cạnh tranh và người tiêu dùng
Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập trong hệ thống tổ chức của Bộ Công Thương có nhiệm vụ thực thi Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh về Bảo vệ người tiêu dùng, Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp và Pháp lệnh tự vệ.
32 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3013 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cạnh tranh và người tiêu dùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các
doanh nghiệp khác và tẩy xóa các
dấu hiệu, thương hiệu trên bình gas,
rồi sau đó chiết nạp gas vào để bán ra
thị trường. Một số tổ chức và cá nhân
lập ra các cơ sở đăng ký cải tạo, sửa
chữa vỏ bình gas nhưng thực tế là để
chiếm dụng vỏ chai gas của doanh
nghiệp khác để cải tạo, thay tai sách,
đóng dập lại số seri, sơn hoặc dán
logo, nhãn mác để biến thành vỏ
bình của mình.
Hai là, lợi dụng việc gia công cho
chính doanh nghiệp bị vi phạm hoặc
thu gom bình gas đã sử dụng của các
tổ chức có uy tín và tiến hành chiết
nạp để bán ra thị trường kèm theo sự
gian lận về trọng lượng. Bộ Khoa học
công nghệ cũng đã cảnh báo về tình
trạng này khi tiến hành kiểm tra các
cơ sở kinh doanh gas với hơn 60% số
cơ sở vi phạm và mức độ gian lận
khoảng 3% ở mỗi bình gas khi giao
hàng.
Bên cạnh đó, các cửa hàng, đại lý
kinh doanh gas không tuân theo
đúng các quy định về kinh doanh
như: không có biển quảng cáo,
không có cửa thoát hiểm, bán chung
với các hàng hóa khác, không đủ các
dụng cụ cứu hỏa cần thiết. Phương
tiện vận chuyển gas chủ yếu là xe ô tô
tec phần lớn đã qua sử dụng, nhập
khẩu từ nước ngoài được tu sửa, nâng
cấp để vận chuyển gas, không bảo
đảm an toàn theo quy định. Một số cơ
sở kinh doanh dịch vụ vận chuyển
gas không mua bảo hiểm hàng hóa
và thân thể. Thêm vào đó, nhận thức
của người tiêu dùng đối với việc sử
dụng gas và quyền lợi của mình chưa
cao nên đã gặp phải những tổn hại
không đáng có.
Hệ quả tất yếu của các bất cập
trên là tình trạng xảy ra các vụ cháy nổ
tại các sở chiết nạp lậu gas, gây thiệt
hại về người và tải sản của nhân dân.
Các doanh nghiệp gas chân chính
không những bị giảm kết quả kinh
doanh mà còn bị mất uy tín do
thường xuyên bị đánh cắp vỏ bình và
bị giả nhãn mác. Quyền lợi chính đáng
của người tiêu dùng bị xâm hại do gas
không đủ trọng lượng, không đảm
bảo mức độ an toàn cần thiết và
không được bảo hiểm khi xảy ra rủi ro.
Môi trường đầu tư bị ảnh hưởng
nghiêm trọng còn Nhà nước cũng bị
thất thu ngân sách. Hơn thế nữa, các
vụ vi phạm thương hiệu, cung cấp gas
không đủ số lượng và chất lượng diễn
ra phổ biến trên thị trường đã làm mất
lòng tin ở người tiêu dùng và xã hội.
Trước thực trạng đó, cần phải
nhìn nhận lại rằng hành lang pháp lý
về kinh doanh gas của Nhà nước tuy
đã có nhưng chưa đồng bộ; các quy
định đưa ra chưa cụ thể và hoàn
chỉnh, từ đó tạo ra nhiều kẽ hở cho
các hành vi vi phạm xảy ra. Hiện nay
mới có Thông tư số 15/1999/TT-BTM
ngày 19/5/1999 của Bộ Thương Mại
(nay là Bộ Công Thương) quy định về
điều kiện kinh doanh gas đối với cửa
hàng bán lẻ; Quy chế quản lý kỹ thuật
an toàn về nạp khí dầu mỏ hóa lỏng
vào chai ban hành kèm theo Quyết
định số 36/2006/QĐ-BCN ngày 16
tháng 10 năm 2006 của Bộ Công
nghiệp (nay là Bộ công Thương)... Tuy
nhiên, các quy định về quản lý kỹ
thuật an toàn trong các khâu kinh
doanh còn bị xem nhẹ. Các biện pháp
xử lý vi phạm, nhất là sang chiết nạp
lậu chưa đủ mạnh nên các hành vi
phạm vẫn tiếp tục tái diễn ngày càng
trầm trọng với mức độ và quy mô
ngày càng lớn. Số lượng các vụ án
được khởi tố điều tra truy tố xét xử
còn rất thấp. Các lực lượng quản lý thị
trường cũng gặp phải rất nhiều
vướng mắc trong khi thực thi nhiệm
vụ. Ngoài ra, sự thiếu ý thức của các
cơ sở kinh doanh gas và nhận thức
còn hạn chế của người tiêu dùng
cũng là những nguyên nhân gây ra
các tiêu cực kể trên. Chính vì vậy,
trong thời gian tới, chúng ta cần phải
tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp
luật, tăng cường sự quản lý của Nhà
nuớc; đưa ra các chế tài xử lý nghiêm
minh các hành vi vi phạm đồng thời
nâng cao nhận thức trong việc bảo vệ
quyền lợi chính đáng của người tiêu
dùng Việt Nam để thị trường gas có
thể hoạt động ổn định và an toàn.
P.V
Thực trạng vi phạm pháp luật
CHIẾT NẠP GAS TẠI THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM
và giải pháp ngăn chặn
V C A D 19CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC HOẠT ĐỘNG SÁP NHẬP
VÀ MUA BÁN DOANH NGHIỆP TỚI
Các hoạt động sáp nhập và muabán doanh nghiệp, hay các hoạtđộng “tập trung kinh tế” theo
ngôn ngữ của Luật Cạnh tranh 2004
của Việt Nam, đang ngày càng trở nên
sôi động trong thời gian gần đây. Tuy
nhiên, rất nhiều người trong số chúng
ta cho rằng đây hoàn toàn là vấn đề
quan tâm của các doanh nghiệp và
các nhà đầu tư (như một khía cạnh
của chiến lược đầu tư tài chính và
quản lý của các công ty) hay các cơ
quan quản lý cạnh tranh (trong công
tác giám sát cấu trúc và mức độ tập
trung của các thị trường). Trên thực tế,
việc hai doanh nghiệp A và B quyết
định sáp nhập tạo thành doanh
nghiệp A-B hay C không chỉ đơn
thuần là một thông tin trên thị trường
tài chính, chứng khoán, hay một vụ
việc cạnh tranh, mà đó còn là một sự
kiện có thể có ảnh hưởng sâu rộng và
lâu dài đến lợi ích của mỗi người
trong chúng ta với tư cách người tiêu
dùng. Đặc biệt trong trường hợp các
doanh nghiệp chuẩn bị hay đang sáp
nhập đó lại là các doanh nghiệp lớn,
thống lĩnh thị trường sản xuất, cung
ứng loại hàng hóa dịch vụ mà họ kinh
doanh.
Tại sao các doanh nghiệp
sáp nhập?
Các doanh nghiệp, khi tiến hành
hay tham gia một vụ mua bán, hay
sáp nhập với doanh nghiệp khác,
thường là vì một trong các lý do sau
đây:
Nhằm tăng cường quy mô sản
xuất, kinh doanh;
Nhằm tăng cường hiệu quả sản
xuất, kinh doanh do tổng hợp được
thế mạnh của các bên sáp nhập; hoặc
do sức mạnh bổ trợ cho nhau của các
bên sáp nhập, hoặc do giảm được chi
phí;
Nhằm mở rộng thị trường hoặc
thâm nhập vào một thị trường mới
(thị trường đó có thể là thị trường
hàng hóa, dịch vụ hoặc thị trường địa
lý).
Mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp và lợi ích của người
tiêu dùng
Vậy đâu là chổ đứng cho lợi ích
của người tiêu dùng trong tất cả
những cân nhắc mang tính chiến lược
kinh doanh, đầu tư đó của các doanh
nghiệp? Theo lý thuyết kinh tế về
cạnh tranh, khi các doanh nghiệp có
thể tăng cường quy mô và hiệu quả
sản xuất, kinh doanh, và cạnh tranh
với nhau, người tiêu dùng sẽ được
hưởng lợi từ giá trị tăng cao của đồng
tiền họ bỏ ra cho các hàng hóa, dịch
vụ; từ chất lượng hàng hóa, dịch vụ đã
được cải thiện; và từ tính đa dạng hơn
hẳn của các loại hàng hóa dịch vụ đó.
Tuy nhiên, đây không nhất thiết là
hệ quả cuối cùng của các vụ mua bán
sáp nhập doanh nghiệp. Nếu như việc
mua bán, sáp nhập doanh nghiệp có
mục tiêu mở rộng thị trường, mà lại
do các doanh nghiệp đứng đầu,
thống lĩnh trên thị trường đó tiến
hành, thì rất có khả năng hệ quả cuối
cùng mà chúng ta có được chỉ là một
cấu trúc thị trường tập trung, hay độc
quyền. Và có nhiều khả năng là các
nhà độc quyền đó sẽ lạm dụng quyền
lực mới của họ để tăng giá, hạ thấp
tiêu chuẩn chất lượng và ung dung
hưởng lợi. Trong khi đó, người tiêu
dùng thì không còn khả năng chọn
lựa.
Lợi ích
của
người
tiêu
dùng
V C A D20 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
GÓC NGƯỜI TIÊU DÙNG
Đó là khi các doanh nghiệp mua
bán, sáp nhập thuần túy vì lợi ích phát
triển của cá nhân tổ chức họ, mà hy
sinh lợi ích của người tiêu dùng. Các
cơ quan quản lý cạnh tranh, khi xem
xét và phê chuẩn các vụ mua bán, sáp
nhập, do đó, luôn hướng tới một
điểm cân bằng giữa lợi ích kinh tế của
doanh nghiệp (do tập trung kinh tế
mang lại) và lợi ích của người tiêu
dùng (do cạnh tranh mang lại).
Kinh nghiệm từ nước Úc
Năm 2008 là năm quan trọng đối
với ngành ngân hàng Úc, trong đó
xảy ra rất nhiều các hoạt động tập
trung kinh tế giữa các ngân hàng lớn
của quốc gia này. Vào tháng 9/2008,
ngân hàng Westpac, lớn thứ 4 nước
Úc được chính phủ nước này cho
phép mua lại ngân hàng lớn thứ 5 tại
đây – ngân hàng St George. Tháng
12/2008, ngân hàng lớn nhất toàn
nước Úc (Commonwealth) tiếp tục
“nuốt gọn” ngân hàng lớn nhất của
bang Tây Úc (BankWest). Từ rất lâu
trước đó, nước Úc đã có một lịch sử
lâu đời về các vụ mua bán, sáp nhập
ngân hàng, đặc biệt trong lĩnh vực
bán lẻ. Cho đến nay, thị trường bán lẻ
của ngành ngân hàng nước Úc đã
dần dần do Bốn Đại Gia (Big Four)
thống trị. Chúng ta có thể kể đến một
vài vụ tập trung kinh tế quan trọng
khác xảy ra trước khi có các vụ mua
bán nêu trên. Ví dụ, ngân hàng West-
pac được thành lập năm 1982, do sự
sáp nhập của hai ngân hàng New
South Wales và ngân hàng Thương
mại Australia. Năm 1995, Westpac
mua lại ngân hàng Challenge, “nuốt
chửng” ngân hàng Melbourne vào
năm 1997, Tập đoàn Tài chính BT năm
2002 và ngân hàng St George năm
2008. Bản thân ngân hàng St George
đã vươn tới vị trí thứ 5 nước Úc nhờ
mua được ngân hàng Advance vào
năm 1997.
Tổ chức CHOICE, tổ chức bảo vệ
người tiêu dùng hàng đầu của Úc, với
hơn 200.000 thành viên, đã lên tiếng
bày tỏ các quan ngại của mình về các
vụ sáp nhập và mua lại này. Theo
CHOICE, các vụ mua bán và sáp nhập
nói trên được cho phép (trên cơ sở
một số điều kiện như “giảm thiểu các
quan ngại của cộng đồng về vụ sáp
nhập, cũng như các ảnh hưởng của
nó tới khách hàng và cộng đồng”) mà
chưa có sự xem xét kỹ lưỡng từ
phương diện cạnh tranh, cũng như
việc chúng sẽ làm phương hại tới lợi
ích của người tiêu dùng một cách
đáng kể. CHOICE cho rằng, trong bối
cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu
hiện nay, quyền lực thị trường tăng
vọt của các ngân hàng này sẽ vượt
quá mức có thể kiểm soát, đặc biệt
khi vắng đi sự cạnh tranh của các đối
thủ là các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng. Hậu quả là cạnh tranh trên các
thị trường như giao dịch liên ngân
hàng, tiết kiệm, đầu tư quỹ và cho vay
sẽ bị hạn chế đáng kể, dẫn đến:
Hạn chế mức độ gia nhập mới
vào các thị trường này;
Chất lượng dịch vụ đối với
khách hàng bị suy giảm;
Nhân công ngân hàng không
còn hài lòng với công việc của mình;
Các loại phí ngân hàng tăng vọt,
cũng như lãi suất;
Khả năng khách hàng chuyển
đổi giữa các ngân hàng khác nhau
giảm hẳn;
Tốc độ cải tiến sản phẩm nghèo
nàn;
Khả năng tiếp cận của đông đảo
quần chúng tới các dịch vụ ngân
hàng thiết yếu giảm đi;
Giảm tính đa dạng về nhà cung
cấp dịch vụ ngân hàng cũng như
chọn lựa trong các thị trường địa
phương (phạm vi địa lý hẹp).
CHOICE cũng đưa ra các dẫn
chứng cho các luận điểm của mình từ
thực tế thị trường; và đề nghị chính
phủ Úc cho phép Ủy ban Cạnh tranh
và Người Tiêu dùng Úc (ACCC) xem
xét thêm về các vụ sáp nhập và mua
lại trước khi cho phép các ngân hàng
tham gia tiến hành thực hiện.
Tình hình Việt Nam
Số lượng ngân hàng tại Việt Nam
hiện nay là tương đối nhiều, so với số
dân khoảng 85 triệu người và tổng
giá trị sản phẩm quốc dân (GDP) là 65
tỉ USD. Theo Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, tính đến cuối tháng 6/2008,
tại Việt Nam có 95 ngân hàng các loại
(thương mại nhà nước, Chính sách xã
hội, Phát triển, liên doanh, thương
mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, và 100% vốn nước ngoài)
và 1021 tổ chức tín dụng-tài chính phi
ngân hàng.
Do đó, cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu đang xảy ra hiện nay
cũng là một thời điểm thích hợp để
cho phép các hoạt động hợp nhất,
sáp nhập, mua lại giữa các ngân hàng
để tăng cường sức cạnh tranh, tái cơ
cấu, tránh đổ vỡ liên hoàn hệ thống
tài chính quốc gia. Tuy nhiên, khi xem
xét các hồ sơ sáp nhập, bên cạnh các
ưu tiên kinh tế, các cơ quan quản lý
cạnh tranh cũng sẽ có sự xem xét
thích đáng đối với các quan ngại của
người tiêu dùng, đặc biệt trong các
phân khúc thị trường nhỏ, chuyên
biệt và các thị trường địa phương,
cũng như tương quan cạnh tranh
trong dài hạn, để tránh trường hợp
nói trên của nước Úc. Các tổ chức bảo
vệ người tiêu dùng cũng như các cá
nhân quan tâm, cũng có thể chủ
động tiến hành các đánh giá và thu
thập ý kiến của người tiêu dùng để
gửi tới các cơ quan quản lý cạnh tranh
về vấn đề này.
P.V
Đánh giá kết quả sau chuyến khảo sát, học tập kinh nghiệm, các chuyên
gia của VCAD nhận thấy Cơ quan cạnh tranh Italia là một cơ quan cạnh tranh
lớn trong khối EU, với địa vị pháp lý là một cơ quan độc lập không nằm trong
hệ thống cơ quan chính phủ mà trực tiếp trực thuộc Quốc hội Italia và nhiều
năm kinh nghiệm thực thi Luật do đó VCAD có thể tiếp thu nhiều kinh
nghiệm bổ ích về các vấn đề khác nhau liên quan đến việc thực thi luật và
chính sách cạnh tranh. Ngoài ra, mô hình cơ quan cạnh tranh Italia cũng có
chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng giống chức năng
của VCAD. Do đó, ngoài việc trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực cạnh tranh,
VCAD và Ủy ban cạnh tranh Italia có thể hướng tới trao đổi kinh nghiệm
trong lĩnh vực xây dựng Luật bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam. Bên cạnh
các kiến thức chuyên môn, thông qua chuyến công tác, VCAD đã thiết lập
được quan hệ hợp tác chính thức với Ủy ban cạnh tranh Italia, từ đó mở ra
hướng hợp tác sâu rộng hơn trong thời gian tới.
AN VŨ – TRUNG VŨ
CÁC CHUYÊN GIA CỦA VCAD...
(Tiếp theo trang 7)
>> Câu 1: Hành vi nào
của doanh nghiệp là hành vi
tập trung kinh tế?
✓ Trả lời
Luật Cạnh tranh không đưa ra
định nghĩa về tập trung kinh tế mà
chỉ liệt kê các loại hình hành vi. Cụ
thể, Điều 16 Luật Cạnh tranh quy
định tập trung kinh tế là hành vi của
doanh nghiệp bao gồm:
1. Sáp nhập doanh nghiệp;
2. Hợp nhất doanh nghiệp;
3. Mua lại doanh nghiệp;
4. Liên doanh giữa các doanh
nghiệp;
5. Các hành vi tập trung khác
theo quy định của pháp luật.
>> Câu 2: Có những hình
thức tập trung kinh tế nào?
✓ Trả lời
Có 3 hình thức tập trung kinh tế:
- Tập trung kinh tế theo chiều
ngang: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua
lại hoặc liên doanh của các doanh
nghiệp trong một thị trường liên
quan (sản phẩm và không gian).
- Tập trung kinh tế theo chiều
dọc: là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại
hoặc liên doanh giữa các doanh
nghiệp có quan hệ người mua -
người bán với nhau.
- Tập trung kinh tế theo đường
chéo (conglomerate): là sự hợp nhất,
sáp nhập, mua lại, liên doanh của các
doanh nghiệp không cùng hoạt
động trên một thị trường sản phẩm
đồng thời cũng không có mối quan
hệ khách hàng với nhau. Mục tiêu
của việc hợp nhất này thường là
phân bổ rủi ro vào những thị trường
khác nhau hoặc từ những lý do chiến
lược thị trường của các doanh
nghiệp này.
>> Câu 3: Các hành vi tập
trung kinh tế khác nhau như
thế nào?
✓ Trả lời
Điều 17, đưa ra định nghĩa cho
từng hành vi như sau:
Sáp nhập doanh nghiệp là việc
một hoặc một số doanh nghiệp
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang
một doanh nghiệp khác, đồng thời
chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai
hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp của mình để hình
thành một doanh nghiệp mới, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của các
doanh nghiệp bị hợp nhất.
Mua lại doanh nghiệp là việc một
doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc
một phần tài sản của doanh nghiệp
khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn
bộ hoặc một ngành nghề của doanh
nghiệp bị mua lại.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp
là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp
cùng nhau góp một phần tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
của mình để hình thành một doanh
nghiệp mới.
>> Câu 4: Những hành vi
nào được coi là vi phạm quy
định của pháp luật về tập
trung kinh tế?
✓ Trả lời
Những hành vi được coi là vi
phạm quy định của pháp luật về tập
trung kinh tế bao gồm:
- Hành vi không thông báo về tập
trung kinh tế;
- Tập trung kinh tế trước khi có
quyết định cho hưởng miễn trừ của
cơ quan có thẩm quyền;
- Vi phạm quy định cấm tiến hành
tập trung kinh tế.
>> Câu 5: Doanh nghiệp
vi phạm quy định về tập
trung kinh tế sẽ bị xử lý như
thế thế nào?
Trên cơ sở xem xét các yếu tố như
mức độ gây hạn chế cạnh tranh do
hành vi vi phạm gây ra, mức độ thiệt
hại do hành vi vi phạm gây ra, khả
năng gây hạn chế cạnh tranh của các
đối tượng vi phạm, thời gian thực
hiện hành vi vi phạm, khoản lợi
nhuận thu được từ việc thực hiện
hành vi vi phạm và các tình tiết giảm
nhẹ, tình tiết tăng nặng (Điều 7, Nghị
định số 120/2005/NĐ-CP), các doanh
nghiệp vi phạm quy định về tập
trung kinh tế có thể phải chịu các
hình thức xử lý vi phạm sau:
Phạt tiền với mức phạt tối đa 10%
tổng doanh thu của các doanh
nghiệp vi phạm trong năm tài chính
trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
Phạt bổ sung: như thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh đã
cấp cho doanh nghiệp hợp nhất, thu
hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh đối với các liên doanh vi phạm
pháp luật cạnh tranh.
Các biện pháp khắc phục hậu
quả như chia, tách doanh nghiệp đã
sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại
phần doanh nghiệp đã mua...
Mức phạt, các hình thức xử phạt
bổ sung và biện pháp khắc phục hậu
quả đối với các hành vi vi phạm quy
định về tập trung kinh tế được quy
định cụ thể trong Luật cạnh tranh và
Nghị định số 120/2005/NĐ-CP.
>> Câu 6: Thủ tục thông
báo tập trung kinh tế như
nào?
✓ Trả lời
- Nộp Hồ sơ thông báo việc tập
trung kinh tế lên cơ quan QLCT (Điều
21)
- Trong vòng 7 ngày: Yêu cầu bổ
sung (nếu có) (Điều 22)
- Trong vòng 45 ngày (có thể gia
hạn tối đa 60 ngày): Phải trả lời bằng
văn bản cho doanh nghiệp hồ sơ
(Điều 23)
- Chỉ được thực hiện tập trung
kinh tế sau khi có văn bản trả lời của
cơ quan QLCT kết luận không thuộc
trường hợp bị cấm (Điều 24)
CCID
V C A D 21CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
HỎI ĐÁP VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ
V C A D22 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
Quy trình thông báo và xin hưởng miễn trừ tập trung
kinh tế theo quy định của Luật cạnh tranh
Chú thích:
Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan nhỏ hơn 30%
Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% đến 50%
Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan lớn hơn 50%
Trước khi tiến hành:
- Sáp nhập
- Hợp nhất
- Mua lại
- Liên doanh
Bị cấm: Không được
tiến hành tập trung
kinh tế
Nếu không thỏa mãn
(I) và (II)
Nếu một hoặc nhiều
bên tham gia tập trung
kinh tế đang trong nguy
cơ bị giải thể hoặc lâm
vào tình trạng phá sản
Nếu việc tập trung kinh
tế có tác dụng mở rộng
xuất khẩu hoặc góp
phần phát triển kinh tế
- xã hội, tiến bộ kỹ thuật,
công nghệ
VCAD
Bộ trưởng Bộ
Công Thương
Thủ tướng
Chính phủ
Trả
lời
Không
chấp
thuận
Chấp
thuận
(II)
Không phải thông báo
tập trung kinh tế
VCAD
Nếu không thỏa mãn (I)
Nộp hồ sơ thông báo
Nộp hồ
sơ xin
miễn trừ
30%
50%
Thị phần kết hợp trên
thị trường liên quan
Không bị cấm
Bị cấm: Không được tiến
hành tập trung kinh tế
Tiến hành tập trung
kinh tế
Nếu doanh nghiệp
sau khi tập trung kinh
tế:
- Có vốn đăng ký không
quá 10 tỷ đồng hoặc
- Số lao động trung
bình hàng năm không
quá 300 người
(I)
V C A D 23CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
Quý IV năm 2008, VCAD đã tiếnhành khảo sát mức độ nhậnthức của cộng đồng đối với
Luật Cạnh tranh. Cuộc khảo sát bắt
đầu từ 01/11/2008 và kết thúc ngày
31/12/2008.
Mục đích của khảo sát này là nhằm
đánh giá mức độ nhận biết của cộng
đồng bao gồm khối doanh nghiệp,
các hiệp hội và cơ quan quản lý nhà
nước đối với các quy định pháp luật về
cạnh tranh. Hoạt động khảo sát do
VCAD quản lý phối hợp với Công ty
TNHH tư vấn và phát triển kinh doanh
IDV thực hiện tại một số địa phương ở
cả 3 miền Bắc, Trung và Nam: Miền Bắc
bao gồm Lạng Sơn và Hà Nội; miền
Trung bao gồm Đà Nẵng và Đắk Lắk;
và miền Nam gồm thành phố Hồ Chí
Minh và Tây Ninh. Phương pháp tiến
hành là phỏng vấn sâu (50 cuộc) và
gửi phiếu điều tra (1000 phiếu điều
tra). Trong quá trình khảo sát, nhóm
nghiên cứu đã tiến hành thu thập
những số liệu và tài liệu liên quan đến
việc nhận thức của cộng đồng về Luật
Cạnh tranh, việc thực hiện Luật Cạnh
tranh tại địa phương. Đồng thời với
việc thu thập tài liệu thứ cấp, nhóm
nghiên cứu đã tiến hành khảo sát
bằng bảng hỏi (questionnaire-based
survey) và phỏng vấn sâu (indepth in-
terview) trên nhiều đối tượng thuộc
nhiều nhóm. Sau hơn một tháng tiến
hành khảo sát bằng phiếu hỏi qua thư
và phỏng vấn trực tiếp, IDV Consult-
ants đã thu được 1.004 bảng hỏi từ các
đối tượng khảo sát. Kết quả khảo sát
đã cung cấp một bức tranh tổng quát
về nhận thức của cộng đồng đối với
Luật Cạnh tranh. Mức độ đánh giá
được thể hiện các cấp độ hiểu biết về
pháp luật cạnh tranh, hiểu về các
nhóm hành vi do Luật Cạnh tranh điều
chỉnh, nắm được trình tự thủ tục giải
quyết các vụ việc vi phạm, hiểu biết về
vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh,
thấy được sự cần thiết phải phối hợp
với cơ quan quản lý cạnh tranh trong
quá trình thực thi Luật Cạnh tranh, tiến
tới đánh giá ý nghĩa và tác động của
Luật trong nền kinh tế hiện nay.
Từ kết quả khảo sát cho thấy hiểu
biết của cộng đồng đối với Luật Cạnh
tranh mới dừng lại ở mức độ “biết Luật
Cạnh tranh mới ra đời”. Các đối tượng
được hỏi cũng thể hiện sự hiểu biết sơ
bộ các khái niệm về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, hành vi hạn
chế cạnh tranh. Tuy nhiên số doanh
nghiệp có hiểu chi tiết về Luật Cạnh
tranh như biết về ngưỡng thị phần bị
cấm, mức phạt và thủ tục giải quyết vụ
việc cạnh tranh còn khá khiêm tốn. Khi
nhận thức về Luật còn chưa cao thì
nhận thức về cơ quan quản lý cạnh
tranh cũng không hơn là bao, điều này
đã được kết quả khảo sát bộc lộ. Một
trong những lý do chính là do bản
thân kết quả hoạt động của cơ quan
quản lý cạnh tranh còn chưa tạo được
những con số ấn trượng, như số lượng
vụ việc kết thúc điều tra xét xử chỉ có
cạnh tranh không lành mạnh, chưa
kết thúc điều tra xét xử các vụ việc hạn
chế cạnh tranh.
Những ý kiến về các bất cập và
khó khăn trong quá trình thực thi Luật
Cạnh tranh là cơ sở của những đề xuất
và khuyến nghị để hoàn thiện về
khung pháp lý và thể chế của cơ quan
cạnh tranh. Các đề xuất chủ yếu tập
trung vào bốn vấn đề chính: công tác
tuyên truyền phổ biến pháp luật, quy
định rõ hơn một số điều của Luật để
xác định hành vi, xác định mức phạt và
vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh.
Các kết quả cụ thể thu được từ khảo
sát cũng đưa ra gợi ý về một số hoạt
động tiếp theo của VCAD nhằm nâng
cao nhận thức, nâng cao hiệu quả
thực thi Luật. Độc giả quan tâm tới nội
dung chi tiết của Báo cáo kết quả khảo
sát có thể liên hệ với CCID hoặc truy
cập vào website của VCAD để có thêm
thông tin chi tiết.
CCID
VCAD chuẩn bị công bố
Báo cáo Kết quả khảo sát
MỨC ĐỘ NHẬN THỨC CỦA
CỘNG ĐỒNG ĐỐI VỚI
LUẬT CẠNH TRANH
HƯỚNG TỚI MẠNG LƯỚI CẠNH TRANH QUỐC GIA
V C A D24 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. Giới thiệu
Định lượng cấu trúc thị trường là
một trong những vấn đề quan trọng
trong phân tích tác động cạnh tranh
của một vụ việc tập trung kinh tế. Cấu
trúc thị trường ảnh hưởng đến hành vi
và kết quả hoạt động của doanh
nghiệp. Mức độ tập trung kinh tế được
coi là thước đo chính để xác định cấu
trúc thị trường. Cấu trúc của một ngành
được xác định bằng: (1) số lượng doanh
nghiệp trong ngành tại một thời điểm
nhất định, và mức độ nhận thức về sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp đó; và (2) sự phân bố quy mô
của các doanh nghiệp. Chẳng hạn, một
ngành có 10 doanh nghiệp quy mô
tương đương nhau sẽ được nhìn nhận
rất khác với một ngành có 1 doanh
nghiệp thống lĩnh và 9 doanh nghiệp
nhỏ. Do đó, bất kỳ một cách thức xác
định mức độ tập trung có giá trị nào
cũng phải ghi nhận được tầm quan
trọng của số lượng và quy mô tương
đối của các doanh nghiệp trong một
ngành. Mức độ tập trung càng chính
xác thì bức tranh tổng thể về tình hình
cạnh tranh trong ngành sẽ càng rõ nét
hơn. Một ngành có tập trung kinh tế
hay không được quyết định bởi nhiều
yếu tố, trong đó đáng kể nhất là khả
năng gia nhập và rút lui khỏi thị trường,
chính sách của chính phủ và chiến lược
mà các doanh nghiệp đang hoạt động
theo đuổi.
Bài viết này bàn về các cách thức
xác định mức độ tập trung kinh tế nhìn
từ góc độ kinh tế học với các nội dung
chính sau:
Phần 2 nói về phương pháp xác
định thị trường và ngành.
Phần 3 trình bày các cách thức ghi
nhận mức độ tập trung kinh tế, bao
gồm Tỷ lệ tập trung (CR), Chỉ số
Herfindahl-Hirschman, Hệ số Gini và
các cách đo khác.
TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ
XÁC ĐỊNH CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG
BÙI NGUYỄN ANH TUẤN
V C A D 25CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
Phần 4 nói về các vấn đề khi tính
toán chỉ số tập trung kinh tế.
Phần 5 bàn về các yếu tố làm
thay đổi mức độ tập trung kinh tế
trong các ngành cũng như vai trò của
các yếu tố đó trong sự biến đổi của
ngành.
2. Xác định ngành/thị
trường
Trước hết cần phải định nghĩa thế
nào là ngành/thị trường. Theo lý
thuyết kinh tế học vi mô, một ngành
được coi là tập hợp các doanh nghiệp
cùng sản xuất và kinh doanh một sản
phẩm tương đồng, sử dụng cùng
công nghệ và cạnh tranh về các yếu
tố sản xuất trên cùng thị trường. Các
cơ quan điều tiết cạnh tranh thường
sử dụng khái niệm thị trường liên
quan, bao gồm thị trường sản phẩm
và thị trường địa lý để xác định xem
các doanh nghiệp có cạnh tranh với
nhau hay không. Đây là cách tiếp cận
từ phía người mua, theo đó, có sự
thay thế gần nhau từ phía cầu trên thị
trường. Chẳng hạn, thị trường bia có
thể gồm nhiều thị trường khác nhau
như bia cao cấp, bia trung cấp hoặc
bia bình dân,… hoặc thị trường
mang tính địa phương, vùng hay
toàn quốc. Rất khó để có thể có một
định nghĩa chính xác tuyệt đối về một
thị trường.
Một ngành thường được nhìn
nhận như một nhóm các sản phẩm
có sự thay thế gần nhau từ góc độ của
nhà cung cấp. Ví dụ, tất cả các thiết bị
viễn thông có thể được nhóm thành
một ngành vì chúng sử dụng cùng
nguyên liệu thô, công nghệ, kỹ năng
lao động,…Trong hầu hết các trường
hợp, ngành là nhóm rộng hơn một thị
trường, mặc dù đôi khi chúng có thể
được hiểu theo nghĩa tương đương
nhau.
Từ góc độ lý thuyết, một ngành có
thể được định nghĩa theo một trong
các cách sau đây:
a) Loại sản phẩm: Sử dụng độ co
giãn chéo về cầu (Cross Elasticity of
Demand) để tính sự thay đổi về số
lượng cầu của một hàng hóa khi giá
của hàng hóa khác thay đổi. Công
thức tính là:
%ΔQA
CED = ---------------
%ΔPB
Nếu độ co giãn chéo về cầu mang
dấu dương và lớn hàm ý rằng hai
hàng hóa đang xét có thể thay thế
gần nhau và có thể được nhóm vào
một ngành. Ngược lại, giá trị đó mang
dấu âm và có giá trị tuyệt đối lớn hàm
ý rằng hai hàng hóa là bổ sung gần
nhau, và cũng có thể coi là cùng nằm
trong một ngành.
b) Loại quy trình sản xuất: Quy
trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ có
thể sử dụng để phân loại doanh
nghiệp vào một ngành nhất định. Tuy
nhiên, điều này có thể dẫn đến việc
một ngành được xác định quá rộng.
c) Loại nguyên vật liệu đầu vào:
Loại nguyên vật liệu sử dụng cũng có
thể là thước đo để nhóm các doanh
nghiệp vào một ngành. Tuy nhiên,
phương thức này cũng có những
điểm không hợp lý.
Trên thực tế, các cách tiếp cận
trên đều đã đơn giản hóa vấn đề quá
mức. Nhiều doanh nghiệp hoạt động
trên nhiều ngành, đa dạng hóa với
nhiều sản phẩm, kinh doanh trên
nhiều thị trường khác nhau. Có một
số phương pháp được đề xuất để xử
lý vấn đề này. Chẳng hạn, John Kay(2)
(1990) đề xuất khái niệm thị trường
chiến lược, được định nghĩa là khu
vực địa lý hoặc sản phẩm nhỏ nhất
mà một doanh nghiệp có thể cạnh
tranh thành công trong đó. Với giả
định rằng thị trường tập trung vào
các điều kiện từ phía cầu còn ngành
tập trung vào các điều kiện từ phía
cung thì thị trường chiến lược là tổng
hợp của cả hai yếu tố đó. Elzinga và
Hogarty(3) (1973, 1978) hướng đến
kiểm nghiệm giá trị biên để xác định
thị trường địa lý có phù hợp hay
không. Kiểm nghiệm được tiến hành
bằng cách đánh giá xem khi nào thì
người tiêu dùng trong một vùng nhất
định mua sản phẩm từ nhà sản xuất
trong vùng (giao dịch nội vùng) hoặc
từ nhà sản xuất bên ngoài vùng đó
(giao dịch ngoại vùng). Nếu tỷ lệ giao
dịch nội vùng trên tổng số giao dịch
cao (trên 75%) thì thị trường được coi
là xác định phù hợp. Còn nếu tỷ lệ đó
thấp thì thị trường là xác định sai và
cần phải được xác định lại (4).
Mặc dù còn tồn tại những vấn đề
trong xác định ngành, các nước vẫn
cần phải áp dụng một hệ thống phân
loại ngành nào đó. Tại Việt Nam, Bảng
phân ngành kinh tế mới nhất được
ban hành năm 2007 (VSIC07) được
phát triển trên nền tảng và tương
thích với bảng phân ngành chuẩn
quốc tế phiên bản 4.0 (ISIC) ở cấp độ
3 chữ số. Bảng phân ngành này đã
được áp dụng trong cuộc Tổng điều
tra kinh tế lần thứ 3.
3. Các phương pháp đo
mức độ tập trung kinh tế
3.1. Tỷ lệ tập trung kinh tế
Tỷ lệ tập trung kinh tế (Concentra-
tion Ratio) đo thị phần của N doanh
nghiệp hàng đầu trong một ngành,
trong đó N thường được lấy giá trị 3,4
hoặc 8. Tỷ lệ này được biểu diễn bằng
công thức:
N
CRN = Σ xii=1
trong đó xi là thị phần của doanh
nghiệp thứ i. Thị phần có thể được
tính bằng doanh thu hoặc tài sản,
hoặc số lượng lao động (5).
Hình dưới đây là một số ngành có
tỷ lệ tập trung CR3 lớn tại Việt Nam
theo dữ liệu thống kê kinh tế năm
2006 (6).
Hình 1: Một số ngành có tỷ lệ tập trung kinh tế cao
theo CR3 tại Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2007)
3.2. Chỉ số
Herfindahl - Hirschman (HHI)
Chỉ số Hirschman - Herfindahl (HHI)
được định nghĩa là tổng bình phương
thị phần của tất cả các doanh nghiệp
trong ngành và có giá trị từ 0 đến
10.000. HHI của ngành có giá trị gần 0
thì thị trường được coi là có rất nhiều
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và với giá
trị bằng 10.000 có nghĩa là ngành chỉ có
một nhà sản xuất duy nhất. Khi chỉ số
này giảm thì nhìn chung có nghĩa là
khả năng quyết định giá của doanh
nghiệp giảm và tăng cạnh tranh; và
ngược lại khi chỉ số này tăng.
Công thức:
N
HHI = Σ xi
2
i=1
trong đó xi là thị phần của doanh
nghiệp thứ i.
Nhiều nước, chẳng hạn như Hoa Kỳ
sử dụng chỉ số HHI để xác định xem liệu
một vụ tập trung kinh tế có được cho
phép hay không. Tùy từng trường hợp,
nhưng nói chung, nếu sau một vụ sáp
nhập, chỉ số HHI tăng quá 100 thì rất có
thể vụ tập trung kinh tế đó sẽ trở thành
đối tượng để rà soát kỹ. Bộ Tư pháp Hoa
Kỳ đánh giá cấu trúc thị trường bằng
chỉ số HHI như sau:
HHI < 1.000: Thị trường không
mang tính tập trung
1.000 ≤ HHI ≤ 1.800: Thị trường tập
trung ở mức độ vừa phải
HHI > 1.800: Thị trường tập trung ở
mức độ cao
Điểm mạnh chính của chỉ số HHI so
với cách đo khác (như tỷ lệ tập trung
kinh tế) là đã tính tỷ trọng lớn hơn đối
với các doanh nghiệp lớn. Giả sử có 2
trường hợp trong đó 6 doanh nghiệp
lớn nhất chiếm thị phần 90% về sản
lượng:
- Trường hợp 1: Cả 6 doanh nghiệp
đều có thị phần 15%.
- Trường hợp 2: Một doanh nghiệp
chiếm 80%, và 5 doanh nghiệp còn lại
chỉ chiếm 2% thị phần.
Giả định rằng 10% sản lượng còn lại
được chia đều cho 10 doanh nghiệp
quy mô bằng nhau. Tỷ lệ tập trung của
6 doanh nghiệp đều là 90% đối với cả 2
trường hợp, nhưng ở trường hợp 1
cạnh tranh có thể quyết liệt hơn, còn
trường hợp 2 có thể coi là gần như độc
quyền. Chỉ số HHI cho thấy rõ điều này:
Trường hợp 1: HHI = 6*152 + 10*12 =
1.360
Trường hợp 2: HHI = 82 + 5*22 +
10*12=6.430
Đối với vụ việc tập trung kinh tế,
đây là chỉ số ban đầu để xét đến sự thay
đổi về cấu trúc thị trường.
3.3. Các cách đo khác
Ngoài các chỉ số thường dùng trên,
một số các chỉ số khác cũng được áp
dụng để đo lường mức độ tập trung
kinh tế, trong đó có thể kể đến: Chỉ số
Hannah-Kay, Đường cong Lorentz và
Hệ số Gini, Hệ số entropy, Chỉ số Rosen-
bluth, Chỉ số tập trung hỗn hợp (Com-
prehensive concentration index), Chỉ số
Linda.
4. Những vấn đề khi áp
dụng các chỉ số tập trung kinh
tế
Định nghĩa chính xác về ngành
thị trường:
Khi tính toán chỉ số tập trung kinh
tế thường phải dựa vào số liệu kinh tế là
những số liệu rất nhạy cảm theo nghĩa:
một thị trường được xác định phù hợp
cần phải bao gồm tất cả các loại sản
phẩm thay thế. Chẳng hạn, định nghĩa
thị trường “đường thốt nốt” có thể là
quá hẹp để tính các chỉ số tập trung vì
đường làm từ mía rất có thể sẽ thay thế
dễ dàng đường thốt nốt. Vấn đề là rất
khó phân định rạch ròi để thu hẹp thị
trường đến đâu là đủ, ngay kể cả khi sử
dụng các công cụ như SSNIP. Nếu giới
hạn quá chặt thì hầu như mọi doanh
nghiệp có thể bị (hay được) coi là nắm
giữ vị trí độc quyền.
Quy mô thị trường:
Điều này tác động đến mức độ
quan trọng của một doanh nghiệp và
thị trường. Thị trường liên quan của
một doanh nghiệp có thể chỉ trong
phạm vi một địa phương nhỏ. Mức độ
tập trung trên toàn quốc có xu hướng
V C A D26 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
V C A D 27CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
nhỏ hơn trên phạm vi địa
phương. Chẳng hạn, thị trường xe
bus có thể gồm các nhà độc
quyền ở từng tỉnh, thành phố,
nhưng trên quy mô toàn quốc thì
mức độ tập trung có thể là rất
thấp.
Vấn đề loại trừ xuất khẩu và
nhập khẩu:
Nếu loại trừ hàng hóa nhập
khẩu, mức độ tập trung sẽ đánh
giá cao quá mức tầm quan trọng
của các doanh nghiệp hàng đầu.
Ví dụ nếu CR4 bằng 60% và hàng
hóa nhập khẩu chiếm 40% thị
phần thì CR “thực sự” sẽ là 36%
(0.6*60%). Điều ngược lại xảy ra
khi loại trừ hàng hóa xuất khẩu.
Vấn đề đa dạng hóa sản
phẩm:
Các số liệu thống kê có thể
không tính đến việc các doanh
nghiệp hoạt động trên nhiều thị
trường và sản xuất nhiều sản
phẩm. Một doanh nghiệp được
coi là nằm trong một ngành hoặc
một thị trường theo sản phẩm
chính. Chẳng hạn, nếu một doanh
nghiệp sản xuất 60% sản phẩm
trong ngành A và 40% sản phẩm
trong ngành B, thì toàn bộ doanh
nghiệp đó (quy mô, công suất,
sản lượng, lao động,…) đều được
tính vào ngành A. Do đó CR có thể
vượt quá hoặc dưới mức độ tập
trung thực sự trong ngành.
Mặc dù tất cả các chỉ số trên
đều có hạn chế nhưng chúng
thường tương quan cao với nhau
(7). Tuy nhiên, không một chỉ số
riêng rẽ nào có thể hàm chứa
được 3 yếu tố quyết định của
cạnh tranh: quy mô ngành, mức
độ bất bình đẳng về thị phần và
liên kết tiềm ẩn.
Xét riêng biệt từng chỉ số tập
trung kinh tế không thể cho biết
một cách thích đáng mức độ cạnh
tranh có trong một thị trường
nhất định. Trong một ngành có
thể chỉ có một số ít doanh nghiệp
nhưng có thể họ không hề phụ
thuộc lẫn nhau và có những định
hướng chiến lược khác hẳn nhau.
Cũng cần phải chú ý đến đặc tính
và tình hình ngành/ thị trường và
mục tiêu của giới quản lý doanh
nghiệp trong ngành. Các chỉ số
tập trung kinh tế không đo được
các yếu tố trên.
(Còn nữa)
(1) Chuyên viên VCAD đang theo học
Thạc sĩ kinh tế tại Đại học Tổng hợp Leeds
(Vương quốc Anh). Email:
tuanbna@moit.gov.vn. Bài viết thể hiện
quan điểm riêng của người viết và không
phản ánh quan điểm của VCAD Việt Nam.
(2) Kay, J.A. (1990) Identifying the strate-
gic market, Business Strategy Review, 1/2, 2-
24
(3) Elzinga, K.G và Hogarty, T.F. (1973),
The problem of geographic delineation in
anti-merger suits, Antitrust Bulletin, 18, 45-
81 Elzinga, K.G và Hogarty, T.F. (1978), The
problem of geographic delineation revis-
ited: the case of coal, Antitrust Bulletin, 23,
1-18
(4) Tham khảo “Kiểm soát tập trung kinh
tế: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt
Nam”, VCAD (2007) – NXB Chính trị quốc gia
(5) Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định
thị phần được tính bằng doanh thu trên thị
trường liên quan.
(6) Lưu ý rằng các ngành được tính toán
theo cấp độ 2, nghĩa là ngành được xác
định tương đối rộng. Nếu phân chia nhỏ
hơn nữa (đến cấp độ 3 hoặc 4) và tính đến
từng thị trường thì sẽ có một số ngành nhỏ
có CR3 lớn hơn nhiều.
(7) Về hệ số tương quan của các chỉ số
CR3, CR5 và HHI trong các ngành tại Việt
Nam, xem thêm Báo cáo “Tập trung kinh tế
tại Việt Nam: Hiện trạng và dự báo” - 2009.
VCAD THAM DỰ...
(Tiếp theo trang 8)
CPLG được xem như một
diễn đàn cho các chuyên gia và
cơ quan cạnh tranh thành viên
APEC:
- Trao đổi thông tin về luật và chính
sách cạnh tranh;
- Phát triển và nâng cao hiểu biết về
luật và chính sách cạnh tranh của các nền
kinh tế APEC;
- Chia sẻ kinh nghiệm và chuyên môn
về các hoạt động liên quan đến việc thực
thi luật và chính sách cạnh tranh;
- Kiểm tra khi có thể, tác động của luật
và chính sách cạnh tranh đối với thương
mại và các dòng đầu tư;
- Xác định các lĩnh vực nâng cao năng
lực và hợp tác kỹ thuật trong việc thực thi
luật và chính sách cạnh tranh;
- Rà soát định kỳ các Kế hoạch hành
động tập thể của Nhóm;
- Tiến hành hoạt động tuyên truyền
và PR đến các bên có lợi ích của APEC về
các thành tựu đạt được của Nhóm khi
thuận tiện.
Trong việc hợp tác với các diễn đàn có
liên quan khác của APEC và khu vực kinh
doanh, CPLG sẽ hoạt động như một diễn
đàn:
- Hợp tác và thảo luận khi thích hợp
việc thực thi các sáng kiến hợp tác nhưng
không hạn chế đối với việc cải cách cơ
cấu với các diễn đàn khác có liên quan
trong khuôn khổ APEC, ví dụ như Uỷ ban
kinh tế và các tổ chức quốc tế có liên
quan;
- Báo cáo tiến độ và kết quả của từng
sáng kiến hợp tác cho Uỷ ban kinh tế, và
khi cần thiết có thể đưa ra các khuyến
nghị kèm theo;
- Mời các diễn đàn có liên quan khác
trong khuôn khổ APEC như Hội đồng tư
vấn kinh doanh APEC (ABAC) và các
chuyên gia có liên quan tham dự với tư
cách quan sát viên các hoạt động của
Nhóm.
Theo sự định hướng của Kế
hoạch hành động tổng thể,
CPLG sẽ triển khai các hoạt
động sau:
- Báo cáo cập nhật của các thành viên
về sự phát triển và thực thi chính sách
cạnh tranh;
- Tổ chức khóa đào tạo về chính sách
cạnh tranh;
- Xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu
luật và chính sách cạnh tranh.
Ban Giám sát và Quản lý cạnh tranh là bộ phận trực thuộc VCAD giúp Cục trưởng thực hiện chức năng giám sát thựcthi pháp luật cạnh tranh.
Với đội ngũ cán bộ đã có nhiều kinh nghiệm lại được đào tạo cơ bản trong các lĩnh vực kinh tế, luật, Ban Giám sát và
Quản lý cạnh tranh đã góp phần tạo dựng một hình ảnh chuyên nghiệp, năng động, thân thiện và đoàn kết cho VCAD.
Các thành viên của Ban gồm:
Cùng với các đơn vị khác thuộc VCAD thực hiện chức năng tuyên truyền, phổ biến và thực thi
Luật Cạnh tranh, Ban Giám sát và Quản lý cạnh tranh có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, chương trình, dự án
về bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh;
- Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế, thẩm định hồ sơ đề nghị hưởng miễn
trừ cũng như rà soát các quyết định miễn trừ đã được ban hành;
- Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin về các doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường, các doanh nghiệp độc quyền, về quy tắc cạnh tranh
trong hiệp hội và về các trường hợp miễn trừ.
Trong mục tiêu chung của VCAD nhằm tạo lập và duy trì môi trường
cạnh tranh lành mạnh với cơ hội kinh doanh bình đẳng cho tất cả doanh
nghiệp trên thị trường, Ban Giám sát và Quản lý cạnh tranh đã và đang
từng bước hoàn thiện đội ngũ nhân sự, nâng cao năng lực của mỗi cá nhân
để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Trong năm 2008 vừa qua, Ban Giám
sát và Quản lý cạnh tranh đã hoàn thành các báo cáo nghiên cứu cấu trúc thị
trường, giám sát hoạt động cạnh tranh trong một số ngành, lĩnh vực như viễn thông,
dược phẩm. Bên cạnh đó, Ban cũng tiến hành cuộc Khảo sát mức độ nhận thức của cộng đồng
đối với Luật Cạnh tranh. Năm 2008 là năm đầu tiên Ban cho xuất bản Báo cáo tập trung kinh tế nhằm
cung cấp cho cộng đồng và các bên liên quan một bức tranh tổng thể và toàn diện về thực trạng
tập trung kinh tế tại Việt Nam và công tác quản lý nhà nước đối với loại hình kinh doanh này.
Trương Thùy Linh
Cử nhân Bách Khoa, trở
thành thành viên của VCAD
từ năm 2007, tham gia
nghiên cứu trong nhiều báo
cáo đánh giá cạnh tranh,
đánh giá cấu trúc thị trường
về các ngành và lĩnh vực ở
Việt Nam, hiện đang giữ chức
vụ Phó Ban.
Phạm Thị Hồng Hạnh
Thạc sỹ kinh tế tại trường Đại học
Kyung Hee (Hàn Quốc), gia nhập
VCAD từ năm 2006 và đang là một
trong số những điều tra viên của
VCAD, hiện đang tham gia xây dựng
Sổ tay cạnh tranh cho ASEAN.
Trần Phương Nhung
Tốt nghiệp trường Đại học Luật
Hà Nội, cũng là một điều tra viên
của VCAD, tham gia thực hiện
nhiều nghiên cứu về hoạt động
cạnh tranh trong các lĩnh vực của
nền kinh tế.
Phan Vân Hằng
Thạc sỹ kinh tế
tại trường Đại
học Nottingham
(Malaysia) là
thành viên mới
của VCAD từ đầu
năm 2009.
Nguyễn
Mạnh Linh
Hiện đang theo
học thạc sỹ kinh
tế tại trường Đại
học Kinh tế quốc
dân, là thành
viên mới của
VCAD từ năm
2008.
Bùi Nguyễn Anh Tuấn
Cử nhân kinh tế trường Đại học
Ngoại thương, gia nhập VCAD từ
năm 2007, hiện đang theo học
chương trình thạc sỹ kinh tế tại
trường Đại học Need (Vương
quốc Anh), đã có nhiều nghiên
cứu chuyên sâu về hoạt động tập
trung kinh tế tại Việt Nam cả lý
luận và thực tiễn.
Tập thể thành viên Ban giám sát
và quản lý cạnh tranh - Ảnh: A.V.
BAN GIÁM SÁT VÀ QUẢN LÝ CẠNH TRANH
V C A D28 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
CHÚNG TÔI LÀ AI ?
Trần Phương Lan
Thạc sỹ kinh tế chương trình Cao học Việt -
Bỉ trường Đại học Kinh tế quốc dân, gia
nhập VCAD từ tháng 11 năm 2005 và hiện
đang là Trưởng Ban. Là một cán bộ dày dạn
kinh nghiệm, công tác tại Bộ Thương mại
(cũ) nay là Bộ Công Thương từ năm 1996,
đã tham gia nhiều hoạt động hợp tác về
cạnh tranh trong các khuôn khổ hợp tác
quốc tế khu vực và quốc tế như ASEAN,
APEC, UNCTAD, ADB…
V C A D 29CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
HOẠT ĐỘNG KỲ TỚI
HOẠT ĐỘNG: Hội thảo công bố kết quả và lấy ý kiến
đóng góp đối với Báo cáo “Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh
hành vi phản cạnh tranh trong hệ thống phân phối dược
phẩm tại thị trường Việt Nam”
THỜI GIAN:
- Ngày 18/03/2009 tại Hà Nội
- Ngày 20/3/2009 Tại Thành phố Hồ Chí Minh
NỘI DUNG: Lấy ý kiến đóng góp từ các bên liên quan
và cộng đồng doanh nghiệp đối với Báo cáo “Pháp luật
cạnh tranh điều chỉnh hành vi phản cạnh tranh trong hệ
thống phân phối dược phẩm tại thị trường Việt Nam”.
THÀNH PHẦN THAM DỰ:
Đại diện VCAD, Cục Quản lý Dược, World Bank, Sở
Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, Y tế cùng các công ty
kinh doanh và phân phối dược phẩm.
ĐỊA ĐIỂM:- Ngày 18/03/2009 tại Khách sạn Horison,
40 Cát Linh Hà Nội
- Ngày 20/3/2009 tại Khách sạn Continental số 132-
134 Đồng Khởi Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh
HOẠT ĐỘNG: Tọa đàm về các
vấn đề bảo vệ quyền lợi người
người tiêu dùng
THỜI GIAN: Ngày 16/3/2009
NỘI DUNG: Trao đổi, thảo luận
về các kinh nghiệm trong hoạt
động bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
THÀNH PHẦN THAM DỰ:
- Chủ trì: Thứ trưởng Lê Danh
Vĩnh
- Lãnh đạo VCAD, Cục An toàn
vệ sinh thực phẩm, Tổng Cục TC-ĐL-
CL, Cục Quản lý thị trường, Hội Tiêu
chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng
Việt Nam, Hiệp hội chống hàng giả
và bảo vệ thương hiệu Việt Nam
cùng các phương tiện thông tin đại
chúng.
ĐỊA ĐIỂM: Phòng họp Bộ Công
Thương, 25 Ngô Quyền Hà Nội
Th
án
g
3
Th
án
g
4
HOẠT ĐỘNG: Tọa đàm cạnh
tranh
THỜI GIAN: Tháng 4/2009
NỘI DUNG: Tổ chức tọa đàm
về chủ đề cạnh tranh nhằm tạo
mối liên kết giữa các cơ quan
quản lý, cộng đồng doanh
nghiệp và xã hội, nâng cao hiệu
quả thực thi luật cạnh tranh và
hướng tới hình thành Mạng lưới
cạnh tranh quôc gia (VCN)
THÀNH PHẦN THAM DỰ:
Đại diện Cục quản lý cạnh tranh
và các đại biểu từ các Cơ quan,
Bộ/Ngành, Cục, Vụ, Viện, Nhà
nghiên cứu, Trường đại học,…
ĐỊA ĐIỂM: Phòng họp Bộ
Công Thương, 21 Ngô Quyền, Hà
Nội
HOẠT ĐỘNG: Tọa
đàm về cơ chế giải quyết
tranh chấp, khiếu nại của
người tiêu dùng
THỜI GIAN: Ngày
15/4 đến 17/4/2009
NỘI DUNG: Trao đổi,
thảo luận về các nội
dung liên quan đến cơ
chế, cách thức giải quyết
các tranh chấp và khiếu
nại của người tiêu dùng
THÀNH PHẦN
THAM DỰ: Thành viên
Ban soạn thảo và tổ biên
tập Luật BVNTD
ĐỊA ĐIỂM: Huế
HOẠT ĐỘNG: CCID
thảo luận khả năng hợp
tác với Trung tâm phát
triển Thương mại điện tử
(Ecomviet) trong lĩnh vực
tư vấn, hòa giải các khiếu
nại của người tiêu dùng
THỜI GIAN: Tháng
4/2009
NỘI DUNG: Hợp tác
thành lập Nhóm tư vấn
thông tin, giải đáp thắc
mắc liên quan tới quyền
lợi người tiêu dùng qua
cổng thông tin điện tử
trustvn.org.vn
THÀNH PHẦN THAM
DỰ: CCID, EcomViet
ĐỊA ĐIỂM: Hà Nội
V C A D30 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
TẢN MẠN
Chị đi chậm, bước chân hơi ngập ngừng, đắn đo, chị xáchgiỏ dạo vòng qua chỗ cá, chỗ thịt, chỗ rau rồi vòng về chỗcá, đứng ngây ra, vẻ mặt hơi dại đi, ngẩn ngơ. Lại đi hai ba
vòng chợ nữa, chị dừng chân, thở hắt, kêu lên, “mèn ơi…”. Bạn
đoán coi chị đang nghĩ gì? A. không biết mua gì; B. đang lo lắng
vì giá lên mau như một cái chớp mắt; C. làm sao để chuẩn bị một
bữa ngon cho cả nhà. Tôi chọn D, chị nghĩ tới tất cả các điều trên.
Có lần thấy chị đứng tần ngần giữa chợ, tôi bỗng nghĩ, phải
mình là điêu khắc gia, thể nào cũng chở đá Non Nước về mà tạc
tượng chị. Chỉ sợ là tượng đẽo xong mờ nhạt (như những tượng
đài anh hùng luôn giống nhau, giống nhau cả ở nét mặt chẳng
hồn vía gì), tôi làm sao tạc được vào đá gương mặt chị, như lo
lắng, như ngơ ngẩn, như đang nghĩ lung lắm mà cũng có vẻ
trống rỗng, vô định, như chẳng biểu lộ gì mà chan chứa thương
yêu. Chị còn làm khó tôi - một điêu khắc gia (giả bộ) cả ánh mắt
ngượng nghịu của chị khi bắt gặp người khác đang nhìn mình.
Chị cười xòa, phân trần, không biết mua gì…
Vì chợ sớm mai có quá nhiều thứ để mua. Những con cá đen
nhẫy đang quẫy nước trong tiếng kêu ôi ối của mấy người đàn
bà. Đống rau cải mướt sương đêm chất ngồn ngộn dưới nền
chợ. Những tảng thịt đỏ tươi, còn ấm nóng trên tay... Hàng hóa
ê hề, nhưng ít dần, trừ dần khi chị nghĩ tới từng người ở nhà. Chị
có mẹ chồng, không thích thịt, hay cá lóc, bí xanh, khoai ngọt,
củ cải, mỗi lần nấu canh mướp, bà mẹ than đau nhức khắp mình.
Chồng chị lại không mặn mà cá trê, ghét bông bí, đậu bắp, cải
xanh (trời ơi, toàn là những thứ chị khoái mới khổ chứ). Thằng
con lớn trèo lên mâm thấy cá rô kho với đĩa dưa giá là nhăn mặt
toan tụt xuống. Và cứ thế, chị chẳng còn bao nhiêu cơ hội chọn
lựa. Cầm cái bắp cải hay bó cải rổ, lại lo người ta tưới lên ấy
những gì. Mua trái lê, trái táo, tần ngần nghĩ không biết mấy thứ
này có bị ngâm hóa chất giữ cho tươi lâu? Ngó con gà nằm trên
sạp da vàng óng, chị tần ngần nghĩ tới cúm gia cầm.
Lâu rồi, chị đã không ăn những món mà chị thích (người
trong nhà thì không). Chị bưng tô rau má (hay rau dền) nấu canh
nghi ngút khói lên bàn, nhìn bà mẹ hớn hở suýt xoa để vui, để
quên mình đã ăn mấy thứ này hồi còn ở quê, suốt mười mấy
năm, mắc chán. Thế nhưng món bí đỏ hầm dừa thì lâu lâu chị lại
nhớ nức nở, bỏ công nấu một nồi con con, chẳng ai trong nhà
hưởng ứng. Đi ngang qua chỗ bán rau cải, chị nhìn mớ bông bí
thòm thèm, nhưng nghĩ chỉ một mình ăn thì vui gì.
Biết bao điều phải nghĩ, đã cực lòng lắm rồi, lại thêm giá vùn
vụt lên. Mau như trở bàn tay, món tiền hôm nay chỉ mua được
nửa nắm rau hôm trước. Con cá trong giỏ cứ nhỏ dần đi, nỗi áy
náy thì ngược lại, lớn ngợp lòng. Người nào rời mâm cơm trước
chị cũng bần thần hỏi với theo, “bộ đồ ăn không ngon hả ?”. Trời
ơi, làm nội trợ, ai nói sướng nào?
Đóng vai thần thừ giữa chợ năm ba lần, tôi đã biết cảm giác
bồi hồi của chị khi lướt nhanh qua con cá to nhất, con cua chắc
nhất, về đến nhà vẫn ám ảnh, nghĩ mình vừa bỏ lỡ một bữa ăn
ngon cho cả nhà. Tôi biết chị yêu thương nặng oằn mà mớ tiền
lại nhẹ hẫng trên tay. Trải qua mới hiểu, những lúc ấy mình dụng
công suy nghĩ, cảm xúc đầy còn hơn… viết văn. Nhiều lúc quên
đây là chỗ kẻ bán người mua, bởi nhìn thấy chùm trái giác, hay
mấy cái bắp chuối đặt cạnh rổ rau đắng đất, hay xô ốc lác đầu
mùa mưa, hay những trái mãng cầu chín… là kỷ niệm tuổi thơ
kéo ra dài ngoằng có dây có nhợ, những ngày lam lũ thức giấc
dậy động trong lòng.
Tôi biết, có nhiều lần, anh thấy chị trở về chỉ mấy trái cà, vài
ba con cá, anh gắt “Đi cả buổi…”, nhưng anh biết không, trong
cái giỏ đồ ít ỏi đó, oằn trĩu niềm lo nghĩ, nỗi thương yêu…
NGUYỄN NGỌC TƯ
Tần ngần
giữa chợ
Tạp văn
V C A D 31CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
CHỨC NĂNG & NHIỆM VỤ
Chủ trì xây dựng và quản lý hệ
thống thông tin dữ liệu về cạnh tranh,
chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp
dụng biện pháp tự vệ và bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng; tổ chức lưu giữ và
bảo quản hồ sơ vụ việc đã được VCAD
và các cơ quan có thẩm quyền khác xử
lý để phục vụ cho công tác chuyên
môn của VCAD;
Cung cấp thông tin trong nước
và quốc tế phục vụ cho công tác quản
lý, điều hành, xây dựng pháp luật và
hoạch định chính sách của VCAD;
Chủ động phát triển các hoạt
động dịch vụ thông tin phục vụ yêu
cầu của các cơ quan quản lý nhà nước,
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước theo quy định của pháp luật và
chỉ đạo của Cục trưởng;
Phối hợp với các đơn vị liên
quan để biên tập và phát hành các ấn
phẩm định kỳ giới thiệu, tuyên truyền
về quản lý cạnh tranh, bảo vệ người
tiêu dùng, các biện pháp chống bán
phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các
biện pháp tự vệ và các hoạt động
khác của Cục;
Xây dựng và duy trì Hệ thống
Quản lý tri thức của VCAD;
Tham gia hỗ trợ và phối hợp với
các đơn vị thuộc Cục trong công tác
nghiên cứu, phân tích thông tin vụ
việc theo chỉ đạo của Cục trưởng;
Thực hiện các hoạt động hợp tác
quốc tế trong phạm vi được phân
công.
CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH
TRUNG TÂM THÔNG TIN CẠNH TRANH
Luôn vượt sự mong đợi của bạn
Trung tâm Thông tin cạnh tranh (CCID) là một đơn vị sự nghiệp thuộc Cục
Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương, được thành lập theo quy định tại Nghị định
số 06/2006/ND-CP ký ngày 09/01/2006 của Chính phủ.
BỘ CÔNG THƯƠNG
Cục Quản lý cạnh tranh (VCAD)
Trung tâm Thông tin cạnh tranh
(CCID)
Phòng Phát triển dịch vụ
thông tin & dữ liệu
Phòng Tổng hợp &
Quan hệ công chúng
Phòng Thông tin Bảo vệ người
tiêu dùng
Bản tin Cạnh tranh & Người
tiêu dùng
Phòng Thông tin Phòng vệ
thương mại
Phòng Thông tin Cạnh tranh
CƠ CẤU TỔ CHỨC
25 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm
Hà Nội, Việt Nam
Tel: (84.4) 2220 5305
Fax: (84.4) 2220 5303
Email: ccid@moit.gov.vn
Ảnh: H.N. Tập thể cán bộ CCID
Biên tập, phát hành các tài liệu tham khảo chuyên ngành là một
trong những nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến chính sách và phát
luật về Cạnh tranh, Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và phòng vệ
thương mại của Cục Quản lý cạnh tranh.
Độc giả có nhu cầu tham khảo xin vui lòng liên hệ với:
Trung tâm Thông tin cạnh cạnh (CCID)
Địa chỉ: Tầng 6 - 25 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm - Hà Nội, Việt Nam
Tel: (84.4) 2220 5305 * Fax: (84.4) 2220 5303
Email: ccid@moit.gov.vn * Website: www.ccid.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cạnh tranh và người tiêu dùng.pdf