bstract: The differences between mental verbs and physical verbs are not only that the former
refer to intellectual states (e.g. ‘know’, ‘understand’), non-observable intellectual acts
(‘suspect’, ‘believe’) or cognitive processes (‘realize’, ‘find’) and that the latter refer to physical
states (‘sleep’, ‘pain’), physical acts (‘hit’, ‘run’, etc.) or physical processes (‘fall’, ‘drop’), but
also that the former ones can become an intentional component of a sentence in some cases. At
this time, they are referred to as ‘intentional verbs’. This article describes and analyzes a group
of Vietnamese intentional verbs that originate from thinking verbs such as ‘I think (that) ’, ‘I
believe (that) ’, ‘I suppose (that) ’, ‘Who knows (that) ’, and so on.
7 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 686 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chức năng biểu thị ý nghĩa tình thái của câu qua một nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 03(23)/2012, tr. 81-87
CHỨC NĂNG BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH THÁI CỦA CÂU QUA MỘT NHÓM
ĐỘNG TỪ CHỈ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC TRONG TIẾNG VIỆT
NGUYỄN THỊ THU HÀ
Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế
Tóm tắt: Sự khác nhau giữa động từ biểu thị hoạt động tinh thần và động từ
biểu thị hoạt động vật lí không chỉ ở chỗ: một bên biểu thị những trạng thái
tinh thần (biết, hiểu), những hành động tinh thần trừu tượng (nghi, tin),
những quá trình tinh thần (nhận ra, nhận thấy, v.v) và một bên biểu thị
những trạng thái vật lí (ngủ, đau), những hành động vật lí (đánh, chạy),
những quá trình vật lí (ngã, nhỏ (giọt)) mà còn ở chỗ, trong một số trường
hợp, động từ chỉ hoạt động tinh thần có khả năng làm nên bộ phận tình thái
của câu. Lúc này nó được gọi là động từ thái độ mệnh đề (intentional
verbs). Bài viết này sẽ miêu tả và phân tích một nhóm động từ thái độ mệnh
đề trong tiếng Việt vốn bắt nguồn từ những động từ nhận thức như là Tôi
nghĩ (là/rằng), Tôi tin (là/rằng), Tôi cho là/rằng, Ai biết...
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề này đã được J.O. Urmson nghiên cứu. Năm 1970, ông khảo sát một số nhóm
động từ tiếng Anh có đặc trưng tương tự như know (biết rằng), believe (tin rằng), regret
(tiếc rằng)... và ông gọi chúng là parenthetical verb (chúng tôi tạm dịch là “động từ
chêm xen” hoặc “động từ trong ngoặc” (theo cách dịch của Hoàng Phê)).
Ở Việt Nam, Hoàng Phê, được xem là người đầu tiên nghiên cứu những đơn vị này,
đồng thời ông khẳng định thêm: “Thật ra, cấu trúc có chứa “động từ trong ngoặc” chính
là một toán tử logic - tình thái. Với tư cách một toán tử, nó là một thể hoàn chỉnh, hoạt
động như là một khối có sẵn... Nghĩ, trong toán tử logic - tình thái Tôi nghĩ rằng không
còn cái nghĩa từ vựng bình thường của nó... Nó là một loại đơn vị đặc biệt của ngôn
ngữ” [2, tr. 141].
Trong công trình Tiếng Việt – Sơ thảo Ngữ pháp chức năng (1991), GS Cao Xuân Hạo
cũng đã khai thác vấn đề này trong cấu trúc cú pháp của câu và xem chúng là phần đề
tình thái.
Nguyễn Ngọc Trâm (2002) khảo sát một nhóm các động từ tâm lí - tình cảm bị hư hóa
có khả năng biểu thị ý nghĩa tình thái và gọi những đơn vị này là “động từ thái độ mệnh
đề” [3, tr. 118].
Trong số những động từ hư hóa có khả năng biểu thị tình thái cho câu, chúng tôi nhận
thấy ngoài các động từ tâm lí - tình cảm, còn có sự tham gia của các động từ nhận thức.
Động từ chỉ hoạt động nhận thức là những từ ngữ không biểu thị hoạt động vật chất
của thế giới cụ thể - hữu hình như xây, rơi, đóng, mở, kéo... ngược lại, là những từ ngữ
biểu thị hoạt động tinh thần của con người trong thế giới trừu tượng - vô hình, song
NGUYỄN THỊ THU HÀ
82
cũng không phải là thế giới của hoạt động tâm lí - tình cảm - ý chí như yêu, ghét, nhớ,
mong, muốn, toan, định... mà là những từ ngữ gọi tên các hành động, các quá trình, các
trạng thái tinh thần diễn ra trong bộ óc con người khi con người nghĩ về thế giới và hiểu
biết như thế nào đó về thế giới.
Không phải tất cả động từ nhận thức đều có khả năng hư hóa để biểu thị tình thái cho
câu, chỉ một số không lớn trong đó, nhưng lại có tần số sử dụng cao, đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc biểu đạt ý nghĩa tình thái của câu. Thường gặp nhất là các
động từ: biết, nghĩ, tin, ngờ, lầm/nhầm.
Tiếp thu tinh thần của Nguyễn Ngọc Trâm, chúng tôi cho rằng, động từ nhận thức hư
hóa thành động từ thái độ mệnh đề có những đặc trưng sau:
- Là động từ thứ nhất trong câu có ít nhất hai động từ, với chủ ngữ ngôi thứ nhất số ít,
thời hiện tại "bất định". Có thể gặp những trường hợp chủ ngữ ẩn, hay phiếm chỉ nhưng
nói chung đều có khả năng khôi phục thành chủ ngữ ngôi thứ nhất (Nếu không lầm
thì...! Nếu tôi không lầm thì...; có ai hay biết gì đâu! tôi có hay biết gì đâu)
- Vốn là động từ biểu thị hoạt động nhận thức nhưng không mô tả hoạt động nhận thức
mà nghĩa đã hư hóa
- Biểu thị thái độ của người nói đối với mệnh đề P trong câu/phát ngôn (thái độ khẳng
định dè dặt, khẳng định dứt khoát, phủ định – bác bỏ...)
2. CHỨC NĂNG BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH THÁI CỦA MỘT SỐ ĐỘNG TỪ
NHẬN THỨC
Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Nếu các nhà logic học quan tâm xây dựng các khái niệm
tình thái như là cái tất yếu, cái có thể... để cố gắng thoát khỏi các thuật ngữ ngôn ngữ
học thì trái lại, ngôn ngữ học lại nhìn nhận các kí hiệu tình thái đã được từ vựng hóa
trong ngôn ngữ tự nhiên.” [1, tr. 94]
Có thể kể ra những đơn vị có chức năng biểu thị ý nghĩa tình thái của một số động từ
nhận thức đã được từ vựng hóa trong tiếng Việt như: biết đâu, biết đâu đấy, không lầm
thì/nếu không lầm thì / nếu tôi không lầm thì, thiết nghĩ(là), trộm nghĩ (là), tin (là), ngờ
là, đã biết mà, biết ngay mà, có sai đâu, biết thừa ra đấy, biết gì, có biết gì đâu, ai ngờ,
nào ngờ, ai có ngờ, ai biết, có trời mới biết, như mọi người đều biết...
Phát ngôn chứa những đơn vị này, “có một thái độ được biểu thị chứ không phải một
hoạt động được miêu tả. Đưa thêm Tôi cho là, Tôi nghĩ là vào trong lời nói, tôi muốn
cho thấy rằng tôi có thái độ như thế nào đối với điều được nói tiếp liền sau đó” (E.
Benveniste, dẫn theo Hoàng Phê).
Trong 39 đơn vị được khảo sát, các động từ nhận thức khi được dùng như động từ thái
độ mệnh đề, về cơ bản sẽ tạo nên 4 kiểu tình thái sau:
CHỨC NĂNG BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH THÁI CỦA CÂU...
83
2.1. Tình thái khẳng định hạn chế (khẳng định dè dặt)
Tình thái khẳng định hạn chế có mặt ở những phát ngôn khẳng định P nhưng lại thể
hiện rõ sự khẳng định đó là hạn chế, là của cá nhân người nói mà thôi. Thuộc vào tình
thái này là những đơn vị: biết đâu, biết đâu chừng, biết đâu đấy (tôi biết đâu đấy),
không lầm thì/nếu không lầm thì (nếu tôi không lầm thì), thiết nghĩ (là), thiển nghĩ (là),
trộm nghĩ (là), nghĩ (rằng, là), cho rằng / là, tin (là), ngờ là...
Có thể phân chia ý nghĩa của chúng thành những loại nhỏ như sau:
2.1.1. Ý nghĩa tình thái xác suất
* Ý nghĩa tình thái chỉ xác suất với ngôi thứ nhất số ít (tôi) xuất hiện cùng các đơn
vị: nghĩ (rằng, là), cho là, ngờ là... Với một câu tách rời khỏi tình huống phát ngôn như
Tôi nghĩ anh ấy thật lòng, thật khó để nói rằng, nghĩ ở đây thuộc vào động từ nhận thức
hay động từ thái độ mệnh đề. Nhưng nếu cấp cho nó một tình huống cụ thể thì bản chất
của nghĩ với những ý nghĩa nhất định sẽ xuất hiện.
Với tình huống: Chị có nghĩ anh ấy thật lòng không?
a. Tôi nghĩ anh ấy thật lòng! Nghĩ có tư cách là động từ chỉ hành động nhận thức
Nhưng với tình huống: Liệu anh ấy có thật lòng không?
b. Tôi nghĩ anh ấy thật lòng.
Nghĩ có tư cách của một động từ thái độ mệnh đề, biểu thị thái độ chủ quan của người
nói đối với khả năng của mệnh đề P (anh ấy thật lòng)
Vì trọng tâm thông báo khác nhau nên, phủ định của hai kiểu câu cũng khác nhau. Phủ
định của a là phủ định động từ nhận thức: Không, tôi không nghĩ anh ấy thật lòng. Phủ
định của b là phủ định mệnh đề P: Không, tôi nghĩ anh ấy không thật lòng.
Nghĩ là, cho là... có chức năng như có lẽ, có thể, có khả năng. Ví dụ:
- Liệu anh ta có thật lòng không? - Tôi nghĩ (có thể, có khả năng) anh ta thật lòng.
Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có những khác biệt nhất định, thể hiện sự tinh tế và uyển
chuyển của ngôn ngữ. Khi nói Có thể anh ta thật lòng thì việc anh ta thật lòng là có
khả năng, là chưa chắc chắc và không kèm theo sự khẳng định của người nói về tính có
căn cứ của thông tin. Nhưng khi nói Tôi nghĩ anh ta thật lòng thì người nói chịu trách
nhiệm về những gì mình nói - tính có căn cứ của mệnh đề, dù người nói tỏ ra ít nhiều vô
can với P. Khẳng định anh ta thật lòng là “theo ý kiến chủ quan của bản thân tôi”.
* Ý nghĩa tình thái chỉ xác suất với yếu tố phiếm chỉ: biết đâu, biết đâu chừng, biết
đâu đấy...
- Nó không đi khỏi công ty này đâu!
- Biết đâu đấy! (= có khi nó đi = có thể nó đi, không chừng nó đi, anh đừng nên nghĩ
dứt khoát là nó không đi)
NGUYỄN THỊ THU HÀ
84
- Cứ hỏi nó xem, biết đâu nó rõ mọi chuyện. (khẳng định dè dặt: có khi nó biết cũng
không biết chừng, chúng ta đừng nghĩ dứt khoát là nó không biết)
- Anh đừng lo. Tôi thề là tôi không nói dối.
- Biết đâu đấy! (anh nói là nói thế thôi chứ làm sao tôi biết được, tôi không hoàn toàn
tin lời anh đâu, ngay cả khi anh thề thốt)
2.1.2. Ý khẳng định hạn chế với thái độ khiêm nhường: thiết nghĩ (là), thiển nghĩ (là),
trộm nghĩ (là), thiết tưởng là, nếu tôi không nhầm / lầm thì
Thiết nghĩ là vấn đề này chúng ta không nên kết luận vội.
Nếu tôi không nhầm thì vấn đề này chưa ai nói tới.
Những đơn vị trên biểu đạt sắc thái khiêm nhường, diễn tả điều sắp nói ra ở mệnh đề P
chỉ là một ý kiến trao đổi với người đối thoại, chưa phải là điều khẳng định hay phủ
định hoàn toàn. Nó làm cho người nghe dễ tiếp nhận, tiếp thu ý kiến của mình, tránh
được tình trạng thái quá hay bất cập của chủ thể giao tiếp trong những hoàn cảnh giao
tiếp rộng như trao đổi, bàn bạc, hay tranh cãi giữa các ý kiến. Đồng thời chúng cũng là
những quán ngữ có tính chất đưa đẩy, thường xuất hiện trong phong cách sách vở nên
không nhất thiết phải xuất hiện các hoàn cảnh có sự đối thoại với tính chất bàn luận hay
tranh cãi trực tiếp.
2.2. Tình thái khẳng định tất yếu( khẳng định dứt khoát)
Đối lập với khẳng định hạn chế là khẳng định tất yếu. Tình thái khẳng định tất yếu có
mặt ở những phát ngôn thông báo về P, một sự việc mang tính tất yếu, khó tránh khỏi.
Thuộc nhóm này là: biết mà (tôi biết mà), đã biết mà (tôi đã biết mà), biết ngay mà (tôi
biết ngay mà), có sai đâu, biết thừa ra đấy (tôi biết thừa ra đấy), biết trước là thế mà
(tôi biết trước là thế mà), biết trước là thể nào (tôi biết trước là thể nào). Ví dụ:
- Đã biết mà, nó chỉ hứa thế thôi. ( = tôi đã biết trước nó chỉ hứa suông thế thôi, bây giờ
thực tế đã cho thấy quả là vậy)
- Biết mà, nhà nó ai cũng cư xử hồ đồ như thế cả.
- Biết ngay mà, hắn chỉ giỏi leo lẻo cái mồm.
- Biết trước là thế nào nó cũng từ chối.
Ý khẳng định tất yếu có mặt trong những phát ngôn mà ở đó các sự kiện được nêu ra
trong phát ngôn đã xảy ra, được thực tế chứng minh. Trong một ngữ cảnh rộng, tình thái
chủ quan này không chỉ là thái độ của người nói mà còn có sự nhìn nhận từ phía người
nghe, tác động đến người nghe. Chẳng hạn:
Đã biết mà, thằng đó chỉ hứa thế thôi (mày thì cứ tin sái cổ con ạ!)
Biết mà, đã biết mà, biết ngay mà có chủ ngữ phiếm chỉ nhưng ngầm ẩn là tôi, nên có
thể khôi phục thành tôi biết mà, tôi biết ngay mà, tôi đã biết mà và có thể xem đây là
CHỨC NĂNG BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH THÁI CỦA CÂU...
85
những đơn vị này đồng nghĩa với nhau, dù rằng hình thức của chúng có vài nét khác
biệt .
2.3. Tình thái phủ định – bác bỏ
Nếu như hình thức phủ định thông thường đối với một câu đơn giản là phủ định nội
dung của câu đó bằng cách sử dụng hình thức phủ định không, thì tình thái phủ định -
bác bỏ lại có thể do nhiều phương tiện ngôn ngữ khác nhau đảm nhiệm và không đơn
giản là phủ định nội dung của câu đó mà đặc biệt còn thể hiện thái độ của người nói đối
với những thông tin của câu nói, với người nói ra câu nói đó. Nói cách khác, người ta
phủ định- bác bỏ một câu vì câu đó sai sự thật (nên phải phủ định) và vì người ta không
chấp nhận với quan điểm của người nói ra câu đó (nên phải bác bỏ).
Thuộc tình thái phủ định – bác bỏ là: biết gì, có biết gì đâu, ai ngờ, không ngờ (tôi
không ngờ), nào ngờ, ai có ngờ, ai biết, có ai hay biết gì đâu, có trời mới biết Chẳng
hạn:
(Anh có biết việc đó không?) Tôi không biết.
Đây là câu phủ định, biết có tư cách động từ nhận thức; yếu tố phủ định tác động đến
động từ biết.
(Anh biết mọi việc mà lại im lặng là sao?) Tôi có biết gì đâu!
Đây là câu phủ định - bác bỏ với tình thái phủ định - bác bỏ có biết gì đâu, câu này
được hiểu là: tôi không biết (phủ định) + chứ không phải như anh nói đâu (bác bỏ); yếu
tố phủ định - bác bỏ tác động đến cả câu.
(Nó biết nhiều thứ lắm!)
Nó có biết gì đâu! (= thứ gì nó cũng không biết, không phải như anh nói)
- (Mấy đứa bạn của Thảo ham chơi lắm, nó thì ngoan, đi đến nơi về đến chốn, chẳng
bao giờ la cà hay chơi bời cả.)
- (Những lúc chị không để ý) Nó làm gì, có trời mới biết! (= Nó làm gì, tôi chịu, mọi
người cũng chịu, tóm lại là không ai biết được, chắc gì nó đã ngoan ngoãn như lời chị
nói).
Cấu tạo của nhóm tình thái phủ định - bác bỏ khá phong phú, thường gồm một động từ
nhận thức kết hợp với phụ tố nào..., ... gì, có... đâu, (những phụ tố này được Nguyễn
Đức Dân gọi là những từ phiếm định, chúng chuyên thực hiện chức năng bác bỏ trong
câu bác bỏ.)
2.4. Tình thái đưa đẩy, hướng người nghe vào việc khẳng định P, từ đó tạo lập ở
người nghe tâm thế ủng hộ những điều tiếp theo
Như mọi người đều biết P..., báo trước sự xuất hiện một mệnh đề đi ngay sau nó, mệnh
đề này là hiển nhiên, dễ hiểu, được thừa nhận, không cần phải chứng minh, chỉ đưa ra
để thêm phần thuyết phục. Theo logic lập luận, người nói không dừng lại ở đây, thực
chất người nói đưa ra Như mọi người đều biết P..., là để chuẩn bị tâm thế cho người
NGUYỄN THỊ THU HÀ
86
nghe tiếp tục thừa nhận những điều sẽ nói ngay sau đó, những điều này mới chính là
trọng tâm mà người nói muốn người nghe đồng tình, ủng hộ.
Như mọi người đều biết, sản xuất có phát triển thì mới có điều kiện cải thiện đời sống,
muốn vậy, chúng ta cần phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động sản xuất trong công nghiệp
cũng như trong nông nghiệp.
(Việc sản xuất có phát triển thì mới có điều kiện cải thiện đời sống là điều mà chúng ta
không ai là không biết, không có gì đáng nói nhưng tôi vẫn nêu ra đây để làm một luận
cứ để có cớ nói điều tiếp theo) và việc sử dụng lượng từ toàn thể / lượng từ phổ quát:
mọi (như mọi người đều biết) là một cách “khôn khéo” để tìm kiếm sự ủng hộ từ số
đông phía người nghe.
3. KẾT LUẬN
Có thể thấy, lí thuyết động từ thái độ mệnh đề - động từ trong ngoặc hay toán tử logic
tình thái là lí thuyết có thể áp dụng cho những động từ nhận thức đã hư hóa để biểu thị ý
nghĩa tình thái. Khi xuất hiện trong lời nói, phương tiện ngôn ngữ này sẽ tạo nên những
kiểu ý nghĩa logic - tình thái, phản ánh nhận thức, thái độ, sự đánh giá của người nói, bên
cạnh những yếu tố có tính chất thuần túy logic.
Ý nghĩa tình thái của động từ nhận thức bị hư hóa tác động đến cả câu chứ không rơi
vào một thành phần nào của câu (trong khi một số toán tử logic tình thái khác có thể rơi
vào một thành phần nào đó trong câu)
Nếu Nguyễn Ngọc Trâm vẫn thừa nhận tính chất động từ của những đơn vị này nhưng
là động từ biểu thị ý nghĩa thái độ mệnh đề thì Hoàng Phê nhấn mạnh chúng như là
“một loại đơn vị đặc biệt của ngôn ngữ, chứ chúng không còn tư cách của động từ nữa”
[2, tr. 141].
Ngoài động từ nhận thức ra, tính từ đánh giá hoạt động nhận thức cũng có khả năng
biểu thị ý nghĩa tình thái, được từ vựng hóa thành các quán ngữ như: dại gì, dễ gì, có sai
đâu, tuy nhiên so với động từ thì số này chiếm số lượng không nhiều.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đức Dân (1998), Logic và tiếng Việt, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[2] Hoàng Phê (2003), Logic – Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
[3] Nguyễn Ngọc Trâm (2002), Nhóm từ tâm lí – tình cảm tiếng Việt và một số vấn đề từ
vựng - ngữ nghĩa, NXB KHXH, Hà Nội.
CHỨC NĂNG BIỂU THỊ Ý NGHĨA TÌNH THÁI CỦA CÂU...
87
Title: EXPRESSING INTENTIONAL MEANING OF SENTENCES THROUGH A GROUP
OF VIETNAMESE MENTAL VERBS
Abstract: The differences between mental verbs and physical verbs are not only that the former
refer to intellectual states (e.g. ‘know’, ‘understand’), non-observable intellectual acts
(‘suspect’, ‘believe’) or cognitive processes (‘realize’, ‘find’) and that the latter refer to physical
states (‘sleep’, ‘pain’), physical acts (‘hit’, ‘run’, etc.) or physical processes (‘fall’, ‘drop’), but
also that the former ones can become an intentional component of a sentence in some cases. At
this time, they are referred to as ‘intentional verbs’. This article describes and analyzes a group
of Vietnamese intentional verbs that originate from thinking verbs such as ‘I think (that)’, ‘I
believe (that)’, ‘I suppose (that)’, ‘Who knows (that)’, and so on.
NGUYỄN THỊ THU HÀ
Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế
ĐT: 01276.878.977 hoặc 0982.500.092
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7_90_nguyenthithuha_13_nguyen_thi_thu_ha_2499_2020911.pdf