độ
progesteron và các yếu tố khác đến tỷ lệ có
thai lâm sàng: nghiên cứu của chúng tôi khi
phân tích đa biến giữa progesteron và các yếu
tố tác động cộng đồng liên quan đến tỷ lệ thai
lâm sàng cao hơn bao gồm progesteron
≤ 1,5 ng/ml, số noãn > 4 noãn, niêm mạc tử
cung ≥ 10 mm và chất lượng phôi là yếu tố
liên quan chặt chẽ nhất. Các trường hợp có ít
nhất một phôi chất lượng tốt để chuyển thì tỷ
lệ có thai cao gấp 2,71 lần. Nghiên cứu của
Nguyễn Xuân Hợi và Phan Trường Duyệt năm
2010 [7] đã chứng minh được tỷ lệ có thai lâm
sàng và tỷ lệ làm tổ cao hơn có ý nghĩa thống
kê với niêm mạc tử cung > 8 mm, nồng độ
progesteron ≤ 2 nmol/l và chất lượng phôi có
tối thiểu một phôi tốt để chuyển phôi.
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng của
Papanikolaou [8] cho thấy với cả phác đồ dài
agonist và phác đồ antagonist tỷ lệ xuất hiện
tăng progesteron > 1,5 ng/ml tương đương
nhau (24,1 so với 23%). Tỷ lệ sinh sống của
hai phác đồ đều thấp hơn ở nhóm có tăng
p > 1,5 ng/ml.
V. KẾT LUẬN
Nồng độ progesteron tại ngày tiêm hCG
tăng có liên quan tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn
IV. BÀN LUẬN
Mối liên quan giữa nồng độ progesteron tại
ngày tiêm hCG và tỷ lệ có thai lâm sàng trong
thụ tinh trong ống nghiệm: nghiên cứu 1395
trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm cho
thấy nồng độ progesteron tại ngày tiêm hCG
tăng liên quan đến tỷ lệ có thai lâm sàng thấp.
Điều này được chứng minh ở bảng 2 về nồng
độ progesteron trung bình cao hơn có ý nghĩa
thống kê ở nhóm không có thai lâm sàng.
Bảng 3 cho thấy với ngưỡng progesterone
≤ 1,5 ng/ml thì tỷ lệ có thai lâm sàng cao hơn
(30,7% so với 21,6%) và cao hơn 1,63 lần. Tỷ
lệ làm tổ cao hơn (10,23% so với 6,93%) và
cao gấp 1,53 lần. Kết quả này cũng tương tự
như một số nghiên cứu gần đây.
Nghiên cứu của Bosch [2] năm 2010 với
ngưỡng progesteron ≤ 1,5 ng/ml liên quan đến
tỷ lệ thai tiến triển cao hơn (30% so với
19,1%). Nghiên cứu của Elgindy [3] năm 2011
với phác đồ dài cho thấy với ngưỡng
progesteron ≤ 1,5 ng/ml thì tỷ lệ có thai lâm
sàng cao hơn 2,38 lần ( 57,8% so với 24,3%).
Kilicdag [4] năm 2010 cho thấy
progesteron tăng cao > 1,1 ng/ml liên quan
đến tỷ lệ làm tổ thấp và tỷ lệ sinh sống thấp.
Nghiên cứu MERIT của Andersen [5] năm
2006 cũng cho thấy tỷ lệ làm tổ thấp hơn khi
nồng độ progesteron ngày hCG > 4nmol/l
(≈ 1,26 ng/ml). Sự tăng nồng độ progesteron
ảnh hưởng đến nội mạc tử cung được chứng
minh trong nghiên cứu của Melo [6] năm
2006, tỷ lệ có thai ở người nhận noãn không
bị ảnh hưởng khi người cho noãn có tăng
progesteron ngày hCG.
Kết quả cho thấy các yếu tố liên quan đến
nồng độ progesteron tại ngày hCG tăng > 1,5
bao gồm số noãn trung bình cao hơn, nồng độ
E2 trung bình cao hơn. Kết quả này cũng phù
hợp với nghiên cứu của Bosch [2] phân tích
6 TCNCYH 86 (1) - 2014
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
có ý nghĩa thống kê. Với ngưỡng progesteron
≤ 1,5 ng/ml thì tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn
1,63 lần và tỷ lệ làm tổ cao hơn 1,53 lần so
với ngưỡng progesteron > 1,5 ng/ml.
Nồng độ progesteron tăng liên quan đồng
biến có ý nghĩa thống kê với số noãn cao hơn,
nồng độ E2 ngày hCG cao hơn, tỷ lệ quá kích
buồng trứng cao hơn và liên quan nghịch biến
có ý nghĩa thống kê với độ dầy niêm mạc tử
cung thấp hơn, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ có thai
thấp hơn.
Các yếu tố tác động cộng đồng liên quan
đến tỷ lệ thai lâm sàng cao hơn bao gồm
progesteron ≤ 1,5 ng/ml, số noãn > 4 noãn,
niêm mạc tử cung ≥ 10 mm và chất lượng phôi.
Lời cảm ơn
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các bác sĩ,
nữ hộ sinh và điều dưỡng của Trung tâm Hỗ
trợ Sinh sản, bệnh viện Phụ sản Trung ương.
Cảm ơn đặc biệt tới nữ hộ sinh Hoàng Thị
Minh Phương, CN. Ngô Toàn Anh đã tham gia
thu thập và xử lý số liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bosch E, Valencia I, Escudero E et al
(2003). Premature luteinization during gonad-
otropin-releasing hormone antagonist cycles
and its relationship with in vitro fertilization
outcome, Fertil Steril, 80, 1444 - 1449.
2. Bosch E, Labarta E, Crespo J et al
(2010). Circulating progesterone levels and
ongoing pregnancy rates in controlled ovarian
stimulation cycles for in vitro fertilization:
analysis of over 4000 cycles. Hum Reprod, 25,
2092 - 2100.
3. Elgindy EA (2011). Progesterone level
and progesterone/estradiol ratio on the day of
hCG administration: detrimental cutoff levels
and new treatment strategy. Fertil Steril, 95(5),
1639 - 1644.
4. Kilicdag EB, Haydardedeoglu B, Cok
T (2009). Premature progesterone elevation
impairs implantation and live birthrates in
GnRH-agonist IVF/ICSI cycles. Arch Gynecol
Obstet 2009 ; Epub 28 October. DOI: 10.1007/
s 00404-009-1248-0.
5. Andersen AN, Devroey P, Arce JC
(2006). Clinical outcome following stimulation
with highly purified hMG or recombinant FSH
in patients undergoing IVF: a randomized
assessor-blind controlled trial. Hum Reprod,
21, 3217 - 3227.
6. Melo MA, Meseguer M, Garrido N
(2006). The significance of premature luteini-
zation in an oocyte-donation programme",
Hum Reprod, 21, 1503 - 1507.
7. Nguyễn Xuân Hợi, Phan Trường
Duyệt (2010). Nghiên cứu các yếu tố ảnh
hưởng đến tỷ lệ có thai lâm sàng và tỷ lệ làm
tổ trong hỗ trợ sinh sản. Tạp chí nghiên cứu Y
học, 69(4), 59 - 64.
8. Papanikolaou E.G (2012). GnRH-
agonist versus GnRH - antagonist IVF cycles:
is the reproductive outcome affected by the
incidence of progesterone elevation on the day
of HCG triggering? A randomized prospective
study. Hum. Reprod, 27(6), 1822 -1828.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 14_60_1_pb_9453.pdf