Động lực là sự biến đổi cảnh quan theo thời
gian không phụ thuộc vào sự biến đổi cấu trúc
cảnh quan. Động lực cảnh quan chịu tác động
của các nhân tố tự nhiên (năng lượng bức xạ
Mặt trời, hoạt động của gió mùa…) và hoạt
động khai thác lãnh thổ của con người.
Lãnh thổ Bắc Kạn mang đặc điểm động lực
chung của cảnh quan nhiệt đới gió mùa ẩm,
đó là có tổng lượng bức xạ, tổng nhiệt lớn, có
lượng mưa phong phú và hoạt động luân
phiên của gió mùa để tạo nên tính chất mùa
của khí hậu và các thành phần tự nhiên khác.
Điều đó đã quyết định sự hình thành, phát
triển và biến đổi của các yếu tố thành tạo cảnh
quan lãnh thổ, tăng cường hoặc kìm hãm các
quá trình địa mạo, hình thành nên các kiểu địa
hình ở Bắc Kạn như: địa hình bóc mòn, rửa
trôi, xâm thực, xói lở ở các khu vực đồi núi,
sườn dốc và thung lũng thượng nguồn các khe
suối, nhất là trong mùa mưa lũ; địa hình bồi
tụ ở những khu vực trũng thấp như đồi gò
thấp, thung lũng ven sông suối, đồng bằng
giữa núi; địa hình caxtơ độc đáo ở những khu
vực có nhiều đá vôi với nguồn nước ngầm
phong phú. Tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa
của khí hậu còn thúc đẩy các quá trình phong
hóa, hình thành 2 hệ đất chính trên lãnh thổ là
đất feralit ở vùng đồi núi và đất phù sa ở vùng
đồng bằng giữa núi với 4 nhóm đất và hàng
chục loại đất khác nhau. Tính chất nhiệt đới
của khí hậu còn là động lực hình thành và
phát triển thảm thực vật nhiệt đới đa dạng ở
tỉnh Bắc Kạn đó là kiểu rừng nhiệt đới lá rộng
thường xanh mưa mùa ở vùng núi, các loại
cây cây nghiệp lâu năm và cây ăn quả ở vùng
đồi, các loại cây hàng năm và lúa ở vùng
đồng bằng thung lũng khá bằng phẳng. Tính
chất mùa của khí hậu kéo theo tính chất mùa
của chế độ nước sông suối, là động lực phát
triển theo mùa của cây trồng, vật nuôi và hoạt
động sản xuất của con người, cũng là động
lực tạo nên tính chất mùa của cảnh quan lãnh
thổ.[4]
Động lực tự nhiên thúc đẩy cảnh quan phát
triển theo quy luật tự nhiên. Tốc độ biến đổi
của chúng không quá nhanh nếu không có tác
động của con người. Các nghiên cứu về cảnh
quan đều khẳng định hoạt động khai thác lãnh
thổ của con người là động lực lớn nhất, quyết
định nhất đến sự biến đổi của cảnh quan. Ở
Bắc Kạn, các tác động của con người đến sự hình thành, phát triển và biến đổi của cảnh
quan diễn ra theo cả hai xu hướng. Xu hướng
tích cực là con người đã biết phục hồi rừng,
trồng rừng, làm ruộng bậc thang… để giữ đất,
bảo vệ nguồn nước ngầm, chống xói mòn, rửa
trôi, tạo cân bằng sinh thái (cảnh quan số 25,
39, 43, 60, 66, 71, 76, 80, 85, 89). Xu hướng
tiêu cực là khai thác khoáng sản bừa bãi, chặt
phá rừng quá mức, canh tác không hợp lý,
xây dựng nhà cửa, đường giao thông… đã
làm cho diện tích đất trống, đồi núi trọc tăng
lên, quá trình xói mòn, rửa trôi diễn ra mạnh
mẽ hơn, đất đai bị thoái hóa, nguồn nước bị
cạn kiệt, không khí bị ô nhiễm (cảnh quan số
5, 8, 11, 14, 15, 18, 26, 31, 40, 44, 49, 53, 56,
61, 67, 72, 77, 81).
Qua những phân tích ở trên cho thấy cảnh
quan Bắc Kạn đang bị biến đổi mạnh mẽ bởi
hai tác nhân là tự nhiên và hoạt động của con
người. Song cảnh quan là một hệ thống thống
nhất, có mối quan hệ tác động mật thiết với
nhau nên khi một cảnh quan bị tác động và
biến đổi sẽ dẫn các cảnh quan liền kề cũng bị
ảnh hưởng và biến đổi theo. Điều đó đặt ra
vấn đề con người nên điều chỉnh các tác động
của mình sao cho các cảnh quan phát triển
theo chiều hướng tốt lên và mọi hoạt động
khai thác, sử dụng lãnh thổ cần phải đặt mục
tiêu kinh tế bên cạnh mục tiêu phục hồi, tái
tạo tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững. [5]
8 trang |
Chia sẻ: hoant3298 | Lượt xem: 528 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đa dạng cảnh quan tỉnh Bắc Kạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phạm Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 65 - 72
65
ĐA DẠNG CẢNH QUAN TỈNH BẮC KẠN
Phạm Hương Giang*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Cảnh quan Bắc Kạn đa dạng và phức tạp. Trên nền chung của cảnh quan nhiệt đới ẩm gió mùa của
cả nước, lãnh thổ còn được phân chia thành 3 lớp cảnh quan, 5 phụ lớp cảnh quan, 92 loại cảnh
quan. Mỗi loại cảnh quan mang một hoặc một vài chức năng tự nhiên như: phòng hộ và bảo vệ
môi trường, phát triển sản xuất lâm nghiệp, phát triển nông lâm kết hợp, sản xuất nông nghiệp và
định cư, phát triển các ngành dịch vụ và công nghiệp... Động lực biến đổi của cảnh quan Bắc Kạn
diễn ra theo các hướng khác nhau, tùy thuộc vào sự tương tác của các yếu tố tự nhiên và các hoạt
động khai thác lãnh thổ của con người. Từ các phân tích trên, chúng ta có thể đề xuất các định
hướng sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường cho tỉnh này.
Từ khóa: Cảnh quan, đa dạng, cấu trúc, chức năng, động lực.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGHIÊN
CỨU ĐA DẠNG CẢNH QUAN BẮC KẠN*
1. Khái niệm đa dạng cảnh quan và các
hướng tiếp cận nghiên cứu hiện nay
Khái niệm đa dạng cảnh quan ngày càng được
sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu cảnh quan.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một khái
niệm thống nhất. Theo A.I. Bacca và V.O.
Mokiev (1997) định nghĩa: “đa dạng cảnh
quan là sự biểu hiện vô số những thông tin
của một cá thể hay một nhóm trên những
khoanh vi địa hình, mà sự biểu hiện bên ngoài
của nó là sự tác động giữa tự nhiên với con
người và sự tác động của chính các thành
phần tự nhiên đó”.
Hiện nay, trong cảnh quan học tồn tại hai
hướng tiếp cận nghiên cứu đa dạng cảnh
quan. Một là hướng phân tích định tính và
định lượng cấu trúc cảnh quan của khu vực
dựa trên bản đồ cảnh quan và toán thống kê
xác định các hệ số. Hướng này xác định được
tần số xuất hiện các cảnh quan trong một
không gian nhất định trong những những tổng
thể tự nhiên phức tạp, có cấu trúc địa chất
không đồng nhất. Hướng thứ hai là nghiên
cứu đa dạng cảnh quan dựa trên dữ liệu viễn
thám. Theo đó, sự đa dạng cảnh quan được
hiểu là sự kết hợp về hình dạng và kích thước
của những hệ sinh thái khác nhau trên một
diện tích lớn.[1]
*
ĐT: 0943977009; Email: phamhuonggiangsptn@gmail.com
Nghiên cứu khái niệm đa dạng cảnh quan
được dựa trên quan điểm tiếp cận hệ thống,
tức là coi một lãnh thổ có diện tích bất kỳ là
một hệ thống có cấu trúc rõ ràng, phụ thuộc
vào các thể tổng hợp địa lý tự nhiên. Do vậy,
tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu đa dạng
cảnh quan cho phép chúng ta xem xét sự đa
dạng cảnh quan như một chỉ báo của tổ chức
có thứ bậc cảnh quan khu vực và cấu trúc
cảnh quan của vùng lãnh thổ bất kỳ. Sự đa
dạng của cảnh quan thiên nhiên và nhân tạo
phải luôn được cân nhắc với việc thực hiện
các chức năng kinh tế - xã hội.
2. Hệ thống phân loại cảnh quan áp dụng
cho lãnh thổ tỉnh Bắc Kạn
Kế thừa các hệ thống phân loại của các tác giả
trong và ngoài nước, kết quả phân tích các
nhân tố thành tạo cảnh quan và tỉ lệ bản đồ
thành lập cho lãnh thổ nghiên cứu
(1:100.000), chúng tôi đã đưa ra hệ thống
phân loại cảnh quan áp dụng cho Bắc Kạn
gồm 6 cấp được thể hiện trên bảng 1.
SỰ ĐA DẠNG CẢNH QUAN BẮC KẠN
Tính chất đa dạng cảnh quan của Bắc Kạn
được thể hiện trong cấu trúc, chức năng và
động lực biến đổi cảnh quan.[2],[3]
1. Đa dạng về cấu trúc cảnh quan
Với đặc thù là một tỉnh miền núi Đông Bắc
Bắc Bộ, thiên nhiên Bắc Kạn vừa chịu tác
động của các quá trình tự nhiên (xâm thực,
bóc mòn, rửa trôi, bồi tụ), vừa chịu tác
Phạm Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 65 - 72
66
động của các hoạt động khai thác tài nguyên
của dân cư bản địa, chủ yếu là người dân tộc
thiểu số. Các nhân tố này đã quyết định sự
phân hóa cảnh quan tỉnh Bắc Kạn, chi phối
cấu trúc cảnh quan và được thể hiện qua cấu
trúc đứng và cấu trúc ngang.
Bảng 1. Hệ thống phân loại cảnh quan áp dụng
cho tỉnh Bắc Kạn
Cấp
phân
loại
Chỉ tiêu
Hệ
CQ
Nền bức xạ Mặt trời quyết định chế độ
nhiệt - ẩm theo đới, kết hợp với hệ
thống hoàn lưu khí quyển cỡ châu lục.
Phụ
hệ
CQ
Tương tác giữa đại địa hình và hoàn
lưu gió mùa quyết định sự phân bố lại
chế độ nhiệt - ẩm của lãnh thổ.
Kiểu
CQ
Kiểu thảm thực vật theo nguồn gốc
phát sinh.
Lớp
CQ
Đặc điểm phát sinh hình thái đại địa
hình thể hiện quy luật phân hóa phi
địa đới của tự nhiên.
Phụ
lớp
CQ
Phân chia trong phạm vi cấp lớp, dựa
vào đặc trưng trắc lượng hình thái địa
hình, thể hiện qua sự phân hóa đai
cao.
Loại
CQ
Đặc trưng bởi mối quan hệ tương hỗ
giữa nhóm quần xã thực vật và loại
đất.
a. Cấu trúc đứng
Cấu trúc đứng của cảnh quan Bắc Kạn thể
hiện thứ tự sắp xếp các hợp phần trên lãnh
thổ. Ở Bắc Kạn, cấu trúc đứng có sự phân hóa
từ bắc xuống nam, từ tây sang đông, từ miền
núi xuống đồng bằng. Vùng núi (độ cao từ
600m trở lên, độ dốc từ 150) là vùng có độ
cao và độ dốc lớn, quá trình sườn thống trị,
lớp phủ thổ nhưỡng mỏng, các loại đất chính
là đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ, đất dốc tụ
Tương quan nhiệt ẩm dồi dào nên lớp phủ
rừng chiếm ưu thế: rừng kín lá rộng thường
xanh ít bị tác động, rừng kín thứ sinh, rừng tre
nứa Vùng đồi (độ cao từ 200 đến 600m, độ
dốc 8 - 150) có độ cao và độ dốc vừa phải, quá
trình sườn vẫn còn thống trị nhưng yếu hơn
vùng núi, với các loại đất chủ yếu là đất vàng
đỏ trên đá macma axit, đất đỏ vàng trên đá
sét, đất vàng nhạt, tầng đất dày hơn, chất
lượng khá tốt là tiềm năng lớn cho trồng cây
công nghiệp dài ngày và cây ăn quả hoặc
trồng rừng, vì vậy vùng đồi là vùng được ưu
tiên cho mô hình nông lâm kết hợp hiện nay.
Với ưu thế có độ cao và độ dốc thấp (độ cao
dưới 200m, độ dốc dưới 80), vùng đồng bằng
là nơi chịu tác động mạnh mẽ nhất của con
người, cảnh quan tự nhiên bị biến đổi sâu sắc.
Quá trình tích tụ là quá trình thống trị ở đây,
hình thành nên đất phù sa, tầng đất dày, thành
phần cơ giới tốt, giàu dinh dưỡng nên vùng
này là nơi canh tác nông nghiệp chủ yếu của
tỉnh, với các loại cây chủ đạo như lúa, hoa
màu và cây công nghiệp hàng năm.
b. Cấu trúc ngang
Cấu trúc ngang cho biết sự phân hóa không
gian của các đơn vị cảnh quan và mối liên hệ
giữa các cấp cảnh quan. Bắc Kạn thuộc hệ
cảnh quan nhiệt đới ẩm gió mùa, phụ hệ cảnh
quan nhiệt đới ẩm gió mùa có mùa đông lạnh,
có 1 kiểu cảnh quan, 3 lớp cảnh quan, 5 phụ
lớp và 92 loại cảnh quan (không kể cảnh quan
sông, suối, hồ, ao - cảnh quan đánh số 93).
Cấu trúc ngang của cảnh quan Bắc Kạn được
phân hóa như hình 1.
* Lớp cảnh quan: Ở Bắc Kạn được phân chia
làm 3 lớp:
- Lớp cảnh núi: phân bố ở độ cao từ 600m trở
lên, phổ biến ở khoảng độ cao 600 - 1000m,
độ cao từ 1000m trở lên chiếm diện tích
không nhiều nhưng lại là nơi tập tập trung các
đỉnh núi cao nhất tỉnh: thuộc cánh cung Sông
Gâm có các đỉnh Pú Bình (1.404m), Khuổi
Tàng (1.359m), Tam Tao (1.328m); thuộc
cánh cung Ngân Sơn có đỉnh Khau Xiểm
(1.147m), Phan Ngam (1.263m), Long Siêng
(1.146m) Đây là nơi bắt nguồn của các con
sông lớn trong tỉnh. Địa hình bị chia cắt
mạnh, sườn dốc từ 150 trở lên, việc canh tác
và định cư của nhân dân gặp nhiều khó khăn
nên dân cư thưa thớt, kinh tế chậm phát triển.
Tuy nhiên lớp cảnh quan này có khí hậu mát
mẻ, nhiều phong cảnh đẹp nên có nhiều tiềm
năng phát triển du lịch bên cạnh tiềm năng
vốn có là lâm nghiệp và thủy điện.
Phạm Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 65 - 72
67
Hình 1. Sơ đồ hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
- Lớp cảnh quan đồi: có độ cao từ 200 đến
600m, độ dốc 8 - 150, là lớp cảnh quan
chuyển tiếp từ vùng núi xuống đồng bằng.
Đặc điểm nền rắn khá phức tạp, khí hậu nóng
ẩm, rừng trồng, trảng cỏ - cây bụi chiếm đa
số. Trong điều kiện lượng mưa phân mùa, quá
trình thoái hóa đất diễn ra mạnh mẽ nên nhiều
nơi đất bị trơ sỏi đá. Tuy vậy, vùng đồi lại là
nơi có nhiều thuận lợi để trồng cây công
nghiệp, cây ăn quả và phát triển mô hình kinh
tế nông lâm kết hợp.
- Lớp cảnh quan đồng bằng: đặc trưng bởi
quá trình bồi tụ vật liệu từ hai lớp cảnh quan
núi và đồi, mang lại cho đồng bằng lượng phù
sa màu mỡ. Với ưu thế có độ cao thấp (dưới
200m), độ dốc vừa phải (dưới 80), đất đai màu
mỡ, nguồn nước dồi dào nên lớp cảnh quan
đồng bằng là nơi trồng trọt lương thực thực
phẩm chủ yếu của người dân. Cũng vì thế, từ
lâu lớp cảnh quan này bị khai thác với tốc độ
khá mạnh, nhiều nơi cảnh quan tự nhiên bị
biến đổi nhanh chóng, hình thành nên các
cảnh quan nhân sinh.
* Phụ lớp cảnh quan: được phân chia trong
phạm vi lớp cảnh quan theo chỉ tiêu đặc trưng
trắc lượng hình thái địa hình, thể hiện qua sự
phân hóa đai cao của tự nhiên. Theo PGS.TS.
Phạm Hoàng Hải (Viện Địa lý), lãnh thổ Bắc
Kạn được chia làm 5 phụ lớp. Đặc điểm phân
hóa như trên bảng 2.
* Loại cảnh quan: là tổ hợp của các loại đất
có trên các lớp và phụ lớp cảnh quan với các
nhóm thực vật khác nhau, là những đơn vị cụ
thể phản ánh đầy đủ nhất, đặc trưng nhất về
hiện trạng và đặc điểm sinh thái của từng đơn
vị lãnh thổ tỉnh Bắc Kạn. Toàn tỉnh được tạo
nên bởi 92 loại cảnh quan khác nhau (bảng 3).
Trong đó, nhóm cảnh quan rừng và trảng cỏ -
cây bụi chiếm diện tích lớn nhất, đồng thời
cũng là hai nhóm loại có số lần lặp lại nhiều
nhất, chúng phân bố trên tất cả các lớp và phụ
lớp. Trong số 92 loại cảnh quan, loại cảnh
quan số 44 có diện tích lớn nhất (104.848,6
ha), loại cảnh quan số 42 có số lần lặp lại
nhiều nhất (151 khoanh vi), những loại cảnh
quan trên đất Fa (đất vàng đỏ trên đá macma
axit) và đất Fs (đất đỏ vàng trên đá sét) phân
hóa đa dạng và phức tạp nhất.
Cảnh quan Bắc Kạn tuy phân hóa đa dạng và
phức tạp nhưng vẫn thể hiện được quy luật
chung đó là: cảnh quan núi phân bố chủ yếu ở
phía tây và phía bắc của tỉnh, cảnh quan đồi
và đồng bằng phân bố chủ yếu ở phía đông và
phía nam của tỉnh; cảnh quan đồng bằng
thường nằm xen kẽ vào giữa các cảnh quan
núi đồi tạo nên kiểu đồng bằng thung lũng
giữa núi; phân hóa theo đai cao là tính chất
bao trùm của thiên nhiên lãnh thổ Bắc Kạn.
18 loại 38 loại 17 loại 10 loại 9 loại
Phụ lớp
núi TB
Phụ lớp
núi thấp
Phụ lớp
đồi cao
Phụ lớp
đồi thấp
Phụ lớp ĐB
thung lũng
Lớp CQ đồng bằng Lớp CQ đồi Lớp CQ núi
Kiểu CQ rừng kín lá rộng thường xanh nhiệt đới mưa mùa
Phụ hệ CQ nhiệt đới ẩm gió mùa có mùa đông lạnh
Hệ thống CQ nhiệt đới ẩm gió mùa
Phạm Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 65 - 72
68
Bảng 2. Phân hóa độ cao và diện tích giữa các phụ lớp cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Lớp CQ Phụ lớp CQ Độ cao tuyệt đối Diện tích (ha) Tỉ lệ % diện tích
Lớp núi
Núi trung bình > 1.000 m 49.381,2 10,11
Núi thấp 600 - 1.000m 355.343,4 72,78
Lớp đồi
Đồi cao 400 - < 600m 53.842,2 11,03
Đồi thấp 200 - < 400m 4.313,1 0,88
Lớp đồng bằng Đồng bằng giữa núi < 200m 25.374,3 5,20
Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là: 488.254,2 ha
Bảng 3. Hệ thống phân loại cảnh quan tỉnh Bắc Kạn
Hệ cảnh quan nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á
Phụ hệ cảnh quan nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh
Lớp
cảnh
quan
Phụ
lớp
cảnh
quan
Kiểu cảnh quan rừng rậm nhiệt đới thường xanh mưa mùa
Loại thực vật
Loại đất
Rừng
nguyên
sinh
Rừng
thứ
sinh
Rừng
trồng
Cây
bụi
Cây
hàng
năm
Cây
lâu
năm
Thủy
sinh
Núi
Núi
trung
bình
Đất trơ sỏi đá 1 2
Đất vàng đỏ
trên đá macma axit 3 4 5
Đất vàng nhạt
trên đá cát 6 7 8
Đất đỏ vàng trên đá sét 9 10 11
Đất mùn vàng
trên đá macma axit 12 13 14
Đất mùn vàng
rên đá cát 15
Đất mùn đỏ trên đá sét 16 17 18
Núi
thấp
Đất dốc tụ 19
Đất trơ sỏi đá 20 21 22
Đất vàng đỏ
trên đá macma axit 23 24 25 26 27 28
Đất nâu đỏ
trên đá macma bazơ 29 30 31 32
Đất biến đổi
do trồng lúa 33
Đất nâu vàng
trên phù sa cổ 34 35 36
Đất vàng nhạt
trên đá cát 37 38 39 40
Phạm Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 65 - 72
69
Hệ cảnh quan nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á
Phụ hệ cảnh quan nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh
Lớp
cảnh
quan
Phụ
lớp
cảnh
quan
Kiểu cảnh quan rừng rậm nhiệt đới thường xanh mưa mùa
Loại thực vật
Loại đất
Rừng
nguyên
sinh
Rừng
thứ
sinh
Rừng
trồng
Cây
bụi
Cây
hàng
năm
Cây
lâu
năm
Thủy
sinh
Núi Núi thấp
Đất đỏ vàng trên đá sét 41 42 43 44 45 46
Đất đỏ nâu
trên đá vôi 47 48 49 50
Đất mùn đỏ trên đá sét 51 52 53
Đất mùn đỏ
trên đá vôi 54 55 56
Đồi
Đồi
cao
Đất dốc tụ 57
Đất vàng đỏ
trên đá macma axit 58 59 60 61 62 63
Đất vàng nhạt
trên đá cát 64 65 66 67 68
Đất đỏ vàng trên đá sét 69 70 71 72 73
Đồi
thấp
Đất vàng đỏ
rên đá macma axit 74 75 76 77 78
Đất đỏ vàng trên đá sét
79 80 81 82 83
Đồng
bằng
Đất phù sa chua 84 85 86 87
Đất phù sa ngọt 88 89 90 91 92
Sông, hồ, mặt nước 93
2. Đa dạng về chức năng cảnh quan
Mỗi đơn vị cảnh quan luôn mang một chức
năng tự nhiên phục vụ cho phát triển kinh tế -
xã hội của con người. Qua phân tích đặc điểm
cấu trúc, chúng tôi xác định cảnh quan lãnh
thổ Bắc Kạn có những chức năng tự nhiên
sau:[3],[4]
* Chức năng phòng hộ và bảo vệ môi trường:
đóng vai trò quan trọng và chủ đạo trong chức
năng này là những cảnh quan thuộc lớp cảnh
quan núi, chúng có vai trò hạn chế xâm thực,
trượt lở đất, điều tiết nguồn nước, điều hòa
khí hậu Những cảnh quan này có lớp phủ
thực vật là rừng kín lá rộng thường xanh ít bị
tác động hay còn gọi là rừng nguyên sinh
(cảnh quan số 1, 3, 6, 9, 12, 16, 20, 23, 29, 37,
41, 47, 51, 54), rừng kín thứ sinh (cảnh quan
số 4, 7, 10, 13, 17, 21, 24, 30, 34, 38, 42, 48,
52, 55) trên các loại đất khác nhau, thậm chí
có cả rừng trồng khép tán (25, 39, 43). Ở
vùng đồi, tuy độ cao và độ dốc nhỏ hơn
nhưng quá trình ngoại sinh vẫn diễn ra khá
mạnh, lớp phủ thực vật trong các cảnh quan
thuộc lớp cảnh quan này đảm nhận chức năng
bảo vệ môi trường sinh thái, phòng hộ sản
xuất nông nghiệp (cảnh quan số 58, 59, 60,
64, 65, 66, 69, 70, 71, 74, 75, 76, 79, 80).
* Chức năng kinh tế - xã hội:
- Chức năng phát triển lâm nghiệp và sản
xuất nông lâm kết hợp: là những cảnh quan
vùng đồi núi, có độ cao và độ dốc khá lớn.
Nhóm cảnh quan có chức năng phát triển lâm
nghiệp là những cảnh quan phân bố chủ yếu
trên vùng núi thấp, có độ dốc 15 - 250, có lớp
phủ là rừng tự nhiên, rừng thứ sinh hoặc rừng
trồng (cảnh quan số 20, 21, 23, 24, 25, 29, 30,
Phạm Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 65 - 72
70
34, 37, 38, 39, 41, 42, 43, 47, 48, 51, 52, 54,
55). Những cảnh quan có độ dốc 8 - 150, có
thể phát triển nông lâm kết hợp hay các mô
hình canh tác trên đất dốc, nhằm bảo vệ tài
nguyên đất, cung cấp nông sản cho nhân dân
(cảnh quan số 60, 66, 71, 76, 80). Nhóm cảnh
quan có chức năng phát triển nông nghiệp đồi
núi gồm những cảnh quan có hiện trạng lớp
phủ là cây trồng lâu năm (cảnh quan số 28,
36, 46, 63, 83) và cây trồng hàng năm (cảnh
quan số 19, 27, 32, 33, 35, 45, 50) trên nhiều
loại đất khác nhau.
- Chức năng sản xuất nông nghiệp và định
cư: là những cảnh quan nằm ở vùng đồi, vùng
đồng bằng, nơi có đất đai màu mỡ, nguồn
nước dồi dào, địa hình khá bằng phẳng hoặc
bề mặt đồi lượn sóng, thuận lợi cho việc canh
tác lúa, cây hàng năm và định cư của con
người (cảnh quan số 57, 62, 63, 73, 83, 86,
87, 91, 92).
- Chức năng sản xuất và phát triển công
nghiệp, dịch vụ: đó là những cảnh quan gần
hoặc có đường giao thông chạy qua, gần nơi
tiêu thụ, gần nguồn nước, nguồn nguyên
nhiên liệu hoặc có chứa các mỏ khoáng sản,
các vùng chuyên canh nông nghiệp Địa
hình khá bằng phẳng thuận tiện cho việc xây
dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất, lưu thông hàng
hóa (cảnh quan số 57, 62, 63, 68, 73, 78, 82,
83, 86, 87, 91, 92).
- Chức năng phát triển du lịch: các cảnh quan
có chức năng này phân bố rải rác trên lãnh thổ
Bắc Kạn. Chúng chứa đựng các danh lam
thắng cảnh đẹp, các vườn quốc gia, các khu
bảo tồn, các hang động caxtơ, các hồ nước tự
nhiên, các suối nước nóng hoặc những yếu
tố nhân văn như các khu di tích cách mạng, di
tích khảo cổ, đền chùa, miếu mạo phục vụ
du khách tham quan, tìm hiểu, nghỉ dưỡng
(cảnh quan số 20, 21, 23, 24, 29, 30, 41, 42,
47, 48, 69, 70, 86, 87, 91, 92 ).
3. Đa dạng về động lực cảnh quan
Động lực là sự biến đổi cảnh quan theo thời
gian không phụ thuộc vào sự biến đổi cấu trúc
cảnh quan. Động lực cảnh quan chịu tác động
của các nhân tố tự nhiên (năng lượng bức xạ
Mặt trời, hoạt động của gió mùa) và hoạt
động khai thác lãnh thổ của con người.
Lãnh thổ Bắc Kạn mang đặc điểm động lực
chung của cảnh quan nhiệt đới gió mùa ẩm,
đó là có tổng lượng bức xạ, tổng nhiệt lớn, có
lượng mưa phong phú và hoạt động luân
phiên của gió mùa để tạo nên tính chất mùa
của khí hậu và các thành phần tự nhiên khác.
Điều đó đã quyết định sự hình thành, phát
triển và biến đổi của các yếu tố thành tạo cảnh
quan lãnh thổ, tăng cường hoặc kìm hãm các
quá trình địa mạo, hình thành nên các kiểu địa
hình ở Bắc Kạn như: địa hình bóc mòn, rửa
trôi, xâm thực, xói lở ở các khu vực đồi núi,
sườn dốc và thung lũng thượng nguồn các khe
suối, nhất là trong mùa mưa lũ; địa hình bồi
tụ ở những khu vực trũng thấp như đồi gò
thấp, thung lũng ven sông suối, đồng bằng
giữa núi; địa hình caxtơ độc đáo ở những khu
vực có nhiều đá vôi với nguồn nước ngầm
phong phú. Tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa
của khí hậu còn thúc đẩy các quá trình phong
hóa, hình thành 2 hệ đất chính trên lãnh thổ là
đất feralit ở vùng đồi núi và đất phù sa ở vùng
đồng bằng giữa núi với 4 nhóm đất và hàng
chục loại đất khác nhau. Tính chất nhiệt đới
của khí hậu còn là động lực hình thành và
phát triển thảm thực vật nhiệt đới đa dạng ở
tỉnh Bắc Kạn đó là kiểu rừng nhiệt đới lá rộng
thường xanh mưa mùa ở vùng núi, các loại
cây cây nghiệp lâu năm và cây ăn quả ở vùng
đồi, các loại cây hàng năm và lúa ở vùng
đồng bằng thung lũng khá bằng phẳng. Tính
chất mùa của khí hậu kéo theo tính chất mùa
của chế độ nước sông suối, là động lực phát
triển theo mùa của cây trồng, vật nuôi và hoạt
động sản xuất của con người, cũng là động
lực tạo nên tính chất mùa của cảnh quan lãnh
thổ.[4]
Động lực tự nhiên thúc đẩy cảnh quan phát
triển theo quy luật tự nhiên. Tốc độ biến đổi
của chúng không quá nhanh nếu không có tác
động của con người. Các nghiên cứu về cảnh
quan đều khẳng định hoạt động khai thác lãnh
thổ của con người là động lực lớn nhất, quyết
định nhất đến sự biến đổi của cảnh quan. Ở
Bắc Kạn, các tác động của con người đến sự
Phạm Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 65 - 72
71
hình thành, phát triển và biến đổi của cảnh
quan diễn ra theo cả hai xu hướng. Xu hướng
tích cực là con người đã biết phục hồi rừng,
trồng rừng, làm ruộng bậc thang để giữ đất,
bảo vệ nguồn nước ngầm, chống xói mòn, rửa
trôi, tạo cân bằng sinh thái (cảnh quan số 25,
39, 43, 60, 66, 71, 76, 80, 85, 89). Xu hướng
tiêu cực là khai thác khoáng sản bừa bãi, chặt
phá rừng quá mức, canh tác không hợp lý,
xây dựng nhà cửa, đường giao thông đã
làm cho diện tích đất trống, đồi núi trọc tăng
lên, quá trình xói mòn, rửa trôi diễn ra mạnh
mẽ hơn, đất đai bị thoái hóa, nguồn nước bị
cạn kiệt, không khí bị ô nhiễm (cảnh quan số
5, 8, 11, 14, 15, 18, 26, 31, 40, 44, 49, 53, 56,
61, 67, 72, 77, 81).
Qua những phân tích ở trên cho thấy cảnh
quan Bắc Kạn đang bị biến đổi mạnh mẽ bởi
hai tác nhân là tự nhiên và hoạt động của con
người. Song cảnh quan là một hệ thống thống
nhất, có mối quan hệ tác động mật thiết với
nhau nên khi một cảnh quan bị tác động và
biến đổi sẽ dẫn các cảnh quan liền kề cũng bị
ảnh hưởng và biến đổi theo. Điều đó đặt ra
vấn đề con người nên điều chỉnh các tác động
của mình sao cho các cảnh quan phát triển
theo chiều hướng tốt lên và mọi hoạt động
khai thác, sử dụng lãnh thổ cần phải đặt mục
tiêu kinh tế bên cạnh mục tiêu phục hồi, tái
tạo tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững. [5]
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu đã chứng minh cảnh quan
Bắc Kạn rất đa dạng và phức tạp. Tính chất
này được thể hiện rõ trong cấu trúc, chức năng
và động lực cảnh quan nhưng vẫn phản ánh
đầy đủ quy luật phân hóa chung của tự nhiên.
Cấu trúc cảnh quan quy định chức năng cảnh
quan. Vì vậy, nó sẽ quyết định loại hình khai
thác và sử dụng cảnh quan. Việc khai thác hợp
lí một số loại tài nguyên nếu được đặt trong
cấu trúc cảnh quan sẽ hạn chế tới mức thấp
nhất những tác động tiêu cực đến môi trường.
Sự tương tác giữa tự nhiên với các hoạt động
khai thác lãnh thổ của con người là động lực
phát triển của cảnh quan Bắc Kạn, tạo nên
nhịp điệu và xu hướng biến đổi cảnh quan. Từ
đó, giúp con người có thể điều chỉnh hướng
và trạng thái biến đổi của cảnh quan theo
hướng có lợi cho mình.
Kết quả nghiên cứu đa dạng cảnh quan Bắc
Kạn là cơ sở để thực hiện các bước nghiên
cứu tiếp theo như đánh giá cảnh quan, quy
hoạch cảnh quan nhằm đề xuất những định
hướng, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh mà vẫn sử dụng hợp lý tài nguyên,
bảo vệ môi trường và hướng tới mục tiêu phát
triển bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. A.G. Ixtrenko (1969), Cảnh quan học và
phân vùng địa lý tự nhiên, Người dịch Vũ Tự
Lập, Nxb. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
[2]. Phạm Hoàng Hải và nnk (1997), Cơ sở cảnh
quan học của việc sử dụng hơp lý tài nguyên
thiên nhiên, bảo vệ môi trường lãnh thổ Việt
Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[3]. Vũ Tự Lập (1976), Cảnh quan địa lý miền
Bắc Việt Nam,.
[4]. Nguyễn Thành Long và nnk (1984), Thành
lập bản đồ cảnh quan các tỷ lệ, Nxb Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội .
[5]. Nguyễn Văn Vinh và nnk (1999), Phân vùng
cảnh quan Việt Nam (Phần đất liền và thềm
lục địa), Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Phạm Hương Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 65 - 72
72
SUMMARY
LANDSCAPE DIVERSITY OF BAC KAN PROVINCE
Pham Huong Giang*
College of Education – TNU
Bac Kan's landscape has diversity and complexity. On the general landscape of humid tropical
monsoon country, the territory was divided into 3 landscape layers, 5 landscape sub-layers, 92
landscape types. Each type of landscape has a function or a few natural functions such as:
protection and environmental protection; production forestry development, agroforestry
development, production of agriculture and settlements, service sector, industries development...
Dynamics of landscape change in Bac Kan took place in different directions, depending on the
interaction of the natural fuctors and territorial exploitations of human. From the above analysis,
we may be to show some orientations for using natural resources and protecting environment for
this province.
Key words: Landscape, diversity, structure, function, dynamics.
Phản biện khoa học: TS. Dương Quỳnh Phương – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
*
ĐT: 0943977009; Email: phamhuonggiangsptn@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_41480_45251_8520141537413_7461_2048510.pdf