Hậu quả là VN-Index và HNX-Index giảm điểm liên tục 6 phiên sau đó.Năm 2009 nền kinh tế thế giới nói chung và nên kinh tế Việt Nam nói riêng đã thoát khỏi suy thoái và xác lập đáy trong quý II năm 2009. năm 2009 là giai đoạn thị trường hồi phục TTCK.
Câu 12: vị trí và vai trò của thị trường tiền tệ trong thị trường tài chính
15 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 3555 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Câu hỏi và đáp án môn thị trường tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1:
Thị trường tc :là thị trường mà ở đó diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định.
TTTC hiệu quả là tttc mà trong đó giá hiện tại của tài sản tc phản ánh đầy đủ mọi thông tin có liên quan, nghĩa là giá thị trường của những ck riêng biệt thay đổi rất nhanh theo thông tin mới xuất hiện
Các mức độ hiệu quả của thị trường như sau:
-Hình thức hiệu quả yếu giá cả hiện tại phản ánh đầy đủ kết quả giá cả trong quá khứ hay nói khác đi hiểu biết về động thái giá cả quá khứ sẽ giúp bạn cải thiện khả năng dự báo giá cả trong tương lai
-Hình thức hiệu quả trung bình: giá cả hiện tại phản ảnh đầy đủ tất cả những thông tin được công bố chẳn hạn như báo cáo thường niên
-Hình thức hiệu quả mạnh: giá cả hiẹn tại phản ánh đầy đủ tất cả thông tin kể cẩ thông tin quá khứ, thông tin được công bố lẫn thông tin nội gián
Sự cần thiết của thị trường hiệu quả : trong thị trường hiệu quả mạnh không ai có thể lợi dụng ưu thế hơn về thông tin để chiến thắng người khác và do giá cả phản ảnh rất nhanh với mọi thông tin có liên quan nên không thể kiếm được lợi nhuận do có ưu thế hơn về thông tin.Khiến cho giao dịch trên tttc được minh bạch và công bằng hơn, ngược lại nếu thị trường hiệu quả yếu có người lợi dụng được ưu thế thông tin để kiếm lợi nhuận nhà đầu tư tham gia thị trường chẳng khác nào tham gia chơi một canh bạc mà trong đó có kẻ ăn gian chưa được phat hiện thị trường tc rất cần sự hiệu quả để tạo sự cân bằng cho các nhà giao dịch và chỉ khi ấy các công cụ tc mới có thể trở thành công cụ kinh doanh và tự bảo hiểm rủi ro theo đúng nghĩa của nó
Liên hệ với vn:
mức độ thanh khoản của TTCK Việt Nam còn rất nhỏ bé so với thị trường các nước trong khu vực và thế giới. Nguyên nhân rất dễ nhận thấy đó là, ở TTCK Việt Nam số lần khớp lệnh trong một năm rất thấp, nếu trước đây khớp lệnh 2 lần/phiên và hiện tại tăng lên 3 lần/phiên có nghĩa là chỉ khoảng 753 lần khớp lệnh/năm (chẳng hạn tính cho năm thứ 6). Trong khi đó, với cơ chế khớp lệnh liên tục tại các thị trường chứng khoán phát triển trên thế giới, mỗi lần khớp lệnh chỉ
tốn trung bình khoảng 22 giây1 thì có thể có đến hơn 1.300 lần khớp lệnh/ngày (chỉ
tính giao dịch 8 giờ/ngày), đây là một trong những yếu tố rất quan trọng nhằm tăng độ
thanh khoản trên thị trường.Như vậy, rõ ràng với độ thanh khoản của thị trường rất thấp cùng với thị trường quá tập trung, phụ thuộc rất nhiều vào 10 công ty niêm yết hàng đầu đã bổ sung thêm một dấu hiệu tin cậy nữa cho thấy mức độ hiệu quả của TTCK Việt Nam là dạng yếu.
Câu 2: rủi ro: chính là sự thay đổi liên tục của giá cả chứng khoán. Nói cách khác khi đầu tư vào thị trường chứng khoán, nhà đầu tư không thể chắc chắn về lợi nhuận thu được.
Phân biệt rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.
Điểm giống nhau:Thứ nhất, đều là rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
- Thứ hai, cả 2 loại rủi ro này đều là sự biến động tiềm ẩn ở những kết quả, là khả năng xảy ra những điều không mong muốn và khi xảy ra thì mang lại những tổn thất.
- Thứ ba, 2 loại rủi ro này đều có thể đo lường được nhưng lại không lượng hóa được xác suất và thời điểm xảy ra.
Điểm khác nhau:
Rủi ro hệ thống
Rủi ro phi hệ thống
Đặc điểm
- Rủi ro hệ thống là những rủi ro nằm ngoài công ty.
- Không thể kiểm soát được.
- Rủi ro hệ thống như những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội…
- Rủi ro phi hệ thống là những rủi ro do những yếu tố nội tại gây ra.
- Có thể kiểm soát được.
-Rủi ro phi hệ thống như khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng hay những yếu tố khác gắn với thu nhập của công ty.
Tác động
- Tác động đến sự dao động giá của các chứng khoán trên thị trường
- Ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán.
- Không tác động tới giá của tất cả các chứng khoán trên thị trường.
- Chỉ ảnh hưởng đến một công ty hoặc một ngành công nghiệp nào đó.
Phân loại
- Gồm 3 loại chính là:
+ rủi ro thị trường
+ rủi ro lãi suất
+ rủi ro sức mua
- Gồm 2 loại chính là:
+ Rủi ro kinh doanh
+ rủi ro tài chính
Phân loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán.
Rủi ro hệ thống: do toàn bộ thị trường quyết định và người đầu tư không thể tác động lên rủi ro này. Nó bao gồm những rủi ro nằm ngoài công ty, không thể kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán. Những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội là nguồn của rủi hệ thống.
Rủi ro thị trường:là sự biến động giá chứng khoán do tâm lý của các nhà đầu tư. Giá chứng khoán có thể dao động mạnh trong một khoảng thời gian ngắn mặc dù thu nhập của doanh nghiệp vẫn không thay đổi. Rủi ro thị trường xuất hiện khi có những phản ứng của các nhà đầu tư trước các sự kiện có thể là hữu hình hoặc vô hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội.
Mức độ rủi ro thị trường ở các nước khác nhau là khác nhau. Ở các thị trường phát triển, thị trường là nơi dành cho các nhà đầu tư lớn, nhà đầu tư có tổ chức nên rủi ro thị trường sẽ không lớn. Ngược lại ở những thị trường mới nổi và đang phát triển, thị trường chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân với quy mô nhỏ, thiếu kiến thức và bản lĩnh đầu tư, tâm lý ăn theo lớn làm cho rủi ro thị trường rất cao.
Rủi ro lãi suất:là sự biến động giá chứng khoán do sự thay đổi của lãi suất gây ra. Khi đầu tư vào các chứng khoán có thu nhập cố định, nếu lãi suất thị trường tăng lên, cơ hội đầu tư vào các tài sản có mức lợi tức cao hơn sẽ mất đi. Để hạn chế rủi ro lãi suất, nhà đầu tư cần nghiên cứu đầy đủ các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất bao gồm: chu kỳ kinh tế, lạm phát, sự thay đổi trong chính sách tiền tệ của Chính Phủ, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tài chính…. để dự báo được sự thay đổi của lãi suất trong tương lai; sử dụng các công cụ dẫn suất như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn…để giảm thiểu mức độ rủi ro.
Rủi ro sức mua:là sự thay đổi giá trị thực của chứng khoán do sự thay đổi sức mua của đồng tiền. Nếu lạm phát vượt qua tỷ lệ lạm phát dự tính, giá trị thực của đồng tiền sẽ bị giảm và làm cho giá trị thực của khoản đầu tư bị giảm giá trị.
Rủi ro phi hệ thống.là những rủi ro do những yếu tố nội tại gây ra, nó có thể kiểm soát được và chỉ tác động đến một ngành hay một công ty như khả năng quản lý, thị hiếu tiêu dùng hay những yếu tố khác gắn với thu nhập của công ty và doanh số, lợi nhuận, giá cả cổ phiếu của những công ty này không phụ thuộc nhiều vào các diễn biến kinh tế hay tình hình thị trường chứng khoán.
Rủi ro kinh doanh:sự không chắc chắn về thu nhập của doanh nghiệp do bản chất của hoạt động kinh doanh.
Rủi ro kinh doanh có thể xuất hiện do yếu tố nội sinh hoặc ngoại sinh.
Rủi ro tài chính:là loại rủi ro mà công ty phải đối mặt khi huy động vốn từ các khoản nợ cho các hoạt động của công ty.Mức độ rủi ro tài chính có thể chấp nhận được của công ty phụ thuộc rất nhiều vào rủi ro kinh doanh. Với một công ty có mức độ rủi ro kinh doanh thấp thì các nhà đầu tư có thể chấp nhận một mức rủi ro tài chính cao hơn và ngược lại.
Thực trạng những rủi ro khi đầu tư vào cổ phiếu bất động sản.
Rủi ro hệ thống
Về rủi ro thị trường
Nhìn vào các cổ phiếu bất động sản đang niêm yết hiện nay, ta thấy cổ phiếu chưa bao giờ rẻ đến vậy, rất nhiều cổ phiếu chỉ còn 3000 – 4000 đồng/cp, và chỉ số thị giá trên giá trị sổ sách (P/B) chỉ còn 0,2-0,3 lần thế nhưng vẫn “ế chỏng chơ”.. Đặc biệt, từ sau sự kiện ông Nguyễn Đức Kiên bị bắt, cổ phiếu bất động sản bị sụt giảm mạnh và đã mất hơn 20% giá trị. Cổ phiếu bất động sản bị “hắt hủi” vì được xem là một loại cổ phiếu đặc biệt rủi ro.
Về rủi ro lãi suất
Sự liên kết với thị trường tiền tệ còn lỏng lẻo, chưa hình thành hệ thống các nhà tạo lập thị trường (Primary Dealers) cùng với yếu tố vĩ mô chưa thuận lợi (lạm phát, lãi suất cao) nên chưa tạo ra được đường cong lãi suất chuẩn, thị trường giao dịch trái phiếu có tính thanh khoản yếu. Từ đó, tác động mạnh đến cổ phiếu của ngành bất động sản.
Về rủi ro sức mua
Nhóm cổ phiếu ngành bất động sản được xem là đã ở mức quá rẻ. Thống kê trên hai sàn KBC và ITA cho thấy số cổ phiếu dưới mệnh giá lên đến 64/71 vào ngày 04/10/2011, có 28 trong tổng số 71 doanh nghiệp trong ngành bất động sản có giá dưới 5.000 đồng/cp; số cổ phiếu có giá dưới 10.000 đồng lên tới 49 cổ phiếu chiếm 69%; số cổ phiếu có P/B <0,5 lần lên tới 52 cổ phiếu. Vì vậy, mặc dù giá cổ phiếu bất động sản rất rẻ nhưng vẫn không được ai mua.
Rủi ro phi hệ thống
Về rủi ro kinh doanh
Trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán rất trầm lắng, Chẳng hạn, cổ phiếu PDR của Công ty cổ phần phát triển bất động sản Phát Đạt trong 1 tháng (từ giữa tháng 10 đến giữa tháng 11/2011) đã giảm từ 24000 đồng/cổ phiếu xuống còn 20000 đồng/cổ phiếu.Điều này làm cho giá cổ phiếu ngày càng giảm hơn nữa, hàng loạt cổ phiếu bất động sản bị bán với giá sàn mà không có người mua. Bối cảnh này đã làm cho nhiều doanh nghiệp bất động sản giảm doanh thu, lợi nhuận; số lượng doanh nghiệp phá sản ngày càng nhiều.
Về rủi ro tài chính
Sự suy giảm lượng vốn đầu tư trên thị trường chứng khoán đã tác động lớn tới các doanh nghiệp bất động sản. Trong 6 tháng đầu năm, giá trị cổ phiếu của nhóm ngành này giảm từ 50%-70% gây hạn chế cho doanh nghiệp trong huy động vốn cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Câu 3:
Quỹ đầu tư: là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản khác.
Vai trò của quỹ đầu tư trên thị trường chứng khoán
+ Góp phần huy động vốn cho việc phát triển nền kinh tế nói chung và góp phần vào sự phát triển của thị trường sơ cấp.
+ Các quỹ đầu tư tham gia bảo lãnh phát hành trai phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, cung cấp vốn cho phát triển các ngành.
+ Góp phần vào việc ổn định thị trường thứ cấp.
+ Góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp, góp phần vào sự phát triển của thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư chuyên nghiệp với
Tạo các phương thức huy động vốn đa dạng qua thị trường chứng khoán.
Xã hội hóa các hoạt động đầu tư chứng khoán.
Phân biệt:
Quĩ đầu tư dạng đóng
Quĩ đầu tư dạng mở
Có thể phát hành cổ phiếu thường cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu
Số lượng chứng khoán hiện hành cố định
Chào bán ra công chúng chỉ một lần
Không mua lại các chứng khoán đã phát hành
Cổ phiếu được phép giao dịch chính thức hay phi chính thức
Giá mua được xác định bởi lượng cung cầu
Loại chứng khoán phát hành là cổ phiếu thường
Số lượng chứng khoán hiện hành luôn thay đổi
Chào bán ra công chúng liên tục
Quỹ sẵn sàng mua lại các cổ phiếu phát hành theo giá trị tài sản thuần
Cổ phiếu được phép mua trực tiếp từ quỹ đầu tư, người bảo lãnh phát hành hay môi giới thương gia
Giá mua là giá trị tài sản thuần cộng với lệ phí bán
Lệ phí bán được cộng thêm vào giá trị tài sản thuần
Liên hệ với VN:
Thực trạng hoạt động của các quỹ đầu tư giai đoạn 2009 đến 6 tháng đầu năm 2012
Năm 2009: Hiện có khoảng 20 quỹ đang tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán VN. Tuy nhiên, mức tăng trưởng cao lại thuộc về các quỹ có quy mô trung bình. Đơn cử là 3 quỹ do PXP quản lý gồm VLF - Vietnam Lotus Fund, VEEFvà PXP có mức tăng trưởng NAV đứng đầu bảng xếp hạng các quỹ đầu tư có hoạt động tốt nhất tại Việt Nam do LCF Rothschild khảo sát. Trong đó, cao nhất là quỹ VEEF, tính đến ngày 9/11/2009 có mức tăng NAV là 98,3%.
Thực trạng 6 tháng đầu năm 2012: Theo báo cáo của công ty chứng khoán Rothschild cập nhật ngày 27/6, trong số 17 quỹ ngoại đầu tư vào thị trường chứng khoán tại Việt Nam thì có đến 15 quỹ có giá trị tài sản ròng (NAV) tăng so với đầu năm.Tính bình quân, NAV của 17 quỹ ngoại tăng 17,6% trong 6 tháng đầu năm, trong khi VN - Index tăng 22,3%.Tuy nhiên, hầu hết các quỹ đều có tỷ lệ chiết khấu âm (tức giá trị trên thị trường chứng khoán đang thấp hơn giá trị tài sản của quỹ).Câu 4:Thị trường tài chính phái sinh: là thị trường giao dịch các công cụ hay các loại chứng khoán phái sinh. Chứng khoán phái sinh là loại chứng khoán mà giá trị của nó được phái sinh từ giá trị của các tài sản cơ sở. Tài sản cơ sở có thể là hàng hóa, ngoại tệ, chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
Đặc điểm của công cụ tài chính phái sinh:
• Chứng khoán phái sinh được tạo lập dựa trên một chứng khoán gốc.
• Hoạt động của thị trường phái sinh góp phần làm tăng tính thanh khoản của các loại chứng khoán trên thị trường tài chính
+ Với sự xuất hiện chứng khoán phái sinh làm tăng số lượng hàng hoá trên thị trường tài chính.
+ Giao dịch chứng khoán phái sinh góp phần giảm chi phí giao dịch, hạn chế rủi ro…
• Được thực hiện vào một ngày trong tương lai
Phân biệt hợp đơng2 kỳ hạn và hợp đồng tương lai
Tiêu thức
Hợp đồng kỳ hạn
Hợp đồng tương lai
Loại hợp
đồng
Một thỏa thuận giữa hai bên, điền điều khoản linh hoạt
Được chuẩn hóa theo những tiêu chuẩn của SGD
Thời hạn
Thỏa thuận giữa hai bên
Chỉ có một vài thời hạn nhất định
Trị giá hợp đồng
Nhìn chung là lớn, trung bình trên một triệu $/1 hợp đồng
Nhỏ đủ để thu hút nhiều người tham gia
Ký quỹ
Thường là không, chỉ cần đặt cọc để đảm bảo cho hợp đồng
Tất cả các nhà giao dịch phải duy trì tiền ký quỹ theo tỷ lệ % trị giá hợp đồng
Thời điểm đáo hạn
Trên 90% hợp đồng được thanh toán khi đến hạn
Dưới 2% hợp đồng được thanh toán khi đến hạn thường là đảo vị thế
Rủi ro
Bởi không được thanh toán hàng ngày nên rủi ro có thể rất lớn nếu một bên tham gia hợp đồng không thực hiện
Do được thanh toán hàng ngày nên ít rủi ro hơn
Quy chế
Các bên tham gia tự thỏa thuận
Được quy định bởi SGD
Thanh toán tiền tệ
Không có khoản thanh toán tiền tệ trước ngày HĐ đến hạn
Thanh toán hàng ngày băng cách trích tài khoản của bên thua và ghi có vào tài khoản bên được
Yết giá
Các NH yết giá mua và bán với một mức độ chênh lệch giữa giá mua và giá bán
Chênh lệch giá mua và bán được niêm yết ở sàn giao dịch
Ngoại tệ giao dịch
Tất cả các ngoại tệ
Chỉ giới hạn cho một số ngoại tệ
Tỷ giá
Tỷ giá không đổi trong suốt thời hạn hợp đồng
Tỷ giá thay đổi hàng ngày
Hoa hồng
Trên cơ sở chênh lệch giữa giá bán và giá mua
Khách hàng trả hoa hồng cho nhà môi giới
Nhà môi giới và nhà giao dịch trả phí cho Sở giao dịch
Địa điểm
Thị trường phi tập trung
Thị trường tập trung
Tính thanh khoản
Thấp
Cao
Liên hệ các loại chứng khoán phái sinh ở Việt Nam
Hợp đồng quyền chọn Tại Việt Nam, hợp đồng quyền chọn mới chỉ được đưa vào thực hiện thử nghiệm cho các giao dịch tiền tệ.Giai đoạn cuối năm 2010, trên TTCK nổi lên một sự kiện liên quan tới hoạt động giao dịch quyền chọn là việc CTCK Vndirect (VNDS) đưa vào thực hiện sản phẩm quyền chọn với mục đích tăng thêm cơ hội kinh doanh thông qua việc giúp nhà đầu tư.Trên Internet hiện nay vẫn đang tồn tại một số trang website cho phép nhà đầu tư có thể thực hiện các giao dịch quyền chọn là: và thể thực hiện các giao dịch quyền chọn là: và
Hợp đồng tương lai: Tại Việt Nam, mới chỉ có nghiệp vụ hợp đồng kỳ hạn đã và đang được áp dụng trên thị trường ngoại tệ và thị trường hàng hóa (cà phê) nhưng nghiệp vụ hợp đồng tương lai (một loại hình hợp đồng kỳ hạn quy chuẩn) thì chưa được phép được áp dụng trong bất cứ lĩnh vực nào. Điển hình cho hoạt động kinh doanh này là việc Công ty vàng thế giới (VTG) giới thiệu sản phẩm có tên gọi VTG-VN-Index.
Các sản phẩm giao dịch mới có tính chất như CKPS
Thỏa thuận mua lại (Repo):Trên TTCK Việt Nam, hoạt động Repo chứng khoán bắt đầu phát triển vào năm 2006-2007.Cuối năm 2010 giới đầu tư Hà Nội rộ lên việc tìm mua cổ phiếu CTCP Đầu tư phát triển đa quốc gia (IDI), sau khi có thông tin công ty này sẽ chào sàn trong quý III trên HoSE, với giá 36.000 VND/1 cổ phiếu. Nhiều CTCK ưu tiên Repo cổ phiếu ngân hàng khi giá các cổ phiếu này hiện đang ở mức thấp, khiến việc Repo an toàn.
Giao dịch ký quỹ:Trong giai đoạn 2009 -2010, giao dịch ký quỹ không còn xa lạ với nhà đầu tư dù về mặt nguyên tắc UBCKNN vẫn chưa cho phép thực hiện. Khảo sát trên các website của các CTCK hiện nay có thể thấy khá nhiều các công ty thực hiện hoạt động giao dịch ký quỹ như: CTCK Bảo Việt (BVSC), CTCK Ngân hàng Đông Á (DAS), CTCK (FPTS), CTCK Sài Gòn (SSI),…Tuy nhiên, thực tế cho thấy bên cạnh lợi nhuận ban đầu thu được từ hoạt động giao dịch dẫn đến những mâu thuẫn pháp lý với nhà đầu tư.
Bán khống:Thực tiễn từ hoạt động của các CTCK tại Việt Nam cho thấy, đa phần hoạt động bán khống được thực hiện là có bảo đảm.Theo báo Đầu tư chứng khoán, trong giai đoạn cuối năm 2010, khi TTCK có xu hướng đi xuống, các hình thức cho vay chứng khoán chứng khoán để bán khống phát triển khá mạnh. Còn trên thị trường OTC, hoạt động bán khống chủ yếu là bán khống không có bảo đảm. Giai đoạn sôi động của hoạt động bán khống chủ yếu diễn ra vào năm 2009.
Câu 5:
Phân biệt sự khác nhau giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
Phát hành riêng lẽ
Công chúng
Phát hành riêng lẻ là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số người nhất định, thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài, như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí... với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Tức là ngân hàng đầu tư sẽ đứng ra mua trọn gói số chứng khoán phát hành và phân phối lại cho các nhà đầu tư. Đa số các đợt phát hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, còn việc phát hành cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện dưới hình thức này bởi lẽ cổ phiếu là một mặt hàng hấp dẫn và phổ biến trên thị trường chứng khoán, công ty thường phát hành rộng rãi cổ phiếu ra công chúng như một hình thức huy động vốn hiệu quả.
phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng khoán có thể chuyển nhượng và được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Chính vì vậy thủ tục phát hành công chúng thường phức tạp hơn là phát hành riêng lẻ, thường phải đi kèm với một số điều kiện về tình hình kinh doanh công ty và khối lượng phát hành có sự thẩm định của Ủy ban chứng khoán nhà nước.
Phân tích lợi ích của việc phát hành chứng khoán ra công chúng
- Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng của công ty, nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần sau. Thêm vào đó, khách hàng và nhà cung ứng của công ty thường cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty và do vậy công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.- Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp công ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn cũng như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn. Ví dụ như các cổ phiếu của các công ty đại chúng dễ dàng được chấp nhận là tài sản cầm cố cho các khoản vay ngân hàng. Ngoài ra, việc phát hành chứng khoán ra công chúng cũng giúp công ty trở thành một ứng cử viên hấp dẫn hơn đối với các công ty nước ngoài với tư cách làm đối tác liên doanh.- Phát hành chứng khoán ra công chúng giúp công ty có thể thu hút và duy trì đội ngũ nhân viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty bao giờ cũng dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với quyền mua cổ phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông, và được hưởng lãi trên vốn thay vì thu nhập thông thường. Điều này đã làm cho nhân viên của công ty làm việc có hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình.- Phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty có cơ hội tốt để xây dựng một hệ thống quản lý chuyên nghiệp cũng như xây dựng được một chiến lược phát triển rõ ràng. Công ty cũng dễ dàng hơn trong việc tìm người thay thế, nhờ đó mà tạo ra được tính liên tục trong quản lý. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các uỷ viên quản trị không trực tiếp tham gia điều hành công ty cũng giúp tăng cường kiểm tra và cân đối trong quản lý và điều hành công ty.- Phát hành chứng khoán ra công chúng làm tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo của công ty bởi vì các báo cáo của công ty phải được lập theo các tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý qui định. Chính điều này làm cho việc đánh giá và so sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn.
Câu 6:
Phân tích những điểm lợi và bất lợi khi công ty huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu
Những điểm thuận lợi:
-Khả năng tiếp cận nguồn vốn: Phát hành trái phiếu giúp doanh nghiệp chủ động linh hoạt hơn trong viêc tiếp cận được những nguồn vốn lớn
-Khả năng làm pha loãng sở hữu khi có thêm nguồn vốn: Trái phiếu là vốn nợ nên phát hành trái phiếu không làm pha loãng quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, trừ trường hợp trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu.
-Chi phí sử dụng vốn: Chi phí lãi từ trái phiếu phải trả cho trái chủ là chi phí trước thuế, được khấu trừ khi tính thuế. Đây là yếu tố cho thấy phát hành trái phiếu có chi phí vốn thấp hơn so với cổ phiếu.
Những điểm bất lợi:
-Tiền huy động được từ trái phiếu thường đến từ các nguồn đầu tư mang tính dài hạn nên không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận kênh huy động vốn này.
-Tính thanh khoản: Trái phiếu hiện nay ở Việt Nam chưa có thị trường giao dịch thứ cấp nên tính thanh khoản của trái phiếu hạn chế hơn so với cổ phiếu đã niêm yết trên thị trường chứng khoán.
-Tính linh hoạt trong việc trả lãi cho nhà đầu tư: Khi huy động vốn bằng trái phiếu, doanh nghiệp phải trả lãi theo lãi suất theo thời hạn xác định trước.
-Thời hạn sử dụng nguồn vốn: Đối với trái phiếu, trừ trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu doanh nghiệp phải trả lại số tiền gốc khi trái phiếu đáo hạn, điều này có thể sẽ ảnh hưởng rất mạnh đến dòng tiền và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
-Rủi ro phá sản doanh nghiệp: Nếu doanh nghiệp không trả được lãi hay gốc thì các trái chủ có thể tuyên bố phá sản doanh nghiệp, buộc doanh nghiệp chấm dứt hoạt động và bán tài sản để trả nợ cho các trái chủ.
Để đi đến quyết định phát hành trái phiếu, công ty cần cân nhắc những yếu tố nào (135)
Đối với các doanh nghiệp thì các thành phần kinh tế nếu hội đủ những điều kiện và được phép của UBCK nhà nước đều có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn sử dụng cho lúc đầu tư co doanh nghiệp mở rộng sx kinh doanh.
Có phương án kinh doanh cụ thể đòi hỏi vốn lớn
Đã hoạt động ít nhất là 2 năm, chứng minh được hoạt động của công ty đang được quản lý tốt có hiệu quả.
Được ngân hàng nơi công ty mở tài khoản chứng nhận số tiền còn lại ở ngân hàng và được cơ quan công chứng chứng nhận giá trị số tài sản bằng hiện vật của công ty đủ đảm bảo cho tổng số vốn dự định vay còn có thể được một hay nhiều ngân hàng bảo lãnh.
Được ngân hàng đảm nhiệm giúp đỡ dịch vụ ngân quỹ và kế toán liên quan đến việc phát hành trái phiếu
Giấy phép phát hành trái phiếu phải quy định rõ mức vốn được vay qua phát hành trái phiếu, mức lãi và thời hạn hoàn trả vốn
Trên mỗi trái phiếu phải ghi rõ số thứ tự giá trị của trái phiếu, tổng số vốn huy động bằng trái phiếu, mức lãi và thời hạn thanh toán
Câu 7:
Phân tích những điểm lợi và bất lợi khi công ty huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu thường
Những điểm thuận lợi:
-phát hành cổ phiếu thường là tăng thêm vốn tự có song không bị ràng buộc nghĩa vụ trả lợi tức cố định, do đó có lợi cho công ty trong trường hợp lợi nhuận chưa cao, không dẫn đến nguy cơ phá sản vì mất khả năng chi trả
Là loại chứng khoán vốn không có kỳ hạn, nên công ty không phải lo khi đến việc trả nợ khi đến kỳ đáo hạn
Tăng thêm uy tín tín dụng của công ty.
Trong trường hợp lạm phát, các loại cổ phiếu thường thường hấp dẫn hơn các loại cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu.
Những điểm bất lợi:
Chi phí phát hành cao hơn cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu sử dụng nhiều chi phí quản cáo tuyên truyền
Phát hành thêm các cổ phiếu thường là mở rộng các quyền đầu phiếu và kiểm soát đối với các cổ đông mới bổ sung. Đây là điều mà ban quản lý công ty cũng như những cổ đông đều không muốn chia sẻ
Làm gia tăng quyên chia sẻ thu nhập của công ty cho các cổ đông mới.
Câu 8:
Phân tích những điểm lợi và bất lợi khi công ty huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu ưu đãi
Những điểm thuận lợi:
-Nhà đầu tư có khả năng thu hồi phần tài sản của công ty lớn hơn cổ đông thường.
-Có 2 loại cổ phiếu ưu đãi khác nhau, đó là cổ phiếu ưu đãi tích luỹ, cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ, cổ phiếu ưu đãi tham gia và cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi. Thu nhập cổ tức ổn định và trong bất cứ trường hợp nào cũng được trả cổ tức.
-Cổ phiếu ưu đãi phù hợp cho những người có nguồn ngân sách lớn và dự định đầu tư lâu dài, vì lợi nhuận sẽ khá cao.
Những điểm bất lợi:
-Khi công ty làm ăn phát đạt thì số cổ tức họ nhận được vẫn không hề tăng lên.
-Theo luật thì sau 3 năm loại cổ phiếu ưu đãi này mới được giao dịch chuyển nhượng và sang tên, nhưng tùy theo chính sách của mỗi công ty mà có thể cho phép sang tên, chuyển nhượng trước thời hạn qui định.
- Cổ phiếu ưu đãi thường được bán với giá ưu đãi thấp hơn 10 đến 15 giá
Để đi đến quyết định phát hành cổ phiếu ưu đãi, công ty cần cân nhắc những yếu tố nào
Câu 9:
Đặc điểm của thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp
Đặc điểm của thị trường sơ cấp:
-Thị trường sơ cấp là thị trường không liên tục và là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho người phát hành.
Những người bán trên thị trường sơ cấp được xác định thường là kho bạc, Ngân hàng nhà nước, công ty phát hhành, tập đoàn bảo lãnh phát hành, thị trường tài chính quốc tế.
-Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định và thường được in ngay trên chứng khoán.
Đặc điểm của thị trường thứ cấp:
Trên thị trường thứ cấp các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành.
-Giao dịch trên thi trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá chứng khoán trên thị trường thứ cấp do cung và cầu quyết đinh.
-Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua và bán các chứng khoán nhiều lần trên thị trường thứ cấp
Phân tích mối liên hệ giữa hai thị trường này
-Hai thị trường này có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa chứng khoán lưu thông trên thị trường thứ cấp. Không có thị trường sơ cấp thì không thể có sự xuất hiện của thị trường thứ cấp.Thị trường thứ cấp đến lượt nó là động lực, là điều kiện cho sự phát triển của thị trường sơ cấp.
Thứ nhất, thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng cho các chứng khoán đã phát hành, làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và giảm rủi ro của các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn, thay đổi danh mục đầu tư, trên cơ sở đó, doanh nghiệp giảm bớt được chi phí huy động và sử dụng vốn, tăng hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Việc tăng tính lỏng của chứng khoán tạo điều kiện chuyển đổi thời hạn của vốn, từ ngắn hạn sang trung và dài hạn, đồng thời tạo điều kiện phân phối vốn một cách hiệu quả.
Thứ hai, thị trường thứ cấp được coi là thị trường định giá các công ty, xác định giá các chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ cấp.
Thứ ba, thông qua việc xác định giá, trị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi phí vốn tương ứng với mức đọ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở tham chiếu cho các nàh phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Thông qua “ bàn tay vô hình”, vốn sẽ được chuyển đến những công ty làm ăn hiệu quả nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội.
Thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp ở Việt Nam:
Thị trường tài chính tuy rất sôi nổi trong năm 2006-2007 nhưng sang năm 2008 đã trở nên ảm đạm. Trên thị trường tài chính còn tồn tại nhiều giao dịch và tài khoản ảo, xảy ra hiện tượng đầu cơ gây bất ổn thị trường. Số mã chứng khoán còn ít, chủ yếu là cổ phiếu, còn trái phiếu, tín phiếu kho bạc … thì rất ít hoặc không có.Thị trường trái phiếu Việt Nam gần như đóng băng.
Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE)
TTGDCK TP.HCM tạo ra một kênh huy động và luân chuyển vốn mới phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là sản phẩm của nền chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta. Trung tâm được Chính phủ giao một số chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán tập trung tại Việt Nam.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
Ngày 2/8, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã phát hành thành công trái phiếu đợt 1/2012.Cụ thể, BIDV đã huy động thành công 2.030 tỷ đồng trái phiếu, với kỳ hạn 2 năm và 3 năm.Trước đó, BIDV đã mời các nhà thầu trong và ngoài nước có đủ điều kiện và khả năng tham gia dự thầu để lựa chọn tổ chức tư vấn thu xếp phát hành trái phiếu quốc tế BIDV.
Câu 10:
Trình bày các nghiệp vụ của Công ty chứng khoán:
Nghiệp vụ môi giới: Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK hoặc thị trường OTC. Vì các quyết định đầu tư do chính khách hàng đưa ra nên họ sẽ phải tự chịu trách nhiệm về kết quả.
Nghiệp vụ tự doanh: Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán là quá trình tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính mình. Đây được coi là một khoản đầu tư của công ty bởi vì hoạt động này được thực hiện nhằm mục đích thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính công ty.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành: Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán là việc thực hiện các đợt chào bán và phân phối chứng khoán cho các doanh nghiệp cổ phần hoá ra công chúng và thực hiện bảo lãnh.
Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư: Nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư là việc thực hiện quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn nguồn vốn cho khách hàng.
Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán: Dựa trên hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng.
Lưu ký chứng khoán: là công việc đầu tiên để các chứng khoán có thể giao dịch trên thị trường tập trung – việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán
Nghiệp vụ tư vấn tài chính: bao gồm tư vấn tái cơ cấu tài chính doanh nghiệp thâu tóm sáp nhập doanh nghiệp tư vấn chào bán niêm yết chứng khoán, tư vấn cổ phần hóa, tư vấn tài chính khác
Các nghiệp vụ hỗ trợ: bao gồm nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ quản lý thu nhập chứng khoán
Liên hệ hoạt động của các công ty CK trên TTCK Việt Nam hiện nay.
Câu 11:
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến TTCK
Hệ thống chính sách với TTTC:Một chính sách tác động trên nhiều khía cạnh nền kinh tế không chỉ riêng đối với TTCK, tuy nhiên điều mà nó mang lại cho TTCK là không nhỏ chút nào.Một chính sách phù hợp với tình hình cũng như đều kiện kinh tế hiện thời sẽ tạo đà tâm lý vững vàng cho các nhà đầu tư cũng như giúp thị trường có mức tăng trưởng tốt và ngược lại
Hệ thống pháp luật tác động tới TTTC:Môi trường pháp lý cũng là điều kiện rất cơ bản để TTCK hoạt động an toàn, hiệu quả. Môi trường pháp lý cũng là yếu tố rất quan trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán: Các nước trên thế giới thường dùng chỉ số giá tiêu dùngCPI để đo lường lạm phát. Thông thường, CPI ôn hòa ổn định ở mức khoảng 5% là điều kiện lí tưởng để TTCK hoạt động bình thường, tránh các đợt biến động mạnh trong giả định các nhân tố khác liên quan đến TTCK không đổi.
Môi trường xã hội và TTCK:Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng rất sâu rộng đến hiệu quả hoạt động của TTCK. Ngày 5/3/1953 chỉ số TOPIX của Nhật bản giảm đến 8.75% và nguyên nhân là do Stalin ốm nặng. Khi Bill Clinton thú nhận trong việc bê bối với người tình Lewisky, thì chỉ số Dow Jones đã giảm 200 điểm. Điều đó có nghĩa là TTCK rất nhạy cảm đối với các sự kiện chính trị.
Môi trường tài chính tác động như thế nào tới TTTC:. Hệ thống tài chính được coi là cơ sở hạ tầng, hệ thống huyết mạch của nền kinh tế. Nếu hệ thống này trục trặc sẽ ảnh hưởng đến khả năng cung cấp các nguồn năng lượng cho toàn bộ cơ thể kinh tế
Tác động của lãi suất lên thị trường chứng khoán:với một lượng tiền cơ sở nhất định, bằng cách quy định lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, NHTU có thể buộc các NHTM phải dự trữ tiền mặt bổ sung khiến cho số nhân tiền tệ giảm xuống (vì bội số của tiền gửi so với tiền mặt giảm) để làm giảm lượng cung tiền. Điều này sẽ làm giảm tính thanh khoản của TTCK và ngược lại.
Tỷ suất vời TTCK:Khi tỷ giá giảm hay đồng nội tệ tăng giá, dòng tiền mà các nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển sang đồng nội tệ lúc này sẽ giảm ít hơn so với tỷ giá ban đầu,nhà dầu tư nước ngoài sẽ đầu tư sang một quốc gia khác với tỷ giá làm cho giá trị dòng tiền của họ cao hơn, thậm chí nếu tỷ suất sinh lời bên kênh đầu tư của quốc gia khác cao hơn họ sẽ rút vốn hết mà điều này sẽ gây ảnh hưởng rất mạnh mẽ.
Môi trường quốc tế :kinh tế của bất cứ nước nào cũng không thể tách rời nền kinh tế thế giới. Xu hướng phân công lao động quốc tế, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển. Bởi vậy, điều kiện phát triển nói chung của một quốc gia không thể thoát hẳn môi trường quốc tế.
Cơ sở hạ tầng của TTCK
Liên hệ thực tế TTCK Việt Nam.
Phân tích ảnh hưởng của tình hình trong nước tới TTCK.
Về phía Chính phủ.
Khởi đầu năm 2008 VN-Index đã đón nhiều thông tin bất lợi từ chính sách tiền tệ của nhà nước nhằm khống chế lạm phát đang ở mức cao hai con số.
Chính những nguyên nhân trên dẫn tới tình hình thị trường chứng khoán Việt Nam có một năm giảm điểm liên tục.
Để đối phó với khủng hoảng kinh tế chính phủ đưa ra gói kính cầu 1 tỷ USD và gói 5 giải pháp đối phó với khủng hoảng
Trong năm 2009 , Việt Nam đã phải hai lần chuyển đổi mục tiêu ưu tiên với các nhóm giải pháp phù hợp :
-Từ ưu tiên kiềm chế lạm phát sang ưu tiên ngăn chặn suy giảm kinh tế
-Từ chính sách thắt chặt tiền tệ chuyển sang chính sách nới lỏng tiền tệ
Nhằm thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ trong 6 tháng đầu năm 2010 nút thắ lãi suất đầu vào và đầu ra được tháo bỏ do Chính phủ quyết tâm hạ mặt bằng lãi suất để tạo điệu kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế .
Về phía doanh nghiệp
Tất cả những yếu tố tích cực từ tình hình kinh tế thế giới và trong nước đã nêu trên đã góp phần làm cho TTCK Việt Nam năm 2009 và 6 tháng đầu năm 2010 có một giai đoạn tăng trưởng rất ngoạn mục và ấn tượng
Phân tích ảnh hưởng của tình hình thị trường thế giới tới TTCK Việt Nam.
Trong năm 2008 nền kinh tế nước ta đón nhận nhiều tin xấu từ nền kinh tế thế giới điều này có ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng cụ thể là:
-Ngày 11/07/2008 Giá dầu thô trên thế giới đạt mức cao kỉ lục 147.24$/thùng nhiều chuyên gia dự báo rằng giá dầu có thể tăng 200$/thùng ,Chính phủ bỏ tiền ra để bù lỗ cho giá xăng dầu nhưng do giá tăng quá cao .Hậu quả là VN-Index và HNX-Index giảm điểm liên tục 6 phiên sau đó.Năm 2009 nền kinh tế thế giới nói chung và nên kinh tế Việt Nam nói riêng đã thoát khỏi suy thoái và xác lập đáy trong quý II năm 2009. năm 2009 là giai đoạn thị trường hồi phục TTCK.
Câu 12: vị trí và vai trò của thị trường tiền tệ trong thị trường tài chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cau_hoi_va_dap_an_on_thi_mon_thi_truong_tai_chinh_3102.doc