Chất lượng tín dụng và tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn
Rỏ ràng dùng hai phương pháp trên vẫn chưa đánh giá chính xác chất lượng
tín dụng của ngân hàng. Do đó cần nghiên cứu ra những phương pháp đánh
giá chất lượng tín dụng hiệu quả hơn để đảm bảo đảm an toàn, hiệu quả cho
ngân hàng cũng như nền kinh tế.
17 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 3575 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng tín dụng và tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chất lượng tín dụng và tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn
Tác giả
Nguyễn Thành Sơn
Khái niệm.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến bản thân ngân
hàng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái của nền kinh tế. Bởi vì ngân
hàng giống như một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, đó là một
lĩnh vực rất nhạy cảm và rủi ro rất cao. Trong các nghiệp vụ của ngân hàng
thì có lẽ tín dụng là một nghiệp mang lại phần lớn doanh lợi cho ngân hàng
nhưng cũng là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro nhất. Ngay cả khi khoản vay có tài
sản thế chấp, cầm cố thì rủi ro vẫn xảy ra với tỷ lệ cao khoảng 50%(theo uỷ
ban Bale quốc tế). Sẽ là sai lầm nếu quan niệm cho vay có tài cầm cố thế
chấp, nhưng không quá tỷ lệ quy định là an toàn nhất, trong khi đó kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của khách hàng mới là
quan trọng nhất đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng.
Chất lượng tín dụng được nhìn nhận từ các giác độ:
Chất lượng tín dụng được xét dưới giác độ doanh nghiệp: Do nhu cầu vốn
vay được đáp ứng để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động sản xuất kinh
doanh bù đắp được chi phí sản xuất, trả nợ ngân hàng và có lãi nên chất
lượng tín dụng ngân hàng đứng trên góc độ doanh nghiệp chỉ đơn giản là thoả
mãn nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và làm cho đồng vốn sử dụng có hiệu
quả.
Xét dưới giác độ ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức
độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích
cực của bản thân ngân hàng và đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường
đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Khi cho vay ngân hàng phải
thực hiện theo pháp lệnh ngân hàng và các văn bản chế độ hiện hành của
nghành. Xác định đối tượng cho vay và them định kỹ khách hàng trước khi
cho vay, nắm bắt thông tin và hiểu được tình hình sản xuất kinh doanh, khả
năng tài chính và mục đích sử dụng vốn vay, cơ sở hoàn trả vốn vay để đảm
bảo món vay được hoàn trả cả gốc và lãi đúng kỳ hạn, hạn chế mức thấp nhất
khả năng rủi ro có thể xảy ra, đây là nguyên tắc cơ bản nhất đối với ngân
hàng.
Chất lượng tín dụng xét từ giác độ nền kinh tế -xã hội: Tín dụng ngân hàng
trong những năm gần đây phản ánh rỏ rệt sự năng động của nền kinh tế khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tín dụng ngân hàng phải huy động mức
tối đa vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội để cung ứng cho
các doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. Tín dụng đầu tư cho
nền kinh tế tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ làm tăng thêm sản
phẩm cho xã hội, tạo thêm việc làm cho người cho người lao động, góp phần
tăng trưởng kinh tế và khai thác mọi khả năng tiềm tàng, tích tụ vốn nhàn rỗi
trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngoài có lợi cho kinh tế phát triển.
Chất lượng tín dụng thể hiện ở tính an toàn cao của hệ thống ngân hàng. Tín
dụng ngân hàng đảm bảo được chất lượng thì khả năng thanh toán chi trả cao,
tránh được rủi ro hệ thống. Nâng cao chất lượng tín dụng làm cho hệ thống
ngân hàng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế
phát triển hoà nhập với thế giới.
Qua đó ta có thể rút ra rằng:
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể(thể hiện qua các chỉ
tiêu tính toán được), vừa trìu tượng(thể hiện qua khả năng thu hút
khách hàng, tác động đến nền kinh tế..). Chất lượng tín dụng chịu ảnh
hưởng bởi các nhân tố chủ quan(khả năng quản lý, trình độ cán bộ, sự
tuân thủ quy trình nghiệp vụ..)và khách quan(sự thay đổi của môi
trường kinh tế, do chủ quan của khách hàng..)
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ thích
nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện
sức cạnh tranh của một ngân hàng trong môi trường hoạt động.
Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố như: Thu hút được
nhiều khách hàng tốt, cho vay được nhiều, thủ tục đơn giản, mức độ an
toàn của vốn tín dụng..
Chất lượng tín dụng không phải tự nhiên mà có, nó là kết quả của một
quy trình kết hợp giữa các con người trong một tổ chức; giữa các tổ
chức với nhau vì một mục đích chung: An toàn, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh với các khoản tín dụng.
Như vậy, chất lượng tín được hình thành và bảo đảm từ hai phía là ngân hàng
và yếu tố bên ngoài. Để tránh rủi ro và thu được lợi nhuận trong hoạt động tín
dụng, không có cách nào khác là ngân hàng phải nâng cao chất lượng tín
dụng của mình.
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng.
Xu hướng cho vay cho thấy rằng cơ hội cho vay của các ngân hàng đối với
các khách hàng có rủi ro thấp đã giảm. Các giấy tờ thương mại, chứng khoán
và cạnh tranh phi ngân hàng đã đẩy ngân hàng sang các loại khách hàng có
độ rủi ro cao hơn thay thế những khách hàng truyền thống. Ví dụ: những
người vay là doanh nghiệp lớn và ổn định đã từng có quan hệ trong danh mục
cho vay của ngân hàng đã chuyển sang các nguồn thị trường mở như thị
trường như thị giấy tờ thương mại và trái phiếu nhằm giảm chi phí giao dịch
của họ. Các ngân hàng đã tìm cách thay thế đối tượng khách hàng này bằng
những khách hàng vay nhỏ và kém ổn định hơn. Như vậy, do các khoản mục
cho vay ngày càng ngày càng có độ rủi ro cao hơn và không ổn định do tính
chất cạnh cao và không ổn định của nền kinh tế. Do vậy việc đánh giá chất
lượng tín dụng đối với một ngân hàng là hết sức quan trọng. Bởi chất lượng
tín dụng biểu hiện khả năng hoạt động của ngân hàng tốt hay xấu, làm cơ sở
để để đánh giá ngân hàng. Mặt khác, việc đánh giá chất lượng tín dụng cũng
giúp cho ngân hàng có những thay đổi hợp lý, điều chỉnh hoạt động để nâng
cao khả năng cạnh tranh của mình. Việc nâng cao chất lượng tín dụng không
những làm cho ngân hàng tăng thu nhập mà còn giúp ngân hàng được an
toàn. Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng mang tính khoa học, nó vừa
cụ thể vừa trừu tượng nên để đánh giá chất lượng tín dụng người ta dựa vào 2
hệ thống chỉ tiêu: Chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính.
Nhóm chỉ tiêu định lượng
- Chỉ tiêu nợ quá hạn: Nợ quá hạn là những khoản cho vay đến hạn mà khách
hàng không trả được số tiền trong hợp đồng tín dụng và tiền lãi của số tiền đó
và không được ngân hàng gia hạn. Số tiền này ngân hàng chuyển thành nợ
quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn đối với những khoản nợ này(cao hơn lãi
suất thông thường). Đây là những khoản những khoản nợ có độ rủi ro cao và
ngân hàng có khả mất vốn. Để đánh giá chất lượng tín dụng trên cơ sở nợ quá
hạn, người ta người ta thường thông qua tỷ lệ nợ quá hạn và tỷ lệ đầu tư rủi
ro:
Hai chỉ tiêu này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao.
Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng
là tất nhiên. Do đó nợ quá hạn của ngân hàng là tất yếu. Tuy nhiên, để đảm
bảo an toàn, sinh lời và tăng khả năng cạnh tranh ngân hàng phải cố gắng
giảm thiểu tỷ lệ nợ quá hạn. Hai chỉ tiêu trên rất quan trọng để đánh giá chất
lượng tín dụng ngắn hạn.
Cả hai chỉ tiêu này đều giúp ngân hàng quản lý rủi ro các khoản cho vay.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai tỷ lệ là nợ quá hạn chỉ xem xét đến giá trị
khoản nợ quá hạn, trong khi đó tỷ lệ đầu tư rủi ro xem xét món vay mà phát
sinh nợ quá hạn.
Hai chỉ tiêu này đều chịu ảnh hưởng của chính sách xoá nợ của ngân hàng,
một ngân hàng có chính sách tốt là phải thiết lập quỹ dự phòng rủi ro đủ
mạnh và thông báo định kỳ về những món vay không đủ khả năng thu hồi, để
tránh tình trạng trong một lúc ngân hàng phải thông báo con số nợ không có
khả năng thu hồi quá lớn và làm giảm tài sản của ngân hàng một cách
nghiêm trọng. Tuy nhiên, nếu ngân hàng thực hiện xoá nợ quá nhanh thì hai
tỷ lệ này sẽ ở mức thấp nhất nhưng không có ý nghĩa thực tiễn. Thông thường
khi lập bảng theo dõi nợ quá hạn ngân hàng thường phân nợ quá hạn theo
thời gian: 30, 60, 90, 120 ngày. Sự phân loại phân loại này có ý nghĩa đối với
việc quản lý chất lượng tín dụng và đánh giá để thiết lập dự phòng mất vốn.
Tỷ lệ này lệ này càng nhỏ càng tốt.
Những khoản nợ quá hạn, nếu khách hàng tiếp tục không trả được nợ thì
ngân hàng thực hiện khoanh nợ và xoá nợ bằng quỹ dự phòng rủi ro. Khi
món nợ được xoá thì các nỗ lực thu hồi vẫn tiếp tục nếu điều đó có ý nghĩa
kinh tế. Xoá nợ đơn giản là một phương pháp quản lý tài chính của ngân
hàng chứ không phải là sự thừa nhận về mặt pháp lý rằng người vay không
còn nợ ngân hàng nữa.
Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt
Tỷ lệ này được hình thành dựa trên tỷ lệ vỡ nợ trước đây, tỷ lệ chỉ ra % dư
nợ được dự đoán là không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ dự phòng mất vốn liên
quan đến tỷ lệ dự phòng mất vốn trích lập theo quy định và tỷ lệ mất vốn. Tỷ
lệ dự phòng mất vốn trích lập theo quy định đại diện cho khoản trích lập mất
vốn được xoá nợ một thời kỳ. Tỷ lệ mất vốn tính trên tổng giá trị các khoản
nợ quá hạn được xoá trong một thời kỳ.
-Chất lượng tín dụng ngắn hạn được đánh giá thông qua lợi nhuận thu được
từ cho vay ngắn hạn. Chỉ tiêu này đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng
ngắn hạn.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho vay ngắn hạn. Tỷ
lệ sinh lời cao chứng tỏ khoản cho vay đó có hiệu quả, có chất lượng cao. Để
đạt tỷ lệ sinh lời cao thì việc thu nợ và giải quyết nợ quá hạn tốt. Tỷ lệ này
cao một phần nói lên kết quả kinh doanh tốt của ngân hàng, điều này rất
quan trọng vì doanh thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ yếu của ngân
hàng.
- Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay ngắn hạn.
Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ vòng quay của tín dụng ngân hàng càng nhanh,
điều này cũng chứng tỏ việc thu hồi nợ nhanh và đúng hạn do đó tỷ lệ này
cao cũng chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng rất tốt. Mặt khác vòng
quay vốn tín dụng nhanh chứng tỏ tốc độ luân chuyển tiền tệ trong nền kinh
tế nhanh, ngân hàng đã tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Với một lượng vốn nhất định nhưng do tốc độ chu chuyển vốn tín
dụng nhanh nên ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của doanh
nghiệp trong phát triển kinh doanh.
Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt. Tỷ lệ này phản ánh hiệu quả của việc giải ngân
vốn. Chi phí cho vay ngắn hạn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm chi phí
đầu vào như chi phí trả lãi huy động vốn, chi phí bảo hiểm.. Chi đầu ra bao
gồm chi phí để trả lương công nhân, chi phí quản lý.. Tuy nhiên trong một số
trường hợp chỉ số này không phản ánh đúng thực tế: nếu chi phí cho vay tăng
trong khi đó danh mục đầu tư không tăng thì tỷ lệ này sẽ lớn, ngược lại nếu
có nhiều món vay ngắn hạn được thực hiện trong một thời kỳ( dẫn đến doanh
thu cho vay và doanh số cho vay tăng một kỳ) thì chi phí cho một đồng vốn sẽ
giảm.
Chỉ tiêu này rất quan trọng vì nó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của ngân
hàng, liệu ngân hàng đã sử dụng hết khả năng của mình trong cho vay ngắn
hạn hay chưa?
- Chỉ tiêu dư nợ, doanh số cho vay:
Hai chỉ tiêu này cho biết cơ cấu dư nợ và cơ cấu doanh số cho vay của tín
dụng ngắn hạn trong tổng dư nợ và tổng doanh số cho vay. Từ đó có thể so
sánh hiệu quả hoạt động tín dụng ngắn hạn với các loại tín dụng trung và dài
hạn
Để thu hồi nguồn vốn của mình ngân hàng có hai nguồn để thu đó là, từ hoạt
động kinh doanh của ngân hàng nếu khách hàng làm ăn thua lỗ thì ngân
hàng có nguồn thu thứ hai đó là tài sản thế chấp, cầm cố và bảo hiểm. Khi
đến hạn nếu khách hàng không trả được nợ thì ngân hàng có thể phát mãi tài
sản. Như vậy nếu tỷ lệ này lớn thì không thể đánh giá chất lượng tín dụng
của ngân hàng cao được, kể cả trường hợp số tiền bán tài sản thu được nợ.
Nhóm chỉ tiêu định tính.
Trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng ngoài những chỉ tiêu có thể
lượng hoá được thì còn có rất nhiều yếu tố mà không thể lượng hoá được.
Các chỉ tiêu định tính được qua quy chế, chế độ, thể lệ tín dụng, qua độ thoả
mãn của khách hàng đối với sản phẩm của khách hàng, độ tín nhiệm của
khách hàng đối với ngân hàng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHTM.
NHTM là một chủ thể trong nền kinh tế và có quan hệ mật thiết với sự phát
triển của nền kinh tế. NHTM có quan hệ rất rộng với nền kinh tế, do đó để
đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thì chúng ta phải hiểu biết về
những nhân tố tác động đến nó. Những nhân tố tác động đến chất lượng tín
dụng ngân hàng bao gồm những nhân tố chủ quan và những nhân tố khách
quan. Các nhân tố này được chia thành 3 nhóm:
Các nhân tố thuộc về ngân hàng.
Khả năng thẩm định cho vay:
Thẩm định cho vay là khâu quan trong hoạt động tín dụng và ảnh hưởng rất
lớn đến chất lượng tín dụng. Thẩm định đó là khâu đánh giá, dự đoán, thẩm
tra về độ chính xác, an toàn và hiệu quả của một hợp đồng tín dụng. Mặt dù
không chính xác tuyệt đối nhưng làm tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho việc thu
hồi cả vốn và lãi đầy đủ khi khoản vay đến hạn thanh toán. trong quá trình
them định yêu cầu phải có trình độ chuyên môn và sự phán đoán linh hoạt,
tuy nhiên phải tuân thủ nghiêm ngặt về hồ sơ và an toàn thông tin.
Đặc biệt đối với những khoản vay ngắn hạn, do tính đặc thù của hoạt động
này là cho vay thường xuyên nhằm đáp ứng kịp thời vốn lưu động cho các
doanh nghiệp do đó them định phải nhanh chóng kịp thời nhưng phải chính
xác bảo đảm an toàn cho đồng vốn bỏ ra.
Chất lượng cán bộ tín dụng:
Để đảm bảo chất lượng tín dụng được nâng cao thì đòi hỏi nhiều yếu tố,
trong đó con người là nhân tố trung tâm, là yếu tố quyết định sự thành bại
trong quản lý vốn, tài sản của ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thì hoạt động của ngân hàng cũng càng ngày càng tinh vi và phức tạp
đòi hỏi cán bộ ngân hàng có đủ phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn để
lĩnh hội và ứng dụng khoa học tiên tiến. Trình độ cán bộ quản lý điều hành
và cán bộ tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng. Khách
hàng của ngân hàng rất đa dạng do đó trình độ cán bộ tín dụng phải cao và
hiểu biết phong phú để đánh giá được một khoản cho vay.
Vấn đề thông tin tín dụng:
Trong nền kinh tế mở thì thông tin là một yếu tố rất quan trọng, là một kho
tàng quý báu cho những ai biết cập nhật và sử dụng hiệu quả thông tin.
NHTM hoạt động trong một lĩnh vực rất nhạy cảm đối với nền kinh tế và đầy
tính rủi ro do đó thông tin càng cực kỳ quan trọng. Đối với nghiệp vụ tín
dụng, ngân hang thường không đủ về thông tin về lợi tức tiềm ẩn và rủi ro
kèm theo với dự án mà người vay định tiến hành. Việc thiếu thông tin tạo ra
sự lựa chọn đối nghịch, đó là hiện tượng người vay tạo ra một kết cục không
mong muốn – rủi ro không trả được nợ. Do vậy nắm bắt không đầy đủ chính
xác về thông tin sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Kiểm soát nội bộ:
Các quy chế, thể lệ cho vay và các nguyên tắc cho vay nếu cán bộ ngân hàng
không nắm vững sẽ gây nên tổn thất, ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Do
đó, công tác kiểm soát nội bộ giúp cho cán bộ điều hành công việc theo đúng
cơ chế, đúng pháp luật, mặt khác nắm được sai sót lệch lạc trong hoạt động
tín dụng có biện pháp khắc phục kịp thời.
Các nhân tố thuộc về khách hàng.
Khách hàng người trực tiếp sử dụng khoản vay từ ngân hàng có ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Việc có nhiều khách hàng đủ
điều kiện vay, sử dụng vốn vay hợp lý, hiệu quả, thanh toán nợ và lãi đúng
hạn sẽ làm cho chất lượng tín dụng được nâng cao. Những yếu tố từ ngân
hàng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đó là :
Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong sản xuất kinh doanh phải có mọi phương án và tính đến mọi yếu tố có
liên quan như vật liệu được cung cấp từ đâu, điều kiện giao thông vận tải có
thuận lợi không, cơ sở hạ tầng như thế nào, hàng làm ra có tiêu thụ và cạnh
tranh được không vv... Những điều đó cán bộ kinh doanh không hiểu biết sẽ
dẫn tới làm ăn thua lỗ. Như vậy khi năng lực quản lý kinh doanh bị hạn chế
thì các phương án sản xuất kinh doanh là không phù hợp với thực tế do đó
khả năng trả nợ của doanh nghiệp kém ảnh hưởng xấu tới chất lượng tín
dụng.
Khả năng điều kiện hiện tại của các doanh nghiệp:
Hiện nay hầu hết các khách hàng thiếu các điều kiện cần và đủ để thực hiện
các nguyên tắc và quy định cho vay thế chấp của ngân hàng. Theo pháp lệnh
thì khi khách hàng vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và thực
hiện đúng chế độ hạch toán kinh tế. Trên thực tế 80% các pháp nhân và thể
nhân khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và 100% tài sản của doanh nghiệp
nhà nước không có chứng nhận sở hữu. Mặt khác doanh nghiệp nhà nước
vốn tự có rất bé. Trong khi đó chức năng nhiệm vụ trong giấy phép kinh
doanh là rất lớn, yêu cầu vay vốn gấp 20-50 lần vốn tự có. Thực tế nhiều bộ
phận khách hàng khi vay không thực hiện đúng pháp lệnh về cho vay. Điều
đó làm cho không có một ràng buộc pháp lý nào giữa ngân hàng và khách
hàng và làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Tuy nhiên xem xét từ khía cạnh trả nợ của khách hàng thì hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp mới là quan trọng. Khả năng trả nợ của ngân
hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngắn hạn, bởi vì
đặc trưng của tín dụng ngắn hạn là thời gian khoản vay ngắn, do đó việc xác
định khả năng trả nợ của khách hàng là rất quan trọng. Do đó để đảm bảo
chất lượng tín dụng, ngân hàng chỉ bỏ vốn vào những dự án khả thi, phù hợp
với tình hình tài chính, điều kiện thực tế của doanh nghiệp để có thể thu được
lợi nhuận.
Đạo đức của người vay:
Các ngân hàng sẽ quyết định cho vay sau khi đã phân tích cẩn thậnyếu tố
liên quan đến tính chân thật của người vay trong việc trả nợ. Tuy nhiên tính
chân thật và khả năng chi trả của người vay có thể thay đổi sau khi mon cho
vay đã được thực hiện. Rủi ro đạo đức xảy ra khi khách hàng sử dụng món
vay vào mục đích khác nhiều rủi ro hơn. Điều này ảnh hưởng tới chất lượng
tín dụng.
Các nhân tố thuộc về môi trường.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn có quan hệ mật thiết với nền kinh tế.
Từng giai đoạn và biến cố kinh tế đều có những tác động đến hoạt động ngân
hàng. Lạm phát, suy thoái hay tăng trưởng kinh tế, thuế... đều ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Nền kinh tế
nước ta đang trong giai đoạn đổi mới và đạt được nhiều kết quả khích lệ. Tuy
nhiên còn một số những khó khăn doanh nghiệp chuyển hướng và điều chỉnh
phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp hoặc không phù hợp với sự
thay đổi của chính sách, cơ chế vĩ mô. Do vậy doanh nghiệp gặp những khó
khăn trong sản xuất kinh doanh, hàng hoá tồn đọng, thua lỗ kéo dài, mất khả
năng thanh toán làm phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi điều này ảnh hưởng
xấu đến chất lượng tín dụng.
Cùng với sự thay đổi của môi trường kinh tế thì môi trường pháp lý thay đổi
cũng ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng.
Phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của ngân hàng.
Trên thế giới có nhiều cách đánh giá khác nhau về chất lượng tín dụng ngân
hàng. Nhưng tại Việt Nam hiện việc quy định tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu định
lượng như đã trình bày rất khó, do đó chỉ mang tính tương đối. Các phương
pháp sử dụng:
Phương pháp định lượng:
Đây là phương pháp sử dụng các chỉ tiêu định lượng như đã trình bày ở mục
3.2.1 như tỷ lệ nợ quá hạn, cơ cấu vốn đầu tư, tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài
sản của người vay, chỉ tiêu quay vòng vốn tín dụng... Nghiên cứu cụ thể và
đem ra được một tiêu chuẩn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay là một điều cần thiết. Hiện tại sử dụng các chỉ tiêu này mới chỉ
phần nào đánh giá chất lượng tín dụng trên những con số. Do đó ta cần đánh
giá chất lượng tín dụng trên phương pháp khác.
Phương pháp chuyên gia:
Đây là phương pháp nhằm đánh giá những yếu tố trừu tượng như: trình độ
cán bộ tín dụng, nghiệp vụ tín dụng, việc đánh giá này phải được căn cứ trên
tiêu chuẩn nhất định để có được tính đồng nhất trong toàn hệ thống, thuận
lợi khi so sánh chất lượng tín dụng các kỳ.
Thông thường để đánh giá đúng đắn chất lượng tín dụng của một ngân hàng
người ta sử dụng thang điểm cho từng chỉ tiêu đánh giá. Nếu sử dụng thang
điểm 100 căn cứ vào mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu. cuối cùng ta tính
tổng điểm cho chất lượng tín dụng như sau:
CLTD = Dct1 + Dct2 + Dct3 + .. ..Dctn
Trong đó Dct1,2,3.. điểm cho chỉ tiêu 1,2,3...
Nếu tổng điểm CLTD <= 35 điểm đạt loại C.
Nếu tổng điểm CLTD từ 36 đến 65 điểm đạt loại B.
Nếu tổng điểm CLTD từ 66 điểm trở lên đạt loại A.
Rỏ ràng dùng hai phương pháp trên vẫn chưa đánh giá chính xác chất lượng
tín dụng của ngân hàng. Do đó cần nghiên cứu ra những phương pháp đánh
giá chất lượng tín dụng hiệu quả hơn để đảm bảo đảm an toàn, hiệu quả cho
ngân hàng cũng như nền kinh tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chat_luong_tin_dung_va_tieu_thuc_danh_gia_chat_luong_tin_dung_ngan_han_521.pdf