Chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng; Phương pháp phát triển của đất nước; nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội, đối ngoại, anh ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, . của Đảng ta. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì? Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? thì qua mỗi chặng đường cách mạng cụ thể chúng ta mới có được những nhận thức về vấn đề này đầy đủ và sâu sắc hơn.
Trải qua 20 năm (1986 - 2006), công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo, được nhân dân đồng tình hưởng ứng, đã đạt được những thành tựu to lớn, và có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Trong khuôn khổ tiểu luận tôi muốn đề cập: Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một vấn đề trọng tâm xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước
Viết về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đã có nhiều tiểu luận, nhiều chuyên đề và đặc biệt là nhiều tác phẩm lớn. Góp một phần nhỏ bé vào đó, dưới ánh sáng của triết học, tôi muốn làm cho người đọc hiểu rằng : "Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng không kém phần chông gai như hai cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ", con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải đi theo con đường mà Mác và Lênin đã chỉ ra, phát triển "rút ngắn" mà không ngắn qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đường lối riêng.
17 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 27138 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Con đường xây dựng CNXH ở Việt nam, lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
A. Phần mở đầu
2
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2
3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của đề tài
3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4
5. Bố cục của tiểu luận
4
B. Phần nội dung
5
1. Quá trình nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ
5
1.1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản
5
1.2. Nhận thức trước đây về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
1.3. Nhận thức đổi mới về chủ nghĩa xã hội với thời kỳ qúa độ
8
10
2. Những quan điểm phương pháp luận xuất phát để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
13
3. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thế kỷ XXI
14
C. Phần kết luận
16
Tài liệu tham khảo
17
A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, trọng yếu liên quan trực tiếp đến đường lối chính trị của Đảng; Phương pháp phát triển của đất nước; nó chi phối toàn bộ các hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội, đối ngoại, anh ninh quốc phòng, xây dựng Đảng,... của Đảng ta. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì? Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? thì qua mỗi chặng đường cách mạng cụ thể chúng ta mới có được những nhận thức về vấn đề này đầy đủ và sâu sắc hơn.
Trải qua 20 năm (1986 - 2006), công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo, được nhân dân đồng tình hưởng ứng, đã đạt được những thành tựu to lớn, và có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Trong khuôn khổ tiểu luận tôi muốn đề cập: Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một vấn đề trọng tâm xuyên suốt quá trình phát triển của đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Viết về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đã có nhiều tiểu luận, nhiều chuyên đề và đặc biệt là nhiều tác phẩm lớn. Góp một phần nhỏ bé vào đó, dưới ánh sáng của triết học, tôi muốn làm cho người đọc hiểu rằng : "Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng không kém phần chông gai như hai cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ", con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải đi theo con đường mà Mác và Lênin đã chỉ ra, phát triển "rút ngắn" mà không ngắn qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đường lối riêng.
3. Mục đích , nhiệm vụ và ý nghĩa của đề tài
Qua việc tìm hiểu biện chứng duy vật trong triết học Mac - Lênin, quá trình hình thành, phát triển các hình thái kinh tế- xã hội để thấy Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, khoa học, sáng tạo vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đề tài làm sáng tỏ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng góp phần sáng tỏ lý luận của phép biện chứng duy vật trong chủ nghĩa Mác - Lê nin.
Việc nghiên cứu đề tài giúp mọi người, đặc biệt là tầng lớp tri thức, là những người tiền phong trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, có nhận thức đúng đắn, có cơ sở lý luận, góp phần vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hoàn thành việc nghiên cứu đề tài để thấy con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng ta hiện nay hoàn toàn đúng đắn qua đó đập tan mọi âm mưu xuyên tạc chống phá của các thế lực thù địch đen tối.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Con đường xuyên suốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo, khoa học chủ nghĩa Mác- Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước
Đề tài được nghiên cứu bằng phương pháp lý luận qua các tài liệu triết học và các tài liệu liên quan.
Phương pháp xử ký tài liệu, tổng hợp, đối chiếu, so sánh vấn đề.
5. Bố cục của tiểu luận
Tiểu luận gồm 3 phần:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
- Phần kết luận
B. Phần nội dung
1. Quá trình nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ
1.1. Cơ sở lý luận của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản
Trong học thuyết hình thái kinh kế- xã hội, C.Mác tập trung phân tích hình tháI kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, điều này cho phép ông hiểu thấu được các hình thái trước đó và dự báo một cách khoa học về xã hội tương lai, mà ông coi đó là một cơ thể xã hội vận động và biến đổi không ngừng chính là xã hội cộng sản chủ nghĩa mà chủ nghĩa xã hội là một giai đoạn, một trình độ phát triển của nó.
Do chủ nghĩa tư bản thế kỉ XIX đang đạt được đỉnh cao của sự phát triển của nó nên C.Mác hy vọng từ các nước Tây Âu, đúng với quy luật phát triển của lịch sử - tự nhiên là để đi lên chủ nghĩa xã hội con đường phát triển tuần tự qua tất cả các giai đoạn của các hình thái xã hội đã có, sẽ đồng loạt ra đời các nước chủ nghĩa xã hội. Theo C.Mác, sự thay thế một hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội thường được thực hiện thông qua cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, khi quan hệ sản xuất trở thành xiêng xích của lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ cách mạng, khi cơ sở kinh tế thay đổi sớm hay muộn toàn bộ kiến thức thượng tầng đồ sộ cũng phải biến đổi theo. Và từ đó các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đi đến kết luận: Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ được thay thế bằng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa và thay thế này là một quá trình lịch sử - tự nhiên.
Vậy hình thái kinh tế tự nhiên xã hội chủ nghĩa xã hội là hình thái như thế nào và tại sao lại gọi là hình thái phát triển cao hơn, tiến bộ hơn hình thái tư bản chủ nghĩa, trong khi hình thái này đã phát triển rực rỡ về kinh tế, cao nhất từ trước đến nay kể từ khi hình thành tới nay hình thái đầu tiên là cộng sản nguyên thuỷ: "Giữa sự thống trị không đầy 100 năm của giai cấp tư sản, sức sản xuất được tạo nên đã lớn hơn và nhiều hơn sức sản xuất của tất cả các thời đại trước kia gộp lại". Lời nằm trong 9 đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, đó là xã hội có cơ sở vật chất là nền đại cơ khí, xã hội xoá bỏ chế độ tư hửu tư bản chủ nghĩa thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; điều tiết có kế hoạch ngừng sản xuất xã hội và nền sản xuất hàng hoá về cơ bản sẽ trở nên thừa; tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới; xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động' xã hội không còn giai cấp, giải phóng con người tránh khỏi áp bức, bóc lột tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện; xã hội thực hiện sự bình đẳng xã hội; xã hội thực sự là sự nghiệp của bản thân quần chúng, là kết qủa của quá trình sáng tạo của quần chúng.
Như vậy, nếu xem xét ở phạm vi lịch sử toàn nhân loại thì lịch sử xã hội loài người đã phát triển qua một số hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Song do đặc điểm về lịch sử, về không gian, thời gian, không phải quốc gia nào cũng phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế -xã hội. Thực tế lịch sử chứng tỏ có nhiều quốc gia trong những điều kiện thực tế lịch sử nhất định đã phát triển tuần tự qua các hình thái, đồng thời một số quốc gia khác lại phát triển theo con đường bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế xã hội nào đó.
Sau thời gian bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Lênin đã nhận ra sự khó khăn, phức tạo của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt với những nước kém phát triển. Vì vậy, trung thành với những tư tưởng của C.Mac, và Ph. Ănghen, Lênin đã phát triển tư tưởng, "phát triển rút ngắn" và nêu lên khả năng "Không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa" để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội ông chỉ ra rằng trong những điều kiện nhất định, con đường phát triển của các dân tộc tiền tư bản chủ nghĩa không nhất thiết phải diễn ra một cách trình từ như lịch sử sinh thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản mà các nước tư bản đã từng trải qua.
Lênin đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận cách mạng không ngừng trong điều kiện mới. Tư tưởng này quán xuyến toàn bộ học thuyết cách mạng vô sản của loài người. Nhận định về quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản thời đế quốc, Lênin đã phân chia quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thành 3 giai đoạn: Thời kỳ quá độ, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Lênin nêu ra hai hình thức quá độ: Quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp.
Quy luật kế thừa của lịch sử loài người luôn luôn cho phép cộng đồng nào đó trong những điều kiện nhất định, do tác động của các nhân tố, các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, có thể bỏ qua giai đoạn phát triển nhất định để vươn tới trình độ của nhân loại. Trong lịch sử thường xuất hiện trung tâm phát triển cao hơn về sản xuất vật chất, về kỹ thuật, về văn hoá chính trị. Sự giao lưu, hợp tác của các trung tâm đó và những nhân tố khác làm xuất hiện khả năng một số nước đi sau có thể rút ngắn tiến trình lịch sử mà không ai lặp lại tuần tự các quá trình đã qua của lịch sử nhân loại.
Trong thời đại ngày nay, chủ trương "phát triển rút ngắn" để đi lên chủ nghĩa xã hội ở một số các quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa chẳng những không mâu thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tích lịch sử - tự nhiên, mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình ấy. Chỉ khi người ta "rút ngắn" một cách duy ý chí , bất chấp mọi quy luật thì lúc nào đó sự phát triển rút ngắn mới trở nên đối lập với quá trình lịch sử - tự nhiên.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà có bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện lịch sử nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế xã hội nhất định.
1.2. Nhận thức trước đây về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam là một quốc gia chưa từng trải qua hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa, tuy vậy chúng ta có thể rút ngắn "hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, trước đây con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà xã hội của nước ta còn máy móc, mang tính áp đặt. Chúng ta vẫn đang còn những quan niệm chưa chính xác về những vấn đề chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa ".
Chúng ta đã đối diện tuyện đối giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.Ta luôn cho rằng: cái gì của chủ nghĩa xã hội cũng là tốt đẹp, là hoàn mỹ. Như vậy chúng ta đã xem xét vấn đề mang tính chủ quan, duy ý chí. Chúng ta đã không nhận thức được rằng sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ cộng sản nguyên thuỷ đến chiếm hữu, phong kiến, đến chủ nghĩa tư bản cũng là một nấc thang phát triển của nhân loại. Những thành tựu đạt được trong chủ nghĩa tư bản không chỉ của giai cấp tư sản mà còn là của nhân loại tiến bộ.
Chúng ta đã tuyệt đối hoá vai trò chủ quan của Đảng, của chính quyền. Ta cứ cho rằng có Đảng có liên minh Công - Nông là có tất cả, có chính quyền tiên tiến cho nên chúng ta đưa quan hệ sản xuất đi trước một bước để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Với những quan điểm như vậy cho nên trong thời kỳ bao cấp chúng ta đã thực hiện sự thay đổi về thể chế chính trị, thực hiện những yếu tố của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên chúng ta đã chưa chú ý đến tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Một lý do nữa là do đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh nên chúng ta nôn nóng đưa đất nước thoát khỉ nghèo nàn lạc hậu, từ đó dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng. Những sai lầm này lại dẫn đến những sai lầm khác dẫn dến khủng hoảng.
1.3. Nhận thức đổi mới về chủ nghĩa xã hội với thời kỳ quá độ
"Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải không khéo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại". Dựa vào sự phân tích trực tiếp những mâu thuẫn của xã hội tư sản trong giao đoạn đầu phát triển của nó dựa vào triển vọng của phong trào công nhân, Mac và Ănghen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của xã hội loài người trong tương lai, tất yếu phải tiến đến hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái ấy. Tất nhiên, dự đoán khoa học của các ông mới chỉ cho phép phác học được những đường nét chủ yếu vễ tương lai ấy. Lê nin cũng chỉ rõ: "Chúng ta không hề hỏi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lú luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sông".
Đáng tiếc là trong nhiều năm qua, đối với chúng ta, lý luận về chủ nghĩa xã hội không những không được bổ sung, phát triển cho phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn, mà lại được giải thích một cách máy móc, giáo điều và được áp dụng một cách rập khuôn làm cho chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nhiều nước bị biến dạng, dẫn đến khủng hoảng và tan rã. Hậu quả đó do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu là do chúng ta mắc phải những sai lầm chủ quan, duy ý chí, không tôn trọng các quy luật khách quan.
Thực tiễn cuộc sống đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mơí một cách toàn diện, sâu sắc cả lý luận và thực hiện của chủ nghĩa xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tạo ta bước ngoặt phát triển của loài người, đánh dấu đỉnh cao mới của sự phát triển trí tuệ, mở ta một nền văn minh mới, tác động sâu sắc đối với cuộc sống của các dân tộc, tạo ra cho các nước chậm phát triển thời cơ mới nhưng cũng có nhiều thách thức mới trên con đường lựa chọn sự phát triển của mình. ở nước ta cũng đã có những tiền đề và điều kiện cho phép chúng ta lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, làm cho đất nước ngày càng phồn vinh.
Đảng ta đã chỉ rõ: "Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp". Đặc điểm này, xét về tính chất và trình độ, biểu hiện ở hai đặc trưng cơ bản: một là, lực lưỡng rất thấp quy định tính tất yếu kinh tế-xã hội ta chưa đầy đủ chưa chín muồi trong sự phát triển tự nhiên, nội tại của nó; hai là, tác động nhiều tàn dư quan hệ xã hội, ý thức tư tưởng, tâm lý do chế độ thực dân, phong kiến cũ để lại. Đó là những khó khăn, trở ngại trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một xã hội kém phát triển sang một xã hội hiện đại phù hợp với những chuẩn mực và giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội.
Điều cần đặc biệt chú ý là, có thể bỏ qua chế độ tư bản, quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng không thể bỏ qua việc chuẩn bị những tiền đề cần thiết, nhất là tiền đề về kinh tế cho sự quá độ ấy. Nói cách khác, có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng phải tiến hành sao cho sự bỏ qua này không hề vi phạm tiến trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển. Do đó, cần có sự phát triển nhất định nhân tố tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ là một yêu cầu khách quan bỏ qua kinh tế, động lực cơ bản tạo ra những tiền đề vật chất của việc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Dựa vào phạm trù hình thái kinh tế - xã hội của Mác trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam. Đảng ta đã đề ra chiến lược cách mạng đúng đắn để đưa nước ta định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng xác định hiện nay đất nước đang ở thời kỳ cuối phong kiến, đầu tư bản. Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đây là thời kỳ chuyển tiếp về mặt thời gian, về mặt kết cấu. Sự chuyển tiếp này đan xen giữa cái cũ và cái mới. Chúng cùng tồn tại và mâu thuẫn nhau sẵn sàng tiêu diệt nhau. Do đó chúng ta phải có sự tác động, điều chỉnh để những yếu tố tích sực phát triển, những cái cũ không phù hợp dần bị mất đi.
2. Những quan điểm phương pháp luận xuất phát để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
2.1. Coi trọng vai trò bản chát của Nhà nước, thể hiện đầy đủ quyền lực và nguyện vọng của nhân dân. Thiết lập dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhân dân được khẳng định và được thực hiện bằng pháp luật mang tính công khai, bình đẳng dân chủ và tiến bộ.
2.2. Thực hiện những biến đổi manh tính cách mang trên cả ba lĩnh vực: Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Trong đó phải ra sức phát triển lực lượng sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu tạo điều kiện để kinh tế vững chắc cho sự ra đời của phương thức sản xuất chủ nghĩa xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra dồn dập, mạnh mẽ, đòi hỏi chúng ta phải có quan niệm mới về công nghiệp hoá truyền thống theo kiểu công nghiệp hoá cổ điển mà là lựa chọn những ngành công nghệ thích hợp, xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống thông tin, tạo tiềm năng nhanh chóng ứng dụng những công nghệ mới. Giải phóng và khai thác nhanh mọi khả năng của lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phong phú đa dạng.Tạo ra nguồn sản phẩm và nguồn tích luỹ.
2.3. Phù hợp với phát triển của lực lượng sản xuất thiết lập từng bước quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội từ thấp đến cao và sự đa dạng về hình thức sở hữu. Chế độ công hữu phải là kết quả hợp quy luật của quá trình xã hội hoá thưc sự chứ không thể tạo ra bằng biện pháp hành chính chuyền từ quan hệ hiện vật sang quan hệ hàng hoá, tiền tệ, trở lại đúng quy luật phát triển tự nhiên của kinh tế. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu. Ngoài ra chúng ta còn phải tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá. Nhân tố con người phải vừa là mục tiêu vừa động lực để xây dựng một xã hội văn minh. Giải phóng cá nhân để giải phóng xã hội.
Những nguyên tắc phương pháp luận này là tổng hợp những quan điểm cơ bản nhằm xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thế kỷ XXI
Tại Đại hội Đại biểu lần thứ IX của Đảng đã dự báo "Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi". Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Đặc biệt là trong những lĩnh vực: điện tử tin học, sinh học, vật liệu mới, năng lượng, nghiên cứu vũ trụ. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Đặc biệt vấn đề toàn cầu hoá kinh tế đang là một vấn đề được quan tâm. Đúng như Mác và Anghen đã dự báo từ thế kỷ trước khi phân tích sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất sẽ dần đến quốc tế hoá sản xuất thương mại. Cho nên nó là xu thế khách quan do lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng.
Trước những đứng giá như trên Đảng ta đã xácđịnh con đờng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế kém phát triển như nước ta là quá trình phấn đấu khó khăn, gian khổ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, có những khuyết điểm và sai lầm là điều khó tránh khỏi. Cần phải thừa nhận và tìm cách để khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm ấy. Nhưng cần khẳng định rằng những khuyết điểm, sai lầm ấy không thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xât dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ có nền kinh tế phát triển cao đưa lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, có nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Đảng cũng chỉ rõ, chúng ta đang phát triển trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Điều dó thể hiện sự đánh giá đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta. Nước ta đang còn nghèo, lực lượng sản xuất phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế rất lớn, cho nên phải tập trung phát triển lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế.
Báo cáo chính trị chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thường tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu kế thừa những thành tạu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đồng thời phải từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội tất cả các lĩnh vực là một sự nhiệp khó khăn và lâu dài cho nên tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội.
C. Phần kết luận
Những thành tựu sau 20 năm đổi mới đã phần nào cho thấy đường lối của Đảng và Nhà nước ta hoàn toàn đúng đắn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, tăng thêm niềm tin của nhân dân vào Đảng. Như vậy ta có thể khẳng định rằng, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thảng lên chủ nghĩa xã hội là một việc hoàn toàn có thể thực hiệc được đối với một nước vừa kết thúc cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc như đất nước ta. Đồng thời sự phát triển này không nằm ngoài tiến trình lịch sử, không đi ngược với quy luật phát triển xã hội. Chúng ta không tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội một cách trực tiếp mà phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với những bước đi và hình thức quá độ phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam . Đó là con đường tất yếu mà chúng ta phải trải qua nhằm tạo ra những tiền đề vật chất cho chủ nghĩa xã hội xây dựng đất nước dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh như ước nguyện của bao thế hệ con người Việt Nam
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, dùng trong các trường đại học, cao đẳng- NXB Giáo dục
2. Đề cương bài giảng triết học
3. Giáo trình Triết học Mác - Lênin. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình các bộ môn lý luận Mác- Lê nin – NXB Chính trị quốc gia
4. Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng - NXB Chính trị Quốc gia.
5. Triết học tập 2-3 (Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên thuộc chuyên ngành triết học) - NXB chính trị quốc gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Con đường xây dựng CNXH ở Việt nam, lý luận và thực tiễn.doc