Cải cách hành chính trong khâu giám sát, nghiệm thu số lượng và chất lượng
thực hiện các dịch vụ. Căn cứ xác định giá trị khối lượng sản phẩm dịch vụ được Nhà
nước thanh toán, đương nhiên phải đảm bảo các tiêu trí do Nhà nước đặt ra, như về khối
lượng, chất lượng, thời gian, qui trình vận hành Song rút ngắn, giảm bớt những thủ tục
hành chính trong quản lý Nhà nước thông qua cơ chế giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của đơn vị cung ứng là hướng đi cơ bản nhằm đạt được những mục tiêu về cải
cách hành chính.
- Cải cách hành chính trong khâu thanh toán, quyết toán: Thực hiện chuyển đổi cơ
chế cấp thanh toán từ thực thanh thực chi, sang cơ chế Nhà nước cấp thanh toán theo kết
quả về khối lượng và chất lượng dịch vụ cung ứng. Qua đó giảm các khâu cơ quan tài
chính kiểm tra xét duyệt từng khối lượng thực hiện cụ thể của doanh nghiệp theo số liệu
kiểm tra, phê duyệt của cơ quan giám sát, cơ quan chủ quản. Cơ quan tài chính chỉ thẩm
tra về thủ tục, điều kiện, hạch toán các khoản chi trả và kiểm soát nguồn chi trả thanh
toán. Kho bạc Nhà nước thực hiện các thủ tục về kiểm soát chi theo qui định.
- Cải cách hành chính trong các quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp trên cơ
sở xác định rõ trách nhiệm cụ thể của mỗi phía trong việc lập kế hoạch hàng năm, giải
quyết các vấn đề phát sinh trong năm, cấp phát và thanh toán. Loại trừ triệt để quan hệ
xin – cho trong các khía cạnh công việc.
9 trang |
Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 751 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách tài chính phục vụ phát triển xã hội hóa các dịch vụ đô thị ở Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
XÃ HỘI HÓA CÁC DỊCH VỤ ĐÔ THỊ Ở HÀ NỘI
TS. Nguyễn Duy Phong
Trưởng phòng Tài chính giao thông đô thị,
Sở Tài chính Hà Nội
Trong suốt thập kỷ qua, cùng với cả nước Hà Nội đã đạt được tốc độ phát triển
kinh tế cao, gắn liền với quá trình đô thị hóa nhanh. Xu hướng phát triển này sẽ còn tiếp
diễn trong tương lai và sẽ có nhiều tác động tích cực và tiêu cực đối với Hà Nội. Cùng
với kết quả do phát triển kinh tế đem lại, Hà Nội đã, đang và sẽ còn phải đối diện với
hàng loạt các vấn đề của đô thị như vệ sinh môi trường, ùn tắc giao thông, cung cấp nước
sạch, cũng như các dịch vụ thiết yếu khác.
Với những nỗ lực giải quyết các vấn đề trên, hệ thống các dịch vụ đô thị (DVĐT)
của Thành phố những năm qua đã được mở rộng và cải thiện rõ rệt. Mức chi ngân sách
Thành phố hàng năm dành cho 7 lĩnh vực DVĐT thiết yếu năm 2009 đạt 2.740 tỷ đồng,
dự toán 2010 đạt 3.250 tỷ đồng. Tuy nhiên, các DVĐT đang ngày càng trở nên bị quá tải
trước nhu cầu xã hội ngày càng cao về loại hình, quy mô, khối lượng và chất lượng dịch
vụ và cùng với đó đòi hỏi nguồn vốn đầu tư ngày càng lớn. Thực tế cho thấy, nếu không
có các nguồn vốn đủ mạnh thì không thể triển khai thực hiện và nâng cao chất lượng
cung cấp của bất kỳ DVĐT nào, không có điều kiện cải thiện sức cạnh tranh và trình độ
phát triển của Thành phố. Mặt khác, nếu chỉ trông chờ vào Ngân sách Nhà nước (NSNN),
thì khó có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển các DVĐT, không mở rộng và đa dạng
hoá các hình thức đầu tư phát triển DVĐT thì sẽ không có nhiều điều kiện để đưa công
nghệ mới vào sản xuất, cung cấp các sản phẩm dịch vụ có chất lượng tốt hơn, giá thành rẻ
hơn. Vì vậy, xã hội hóa chính là đa dạng hoá các nguồn vốn cho đầu tư, duy trì các
DVĐT từ các khu vực kinh tế, nhằm làm cho mọi người dân, mọi tổ chức, mọi thành
phần kinh tế nhận thức và thực hiện nghĩa vụ, quyền hạn, lợi ích trong việc phát triển và
thụ hưởng các DVĐT.
Trong giai đoạn hiện nay, chính sách tài chính phục vụ sự phát triển, XHH các
DVĐT là một bộ phận hợp thành quan trọng trong chính sách phát triển của Thành phố,
tác động đến kết quả mọi mặt của hoạt động đô thị hiện đại, trước mắt cũng như lâu dài
trong sự liên quan dây chuyền hữu cơ và tổng thể với các hoạt động kinh tế xã hội khác
của Thủ đô. Việc hoàn thiện cơ chế tài chính nhằm thúc đẩy phát triển, xã hội hóa các
DVĐT thiết yếu trên địa bàn Thủ đô đang đặt ra như một nhu cầu cấp thiết cả về nhận
thức khoa học, lẫn thực tiễn quản lý kinh tế - đô thị của chính quyền các cấp.
1. Khái niệm, phân loại và vai trò DVĐT
1.1. Khái niệm, phân loại DVĐT:
DVĐT là hoạt động cung cấp các dịch vụ chung thiết yếu, bảo đảm thường xuyên
liên tục, gắn liền với việc cung ứng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật cơ bản, nhằm đáp ứng nhu
cầu vật chất cho sinh hoạt của người dân tại các đô thị.
Các DVĐT có nhiều loại hình, lĩnh vực đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau và do
nhiều đối tượng cung cấp, bảo đảm. Một số DVĐT thiết yếu có tính chất công ích vừa
đáp ứng yêu cầu sinh hoạt của dân cư, vừa phục vụ lợi ích chung được Nhà nước bảo
đảm, khuyến khích sử dụng thông qua hình thức tổ chức dịch vụ và bù đắp một phần chi
phí. Các dịch vụ này đều có tính chất chung là mang tính đồng bộ và cộng đồng cao trong
vận hành, công nghệ và được tổ chức theo một qui hoạch thống nhất, như hệ thống giao
thông đô thị, hệ thống cấp nước, chiếu sáng, thoát nước, vệ sinh môi trường, cây xanh,
vườn hoa...
Nguồn tài chính chủ yếu cho DVĐT là từ NSNN địa phương và một phần do
đóng góp trực tiếp của người dân. Doanh thu của các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đô
thị một phần được ngân sách nhà nước hỗ trợ, một phần từ các khoản đóng trực tiếp của
người sử dụng và một phần nhỏ từ các hoạt động mang tính chất kinh doanh dịch vụ.
DVĐT là hoạt động có tính chất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận. Nhà nước
có trách nhiệm tạo ra hành lang pháp lý để kiểm tra, giám sát các tổ chức cung ứng nhằm
đảm bảo chất lượng DVĐT cho xã hội, do vậy sự điều tiết của chính quyền nhằm xử lý
những vấn đề quan trọng như chất lượng, giá cả đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng
và tạo điều kiện cạnh tranh giữa các đơn vị cung ứng dịch vụ...
Trước đây, chưa có một văn bản pháp quy nào quy định các loại hình DVĐT cụ
thể. Gần đây, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/2005/NĐ-CP về sản xuất và cung ứng
sản phẩm, DVĐT với hơn 30 loại sản phẩm DVĐT, trong đó có một số DVĐT quan
trọng cụ thể là:
* Dịch vụ giao thông vận tải:
Dịch vụ giao thông vận tải gồm 2 nội dung: Xây dựng, bảo trì hệ thống hạ tầng
giao thông và vận tải hành khách công cộng.
* Dịch vụ vệ sinh môi trường (VSMT):
Dịch vụ VSMT bao gồm công tác thu gom, vận chuyển và xử lý các chất thải của
hoạt động sản xuất và sinh hoạt của xã hội, đặc biệt là chất thải rắn và chất thải lỏng.
Dịch vụ vận chuyển thu gom và xử lý rác thải thông thường được chia làm 3 công
đoạn: Thu gom rác thải tại nguồn đến các bãi tập kết nhỏ, vận chuyển rác từ bãi tập kết
nhỏ đến bãi đổ chung và công đoạn xử lý rác thải.
Hệ thống thoát nước cũng liên quan trực tiếp đến môi trường sống. Nguyên tắc
chung, nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp đều phải được xử lý tùy theo tính
chất của từng nguồn nước thải rồi mới đổ ra hệ thống thoát nước chung.
* Dịch vụ cung cấp nước sạch:
Dịch vụ cung cấp nước sạch gồm 2 nội dung: Xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật
truyền dẫn nước và cung ứng nước.
* Dịch vụ bưu chính viễn thông: Là dịch vụ cung cấp mạng thông tin, liên lạc.
Cùng với một số DVĐT khác, đây là dịch vụ có vai trò quan trọng không những cho sự
phát triển kinh tế của cộng đồng, cá nhân mà còn có vai trò trong liên kết xã hội, liên kết
cá nhân.
* Một số loại DVĐT khác: Hiện nay, ngoài các DVĐT phổ biến trên, tồn tại một
số loại DVĐT khác như: Dịch vụ công viên, cây xanh; Chiếu sáng công cộng, dịch vụ
nghĩa trang
1.2. Vai trò của DVĐT trong đời sống xã hội:
DVĐT có vai trò quan trong đối với mỗi xã hội, chất lượng của DVĐT là một
trong những yếu tố thể hiện chất lượng cuộc sống của mỗi quốc gia. Nhìn vào chất lượng
của DVĐT, người ta thấy được sự giàu có, trình độ phát triển của quốc gia đó.
- DVĐT đảm bảo những điều kiện vật chất thiết yếu nhất cho các hoạt động kinh
tế, xã hội tại các đô thị. Chỉ trục trặc trong một dịch vụ, một khâu nào đó như cấp, thoát
nước, giao thông công cộng, VSMT thì lập tức sẽ gây ra sự cố cho mọi hoạt động khác
và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt xã hội và đời sống nhân dân. Ngược lại, một hệ
thống các DVĐT hiện đại, đồng bộ, năng động sẽ tạo điều kiện để phát triển sản xuất, lưu
thông góp phần nâng cao chất lượng sống và bản thân dịch vụ đó cũng sẽ mang tính cạnh
tranh cao.
- Xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, các DVĐT như là hệ thống huyết mạch,
tạo mối liên hệ giữa các bộ phận, giữa các khu vực của đô thị. Sự phát triển các DVĐT sẽ
là một trong những điều kiện vật chất quan trọng cho sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã
hội khác. Chính vì vậy chất lượng phát triển các DVĐT là một tiêu trí quan trọng để đánh
giá trình độ phát triển của mỗi đô thị.
Tuy nhiên, việc duy trì, phát triển các DVĐT đòi hỏi một khối lượng đầu tư rất
lớn của Nhà nước và doanh nghiệp để tổ chức duy trì, hỗ trợ đầu tư, tổ chức hoạt động
đó là trở ngại đáng kể đối với chính quyền đô thị. Song với nhận thức mới, coi phát triển
DVĐT không phải là yếu tố đi sau, mà là yếu tố mở đường, là bộ phận cấu thành của phát
triển KT - XH, vì thế các cấp chính quyền ngoài việc tăng đầu tư trực tiếp từ ngân sách,
hỗ trợ gián tiếp thông qua các chương trình phát triển, chính sách lãi suất và bảo đảm sau
đầu tư, còn đặc biệt trú trọng đến việc mở rộng xã hội hoá các lĩnh vực này.
- Với vai trò thoả mãn nhu cầu tối thiểu, DVĐT có vai trò quan trọng trong cuộc
sống, nó đảm bảo cho mọi người quyền được sử dụng những hàng hoá dịch vụ thiết yếu,
tối thiểu thoả mãn nhu cầu của con người, đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của con
người. Trong cơ chế thị trường, hoạt động cung cấp DVĐT còn có vai trò cải tạo tính
khiếm khuyết của thị trường, nó bổ sung những hàng hoá dịch vụ cơ bản nhưng lại thiếu
hụt ở thị trường do lợi nhuận đem lại từ các hoạt động này không cao.
- Với đặc tính là khó đạt được lợi nhuận tối đa, nhanh chóng, hoạt động DVĐT
cung cấp cho người dân quyền được hưởng như nhau, bình đẳng những lợi ích mà dịch
vụ đem lại, không phân biệt người đóng nhiều hay đóng ít thuế vào ngân sách.
- Nó như là một công cụ quan trọng nhằm đảm bảo sự liên kết về mặt xã hội, văn
hoá, lãnh thổ, kinh tế của một cộng đồng, một nước hay rộng hơn là các liên minh nhằm
tiến hành các chính sách phát triển, góp phần vào việc tạo ra mô hình xã hội tiến bộ.
DVĐT tạo ra mối liên kết giữa cá nhân và xã hội, bảo vệ những người, những cộng đồng
có nguy cơ bị đào thải, bị cô lập vẫn được hưởng thụ các dịch vụ cần thiết.
- DVĐT là điều kiện không thể thiếu nếu muốn thực hiện các quyền cơ bản của cá
nhân, của cộng đồng. Khi dịch vụ này thoả mãn được các nhu cầu cơ bản, nó ngày càng
nâng cao chất lượng và khả năng phục vụ của xã hội, lúc đó nhiều DVĐT có vai trò quan
trọng trong việc mở rộng khả năng hoạt động của cá nhân cũng như của cộng đồng.
- Ngoài những vai trò trên, DVĐT còn giữ một vai trò không kém phần quan
trọng liên quan đến các hiệu ứng ngoại lai, bao gồm cả những hiệu ứng tích cực và hiệu
ứng tiêu cực. Một số DVĐT có đặc tính là thêm một người sử dụng không chỉ có lợi cho
đối tượng này, mà còn có lợi cho cả những người sử dụng khác (bưu điện, viễn thông,
giao thông). Như với khu vực dân cư lớn, phương tiện giao thông công cộng tiện dụng và
giá rẻ thì lưu lượng các phương tiện cá nhân sẽ giảm và nhờ đó cũng giảm được chi phí
giải quyết các vấn đề môi trường và tắc nghẽn giao thông đi kèm. Cũng có những hiệu
ứng ngoại lai tác động đến việc phân bổ hoạt động trên phạm vi lãnh thổ, một số khu vực
phát triển quá tập trung, trong khi đó một số khu vực thì cả mật độ dân số lẫn mức độ
hoạt động đều thấp. Hiện tượng di chuyển từ một khu vực này sang một khu vực khác khi
thái quá sẽ tạo ra những hiệu ứng tiêu cực do mật độ quá cao hay quá thấp. Các DVĐT
hấp dẫn về chất lượng và giá cả sẽ là một thành tố quan trọng tạo nên một chính sách quy
hoạch lãnh thổ có hiệu quả.
Cũng vì vai trò quan trọng của các DVĐT trong đời sống, Nhà nước và các cấp
chính quyền địa phương đều có trách nhiệm trong việc đảm bảo, tổ chức cung ứng phục
vụ nhu cầu chung của xã hội, đồng thời luôn phải đổi mới phương thức hoạt động để thoả
nhu cầu ngày càng cao của cá nhân, cộng đồng.
2. Các hình thức tổ chức cung ứng DVĐT:
Tổ chức cung ứng DVĐT ở mỗi nước có những đặc điểm khác nhau, tuỳ thuộc và
quan điểm, pháp lý, kinh tế, công nghệ và khả năng quản lý của mỗi quốc gia. Trong xu
thế các liên minh kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng hiện nay,
thì quan điểm của mỗi nước về tổ chức cung ứng DVĐT này cũng tuân thủ một số quy
định chung phù hợp với các cam kết hợp tác khu vực và quốc tế. Hiện có nhiều cách tổ
chức cung ứng DVĐT khác nhau, tựu chung lại có một số cách thức cơ bản sau:
- Nhà nước trực tiếp cung ứng thông qua hoạt động của các doanh nghiệp công
ích.
- Nhà nước không trực tiếp cung ứng mà cho phép tư nhân, các tổ chức cung ứng
(đơn vị ngoài Nhà nước cung cấp dịch vụ được tổ chức theo mô hình doanh nghiệp, hợp
tác xã hoặc tổ hợp tác). Nhà nước dùng quyền lực can thiệp gián tiếp đến các dịch vụ
nhằm đảm bảo các mục tiêu xã hội mà Nhà nước đề ra.
Sự tham gia của các tổ chức ngoài Nhà nước, tư nhân vào việc cung ứng DVĐT
cũng có một số hình thức:
+ Những hoạt động do tư nhân tài trợ và phân phối hoàn toàn thông qua thị
trường.
+ Những hoạt động cung ứng mà do tư nhân tài trợ, Nhà nước dùng biện pháp ký
hợp đồng trực tiếp với doanh nghiệp tư nhân để mua lại dịch vụ đó và giữ quyền phân
phối dịch vụ.
+ Những dịch vụ do Nhà nước tài trợ, nhưng các doanh nghiệp tư nhân phân phối
thông qua việc ký hợp đồng với những cơ chế nhất định với Nhà nước.
Hiện nay, Nhà nước vẫn thực hiện đầu tư và cung cấp dịch vụ này là cơ bản. Có
một số hình thức cung ứng sau: Doanh nghiệp Nhà nước; doanh nghiệp liên doanh giữa
Nhà nước và nước ngoài; doanh nghiệp tư nhân; hợp tác xã, tổ hợp tác. Các hình thức
cung cấp DVĐT ở Việt Nam đang có nhiều bước đổi mới, việc tăng cường xã hội hoá
DVĐT, chuyển giao hoạt động cung ứng dịch vụ này cho khu vực phi nhà nước nhằm thu
hút nguồn lực xã hội và nâng cao khả năng phục vụ của DVĐT đang là hướng ưu tiên lựa
chọn cho phát triển của chính quyền và cộng đồng.
3. Công tác quản lý nhà nước và yêu cầu hoàn thiện cơ chế tài chính thúc đẩy
xã hội hóa phát triển DVĐT
3.1. Công tác quản lý nhà nước đối với DVĐT
Do tính chất của DVĐT là phục vụ các nhu cầu thiết yếu của cộng đồng, nhưng
phải bảo đảm thu lợi nhuận và vì những yếu tố khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường
đối với một số dịch vụ có tính công ích, nên Nhà nước luôn chịu trách nhiệm chính về
việc cung ứng các DVĐT. Và cũng chỉ có Nhà nước mới có đủ quyền lực, tạo ra cơ chế
để huy động các nguồn lực cần thiết cho việc cung ứng, trong đó có quyền thu thuế để tạo
nguồn vốn tập trung.
Không những ở Việt Nam, các nước trên thế giới, tuy có những hình thức tổ chức
cung ứng DVĐT khác nhau nhưng hầu hết đều xác định vẫn cần có sự điều tiết của chính
quyền nhằm đảm bảo chắc chắn nhiệm vụ cung cấp DVĐT của các loại hình sẽ được
hoàn thành tốt để bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, việc mở rộng các thành phần kinh tế tham gia
cung ứng tạo ra tính cạnh tranh trong việc cung ứng dịch vụ; khi đó cạnh tranh có vai trò
trong việc nâng cao tính hiệu quả của các dịch vụ công cộng. Vai trò to lớn của cạnh
tranh tại bất cứ đâu là kích thích đổi mới, tạo sức ép đòi giảm giá để làm lợi cho người sử
dụng và gián tiếp cho người dân đóng thuế. Sự điều tiết của chính quyền dưới một hình
thức nào đó là một việc cần thiết, do hoạt động điều tiết xử lý những vấn đề quan trọng
như giá cả, chất lượng của các DVĐT, những điều kiện cạnh tranh giữa các đơn vị cung
ứng, hay những điều kiện cho phép những đơn vị mới tham gia
Công tác quản lý Nhà nước đối với DVĐT nhằm đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Sử dụng có hiệu quả nguồn NSNN chi phí cho các DVĐT.
- Bảo đảm sự ổn định và công bằng trong tiêu dùng các DVĐT cho phát triển kinh
tế – xã hội theo mục tiêu nhà nước đề ra.
- Đảm bảo trách nhiệm của Nhà nước trước xã hội về các DVĐT.
Khi trực tiếp cung ứng hay ủy nhiệm cho các thành phần khác cung ứng, Nhà
nước thực hiện một số công tác quản lý cơ bản sau:
- Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển đối với ngành DVĐT; đồng thời sửa
đổi, hoàn chỉnh các văn bản pháp luật, xây dựng các cơ chế, chính sách mới cho phù hợp
với điều kiện mới cho hoạt động DVĐT.
- Sử dụng các cơ chế, quy chế để điều tiết và kiểm soát các doanh nghiệp và các
tổ chức tư nhân trong việc cung ứng DVĐT theo yêu cầu của Nhà nước. Chẳng hạn, Nhà
nước cho phép các doanh nghiệp tư nhân cung ứng điện, nước cho nhân dân, song sử
dụng những quy chế bắt buộc đòi hỏi doanh nghiệp phải chịu sự quản lý về giá cả, tài
chính, quản lý về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá dịch vụ, đòi hỏi doanh nghiệp phải
cung cấp dịch vụ cho vùng sâu, vùng xa
- Tạo môi trường bình đẳng cho các doanh nghiệp, tổ chức tham gia cung ứng.
Thông thường với các DVĐT, Nhà nước sử dụng biện pháp miễn giảm thuế hoặc trợ cấp
cho những doanh nghiệp tham gia cung ứng. (Ở đây, Nhà nước dùng biện pháp miễn thuế
hoặc trợ cấp, trợ giá với mục tiêu là một phần lợi ích này sẽ được chuyển lại cho người
tiêu dùng qua mức giá thấp hơn.)
- Thực hiện kiểm tra, giám sát đối với hoạt động cung ứng dịch vụ theo quy định
cho phép. Nhà nước sử dụng những chế tài đối với các doanh nghiệp cung ứng cũng như
đối với cá nhân sử dụng dịch vụ khi họ vi phạm đến các quy chế, chính sách về cung cấp
và sử dụng DVĐT.
- Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, các cấp chính quyền Nhà
nước trong quản lý hoạt động cung ứng DVĐT.
3.2. Yêu cầu hoàn thiện cơ chế tài chính thúc đẩy phát triển các DVĐT
Cơ chế tài chính nhằm thực hiện mục đích phát triển DVĐT được hiểu là phương
thức để Nhà nước sử dụng các công cụ tài chính tác động vào hệ thống quản lý các hoạt
động dịch vụ đó, nhằm định hướng, tổ chức, xây dựng và quản lý các hoạt động dịch vụ
trên địa bàn. Để hoàn thiện, đổi mới, bổ sung cơ chế tài chính nhằm phát triển DVĐT đạt
hiệu quả cần bảo đảm các yêu cầu sau:
Thứ nhất, đa dạng hoá về phương thức quản lý:
Trong bối cảnh nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, với một hệ thống
cung cấp các dịch vụ đa dạng về hình thức và chủ sở hữu như hiện nay. Nhà nước không
nên thực hiện một phương thức quản lý nhất loạt lên các đối tượng quản lý khác nhau.
Hoạt động xe buýt, VSMT hay cung cấp nước sạch hiện nay và trong tương lai cả các
hoạt động khác (như xe buýt nhanh BRT, xe điện trên cao, xe điện ngầm) theo phương
thức đấu thầu dịch vụ, hay đầu tư xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp tác
Nhà nước và tư nhân (PPP), đặt hàng đều cần áp dụng và đa dạng hoá các phương
pháp quản lý thích hợp và linh hoạt trong một thể chế thống nhất.
Trong tương lai, để phù hợp với xu hướng chung của các nước trong khu vực, đối
với một số dịch vụ vận tải hiện đại, Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện các yêu cầu
về giám sát quản lý trực tiếp dịch vụ đó, mà từng bước chuyển giao cho những tổ chức
độc lập thực hiện giám sát hoặc có thể chuyển giao toàn bộ cho chính doanh nghiệp đang
vận hành chủ động thực hiện theo cơ chế tự giám sát tổ chức vận hành.
Thứ hai, kết hợp hài hoà giữa cơ chế quản lý của Nhà nước với việc tự vận động
hạch toán kinh doanh của đơn vị, doanh nghiệp.
Các chức năng quản lý của Nhà nước chủ yếu là việc tạo cơ hội để các doanh
nghiệp tiếp cận, tham gia, đầu tư, tổ chức vận hành các dịch vụ. Hướng dẫn, kiểm tra,
giám sát và bảo đảm các quyền lợi hợp pháp của đơn vị khi tham gia, bảo đảm môi
trường cạnh tranh, kinh doanh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Còn các đơn
vị, doanh nghiệp trong phạm vi được Nhà nước đặt hàng hoặc đấu thầu, phải chủ động
đầu tư, tổ chức quản lý, vận hành nhằm đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời chấp hành đầy
đủ nghĩa vụ trách nhiệm đối với Nhà nước và người sử dụng dịch vụ do mình cung cấp.
Chức năng quản lý của Nhà nước về tài chính phải được thực hiện thông qua cơ
chế quản lý, chính sách chế độ cụ thể và được vận hành một cách rõ ràng, minh bạch
giảm bớt các khâu, các thủ tục hành chính từ phí các cơ quan quản lý Nhà nước để bảo
đảm chính sách đó được thực thi đạt hiệu quả tốt nhất.
Thứ ba, tăng cường cải cách hành chính tạo thuận lợi và nâng cao hiệu quả trong
cơ chế quản lý các khoản do Nhà nước chi trả cho các dịch vụ đô thị:
- Cải cách hành chính trong khâu giám sát, nghiệm thu số lượng và chất lượng
thực hiện các dịch vụ. Căn cứ xác định giá trị khối lượng sản phẩm dịch vụ được Nhà
nước thanh toán, đương nhiên phải đảm bảo các tiêu trí do Nhà nước đặt ra, như về khối
lượng, chất lượng, thời gian, qui trình vận hànhSong rút ngắn, giảm bớt những thủ tục
hành chính trong quản lý Nhà nước thông qua cơ chế giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của đơn vị cung ứng là hướng đi cơ bản nhằm đạt được những mục tiêu về cải
cách hành chính.
- Cải cách hành chính trong khâu thanh toán, quyết toán: Thực hiện chuyển đổi cơ
chế cấp thanh toán từ thực thanh thực chi, sang cơ chế Nhà nước cấp thanh toán theo kết
quả về khối lượng và chất lượng dịch vụ cung ứng. Qua đó giảm các khâu cơ quan tài
chính kiểm tra xét duyệt từng khối lượng thực hiện cụ thể của doanh nghiệp theo số liệu
kiểm tra, phê duyệt của cơ quan giám sát, cơ quan chủ quản. Cơ quan tài chính chỉ thẩm
tra về thủ tục, điều kiện, hạch toán các khoản chi trả và kiểm soát nguồn chi trả thanh
toán. Kho bạc Nhà nước thực hiện các thủ tục về kiểm soát chi theo qui định.
- Cải cách hành chính trong các quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp trên cơ
sở xác định rõ trách nhiệm cụ thể của mỗi phía trong việc lập kế hoạch hàng năm, giải
quyết các vấn đề phát sinh trong năm, cấp phát và thanh toán. Loại trừ triệt để quan hệ
xin – cho trong các khía cạnh công việc.
Thứ tư, áp dụng phổ biến và triệt để phương thức đấu thầu, đặt hàng các dịch vụ
đô thị:
Việc chuyển từ phương thức thực thanh, thực chi sang phương thức đấu thầu, đặt
hàng các sản phẩm DVĐT là việc Thành phố xác định rõ khối lượng dịch vụ cần được
cung ứng, bảo đảm trong một thời gian nhất định (1 năm) để đặt ra các yêu cầu về cung
ứng đối với các doanh nghiệp, tổ chức thực hiện với chi phí được xác định phù hợp.
Đối với Thành phố Hà Nội, cùng với quá trình đổi mới sắp xếp, cổ phần hoá
doanh nghiệp thực hiện bình đẳng trong sản xuất kinh doanh, khi thực hiện việc cung ứng
các dịch vụ đô thị dù theo phương thức nào thì các doanh nghiệp không có sự phân biệt
đối xử trong chính sách của Nhà nước. Không để đơn vị nào có một lợi thế tuyệt đối
trong kinh doanh so với đơn vị khác.
Việc đặt hàng, đấu thầu các dịch vụ đô thị sẽ tạo điều kiện để phân định rõ trách
nhiệm trong cung ứng sản phẩm giữa Nhà nước - doanh nghiệp - người dân: Nhà nước bỏ
ra chi phí ngân sách để thu về dịch vụ được đáp ứng tốt nhất; doanh nghiệp có trách
nhiệm cung ứng dịch vụ với chất lượng tốt nhất và chịu mọi trách nhiệm về các dịch vụ
mình cung ứng và ngược lại sẽ được hưởng mọi lợi ích chính đáng nếu tiết kiệm, hợp lý
hoá sản xuất, đổi mới công nghệ cung ứng dịch vụ; Người dân khi được hưởng các dịch
vụ, có trách nhiệm đóng góp một phần chi phí, thông qua phí, lệ phí để giảm bớt gánh
nặng của NSNN, đồng thời tham gia vào quá trình giám sát, đánh giá chất lượng dịch vụ
được cung ứng.
Ngoài ra, còn tạo cơ chế thanh toán chi phí rõ ràng minh bạch cũng như thực hiện
các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước kể cả của doanh nghiệp cung ứng và của người
được hưởng thụ dịch vụ.
Thứ năm, áp dụng ngày càng triệt để nguyên tắc thị trường về định giá và thu phí
dịch vụ đô thị:
Nguyên tắc chung: Một là, ai được hưởng lợi ích từ dịch vụ nào thì phải trả tiền
cho dịch vụ đó; Hai là, ai gây ra ô nhiễm, thiệt hại nào thì phải trả tiền để khắc phục ô
nhiễm hoặc thiệt hại đó (đối với dịch vụ môi trường thì cả 2 nguyên tắc cùng được áp
dụng một lúc để thu tiền dịch vụ).
Dịch vụ đô thị có nhiều loại khác nhau, dịch vụ nào cũng cần phải chi phí nhưng
việc bán ra và thu tiền về lại không giống nhau. Có thứ không thu được tiền từ người sử
dụng và chính quyền Thành phố phải trả thay, lấy từ tiền thuế của dân (như công viên
phục vụ lợi ích công cộng, cây xanh trên đường phố...); Có thứ thu một phần như vận tải
bằng xe buýt, vệ sinh môi trường, thoát nước phần còn lại Nhà nước phải trả nốt các chi
phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra, gọi là “trợ giá”. Người sử dụng có thể trả trực tiếp như vé
xe buýt, phí vệ sinh môi trường hoặc trả gián tiếp thông qua thu phí nước thải phụ thu
vào phí nước sạch, phí chiếu sáng công cộng phụ thu vào tiền điện sinh hoạt
Tính khả thi của xã hội hoá dịch vụ đô thị trước tiên liên quan đến giá cả dịch vụ
do Nhà nước qui định theo các nguyên tắc:
- Giá cả dịch vụ phải bảo đảm cho người cung cấp dịch vụ bù đắp một phần giá
thành và phải có lãi. Căn cứ vào giá cả đó, người cung ứng dịch vụ nhận tiền từ bên đặt
hàng (chính quyền Thành phố) hoặc nhận trực tiếp từ người sử dụng dịch vụ. Khi nhận
trực tiếp thì giá cả dịch vụ phải phù hợp với khả năng chi trả của người tiêu dùng, đặc
biệt đối với người nghèo.
Tuy nhiên, các DVĐT hiện nay, Nhà nước qui định: Trường hợp các khoản thu
không đủ để bù đắp chi phí hợp lý thì được ngân sách Nhà nước cấp bù phần chênh lệch
và bảo đảm lợi ích thoả đáng cho người lao động. (Điều 19, Luật DNNN). Vì vậy, khi
đấu thầu hay đặt hàng dịch vụ thì việc xây dựng giá dịch vụ đô thị còn phải dựa trên cơ
sở các định mức và đơn giá do các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền xem xét quyết
định.
4. Một số kết quả bước đầu trong tổ chức bảo đảm các DVĐT ở HN
Để từng bước nâng cao chất lượng cung ứng các DVĐT thiết yếu trên địa bàn
năm 2006, Thành phố Hà Nội đã ban hành đồng bộ các cơ chế, chính sách quan trọng,
trong đó có Quyết định số 36/2006/QĐ-UBND ngày 27/3/2006 ban hành Quy chế đấu
thầu, đặt hàng các sản phẩm DVĐT.
Việc ban hành, thực hiện quyết định trên bước đầu đã tạo ra những chuyển biến,
tác dụng tích cực rõ rệt. Trong 7 lĩnh vực dịch vụ thiết yếu (bảo trì hệ thống hạ tầng giao
thông; vận tải công cộng bằng xe buýt; vệ sinh môi trường; cấp nước; thoát nước; chiếu
sáng; bảo trì công viên vườn hoa) từ chỗ chỉ do một số doanh nghiệp Nhà nước cung ứng,
đến nay Hà Nội đã có tổng số 42 doanh nghiệp, tổ chức, HTX cung ứng các DVĐT trên.
Chính quyền Thành phố đã chủ động trong công tác quản lý, điều hành ngân sách Thành
phố để đáp ứng kịp thời các yêu cầu ngày càng đa dạng, tăng trưởng qui mô các DVĐT
của Thành phố; tạo chủ động trong tổ chức hoạt động, nâng cao chất lượng cung ứng dịch
của các tổ chức, doanh nghiệp được Nhà nước đấu thầu, đặt hàng; thực hiện tốt chủ
trương xã hội hóa, đa dạng hóa việc huy động các nguồn lực xã hội đầu tư, cung ứng các
sản phẩm DVĐT.
Tuy nhiên, qua 3 năm thực hiện và nhất là sau khi Quốc hội ban hành Nghị định
số 15/2008/QH12 ngày 29/5/2008 điều chỉnh địa giới hành chính Thành phố HN và một
số văn bản qui phạm quan trọng khác..., thì một số cơ chế cũ có những bất cập, việc vận
dụng cơ chế của Hà Nội (cũ) đối với các địa phương thuộc Hà Tây trước đây cũng gặp
nhiều vướng mắc trở ngại; qui trình quản lý, nghiệm thu, thanh quyết toán đòi hỏi cần
được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp.
Xuất phát từ yêu cầu đó, thực hiện chỉ đạo của UBND Thành phố, ngành Tài
chính đã phối hợp với các ngành liên quan đã chủ động đánh giá lại tình hình thực hiện
các cơ chế cũ của Thành phố từ đó xây dựng trình UBND Thành phố ban hành Quyết
định số 113/2009/QĐ-UBND về “Quy chế đấu thầu, đặt hàng cung ứng các sản phẩm
DVĐT trên địa bàn Thành phố Hà Nội”. Trong đó, tập trung vào một số nội dung sau:
- Qui định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của UBND Thành phố, quận, huyện, thị xã
là cơ quan có thẩm quyền quyết định việc đấu thầu, đặt hàng các DVĐT do cấp mình
quản lý theo phân cấp.
- Xác định thứ tự ưu tiên việc cung ứng các DVĐT lần lượt là: Đầu thầu – đặt
hàng; qui định rõ các điều kiện để tổ chức đấu thầu các DVĐT mới đưa vào cung ứng và
đặt hàng.
- Thực hiện triệt để cải cách hành chính về thủ tục, qui trình; việc đặt hàng các
DVĐT do ngân sách Nhà nước chi trả phải phù hợp với thời kỳ lập dự toán, giao dự toán
ngân sách hàng năm của Thành phố;
- Các qui định về thanh quyết toán chi phí sản phẩm DVĐT cũng được qui định
cụ thể.
Ngoài ra, trách nhiệm của các cấp, các ngành, cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp
cũng được qui định cụ thể trong quá trình tổ chức thực hiện.
Tóm lại, trong giai đoạn phát triển Thủ đô thời gian tới, Thành phố cần tiếp tục
hoàn thiện hệ thống cơ chế tài chính, tăng cường các hoạt động xã hội hóa phát triển các
DVĐT, theo hướng khuyến khích sự đa dạng hóa các thành phần, các hình thức doanh
nghiệp, các phương thức tổ chức thực hiện, các cơ chế quản lý, và đặc biệt là các chế độ
ưu đãi tài chính nhằm khuyến khích và tạo sự bình đẳng, thuận lợi tối đa cho các hoạt
động xã hội hóa phát triển DVĐT. Cần có sự đổi mới mạnh mẽ về cơ chế hỗ trợ và quản
lý chi NSNN cho các DVĐT, đổi mới cơ chế quản lý đơn vị cung ứng DVĐT theo hướng
doanh nghiệp hóa, thị trường hóa và cổ phần hóa; kết hợp hài hòa và hiệu quả các nguồn
vốn trong và ngoài ngân sách; tăng cường tính tự chủ của các doanh nghiệp trong hoạt
động sản xuất và cung ứng các DVĐT, tiếp cận với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế,
đồng thời đảm bảo yêu cầu quản lý của Nhà nước và phù hợp với các mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội chung mà thành phố đặt ra góp phần đảm bảo thủ đô ngày càng xanh, sạch,
đẹp, phát triển bền vững, văn minh và hiện đại./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1413153028_134_chinh_sach_tai_chinh_phuc_vu_phat_trien_xa_hoi_hoa_cac_dich_vu_do_thi_tai_ha_noi_205.pdf