Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi cho rằng
các tai biến trượt đất, sạt lở bờ sông, lũ và lũ quét
xảy ra trên địa bàn Thái Nguyên chủ yếu gắn liền
với đặc điểm địa hình địa phương. Các tai biến này
xảy ra khi địa hình bề mặt, cấu trúc địa chất thuận
lợi cho sự di chuyển vật chất.
Các quá trình địa động lực ngoại sinh bao gồm
nhóm các hoạt động trọng lực là nguyên nhân chủ
yếu gây ra các tai biến nứt, trượt đất và tai biến sạt
lở bờ sông. Nhóm hoạt động dòng chảy là nguyên
nhân của tai biến lũ quét và lũ bùn đá
10 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 196 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảng biển - Động lực của sự phát triển kinh tế miền Trung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
52(4): 13 - 18 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 4 - 2009
1
CẢNG BIỂN - ĐỘNG LỰC CỦA SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ MIỀN TRUNG
Lê Tiến Dũng (Nhà xuất bản - Đại học Thái Nguyên)
Nguyễn Thị Hằng (Khoa Công nghệ thông tin - Đại học Thái Nguyên)
Tóm tắt
Biển có một vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế, là cánh cửa để mở ra thế giới của các quốc
gia. Miền Trung là một vùng đất giàu tiềm năng và lợi thế, là vùng duy nhất của Việt Nam mà tất cả các tỉnh đều
giáp với biển Đông. Miền Trung có đầy đủ các yếu tố để phát triển một nền kinh tế biển hoàn chỉnh, đặc biệt là
kinh tế cảng. Hiện tại, miền Trung có 17 cảng biển, trong đó có 3 hải cảng tầm quốc gia là Đà Nẵng, Quy Nhơn và
Nha Trang. Các cảng biển miền Trung có nhiều tiềm năng để phát triển, chúng đóng vai trò là cửa mở để thu hút
đầu tư. Vì vậy, cảng biển giữ vai trò động lực trong phát triển kinh tế miền Trung.
I. Đặt vấn đề
Ngày nay, khi nền kinh tế đất nước ngày càng
hội nhập sâu với thế giới thì bài toán phát triển
cảng biển càng trở nên cấp bách bởi cảng biển có
một vai trò đặc biệt trong phát triển kinh tế. Trong
chiến lược phát triển của mình, nhiều quốc gia trên
thế giới đã xác định thế kỷ 21 là kỷ nguyên của đại
dương, hướng mạnh sự phát triển ra biển đảo, đặc
biệt chú trọng đến việc khai thác biển (kể cả những
quốc gia không có biển).
Miền Trung được coi là “mặt tiền” của Việt
Nam, của Đông Nam Á và cả châu Á - Thái Bình
Dương. Đây là vùng duy nhất của Việt Nam có tất
cả các tỉnh đều giáp với biển Đông. Một điều khó
khăn đối với vùng đất này là địa hình kéo dài và
hẹp ngang nên rất bất lợi trong việc phát triển
không gian kinh tế trên quy mô rộng. Mặt khác,
đây là vùng phải gánh chịu nhiều thiên tai hơn so
với hai đầu đất nước. Nhưng bù lại, miền Trung
được ban tặng cho một nguồn tài nguyên vô cùng
quý giá là Biển. Biển miền Trung rất giàu tiềm
năng và có nhiều lợi thế. Vì thế, có thể coi nền
kinh tế miền Trung thực chất là kinh tế biển, do
vậy, triển vọng phát triển là vô cùng lớn. Nhưng
Miền Trung lại tương đối nghèo nàn so với hai đầu
đất nước. Không ít người đã lặng lẽ tiến hành
những chuyến khảo sát dọc ven biển miền Trung
với một câu hỏi day dứt: miền Trung sẽ còn loay
hoay với cái nghèo đến bao giờ? Không bó tay
trước những rào cản mang tính tự nhiên, miền
Trung miệt mài đi tìm giải pháp cho việc mở cảng
biển để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế. Sự
ra đời của các cảng biển, trong đó có các cảng
nước sâu là một trong những việc làm thiết yếu
đầu tiên để vực dậy nền kinh tế của miền đất đầy
tiềm năng này.
II. Điều kiện phát triển kinh tế cảng biển miền
Trung
Miền Trung là một vùng đất giàu tiềm năng và
lợi thế, có đầy đủ các yếu tố để phát triển một nền
kinh tế biển hoàn chỉnh, đặc biệt là kinh tế cảng.
Vùng đất này sở hữu 1.172km bờ biển và có lợi
thế đặc biệt về vị trí địa lý. Miền Trung không chỉ
nằm ở giữa nước Việt Nam mà còn ở vị trí trung
tâm các trục giao lưu quốc tế của các nước
ASEAN. Đây là phần đất vươn ra biển Đông xa
nhất của nước ta; do đó các hải cảng của miền
Trung rất gần với đường hàng hải quốc tế, nối khu
vực Đông Bắc Á với Đông Nam Á và các châu lục
khác. Phía Tây của miền Trung có nhiều cửa khẩu
giao thương với các nước nằm sâu trong lục địa
châu Á như Lào, Myanmar, vùng đông bắc Thái
Lan và đông bắc Campuchia. Do vậy, Hội nghị lần
thứ 8 của Bộ trưởng các nước tiểu vùng sông Mê
kông họp tại Manila (tháng 10-1998) đã đưa ra
khái niệm “Hành lang kinh tế Đông Tây” và quyết
định chọn dự án xây dựng tuyến đường bộ từ
Mukdahan (Thái Lan) qua Nam Lào đến Đà Nẵng
làm dự án đầu tiên trong hợp tác tiểu vùng. Năm
2000, Myanmar trở thành thành viên ASEAN, qui
mô dự án được mở rộng và khu vực cảng
Maưlamyine gần thủ đô Yangon được chọn làm
cửa ra phía Tây của hành lang. Như vậy, Hành
lang kinh tế Đông Tây có tổng chiều dài 1.450km,
đi qua vùng Nam Myanmar, Bắc Thái Lan, Nam
Lào và ba tỉnh miền Trung Việt Nam. Cửa khẩu
Lao Bảo ở phía tây tỉnh Quảng Trị hiện đang hoạt
động rất nhộn nhịp. Một số cửa khẩu biên giới
khác ở tỉnh Quảng Nam,.. đang được tiếp tục mở
52(4): 13 - 18 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 4 - 2009
14
ra, đã và đang hình thành các tuyến giao thông
đường bộ nối các hải cảng lớn trên vùng duyên hải
miền Trung với các khu vực trong nội địa châu Á.
Vì thế, Miền Trung được coi là cửa ngõ và cầu nối
cho Myanmar, Đông Bắc Thái Lan và Lào qua
Hành lang kinh tế Đông – Tây để kết nối với các
trung tâm kinh tế năng động nhất châu Á là Đông
Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) và
vùng Viễn Đông với vai trò làm dịch vụ cảng, hậu
cần. Hàng hoá từ khu vực trên qua các cảng miền
Trung sẽ không cần qua eo biển Malacca quá đông
đúc và cảng Bangkok đã quá tải, có thể giảm một
ngày đêm vận tải, giảm bớt chi phí về thời gian và
tiền bạc. Rõ ràng phải gắn kinh tế miền Trung với
hai vùng rộng lớn Đông Bắc Á và Tiểu vùng Mê
Kông để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế
miền Trung. Trong thế kỷ 21, Đông Bắc Á sẽ trở
thành trung tâm tăng trưởng của thế giới. Việc
miền Trung trở thành mắt xích nối giữa Đông Nam
Á và Bắc Á sẽ thay đổi vị thế của miền Trung
không chỉ đối với nước ta mà còn trở thành một
khâu quan trọng cho cả khu vực. Nhìn rộng ra,
mức độ hội nhập và toàn cầu hoá của miền Trung
sẽ nhanh chóng được nâng cao và vượt xa mức
bình quân của cả nước. Vị trí đặc biệt này có thể
giúp miền Trung vươn lên đảm nhiệm vai trò trung
tâm thương mại và chế xuất của khu vực Đông
Nam châu Á, nơi giao lưu của các nước vùng nội
địa châu Á với thế giới bên ngoài.
Mặt khác, dọc theo ven biển miền Trung còn
có nhiều vịnh nước sâu, nằm cận kề với đường
hàng hải quốc tế, rất thuận lợi cho việc xây dựng
các cảng nước sâu trong hệ thống cảng biển của cả
nước. Khu vực này đã hình thành hệ thống đô thị
và khu công nghiệp phân bố khá đều trên lãnh thổ.
So với các hải cảng lớn ở miền Nam và miền Bắc,
hải cảng miền Trung không có ưu thế về cơ sở hạ
tầng kĩ thuật nhưng có những ưu thế do thiên
nhiên tạo ra như mực nước sâu, độ kín gió và đặc
biệt là rất gần đường hàng hải quốc tế.
III. Hệ thống các cảng biển miền Trung
Hiện tại, miền Trung có 17 cảng biển, trong đó
có một số hải cảng tầm cỡ quốc gia là Đà Nẵng,
Quy Nhơn, Nha Trang Các hải cảng này đang
phục vụ cho hoạt động kinh tế đối ngoại và du lịch
của các tỉnh miền Trung và nước CHDCND Lào với
mức độ hoạt động ngày càng tăng. Ngoài các hải
cảng quốc gia nói trên, hầu như tỉnh duyên hải miền
Trung nào cũng có hải cảng riêng phục vụ cho các
hoạt động kinh tế của địa phương. Hiện tại, Chính
phủ Việt Nam đã chủ trương cho xây dựng một số
hải cảng quốc tế lớn, nhằm tạo điều kiện phát huy
các lợi thế so sánh về vị trí địa lí và tài nguyên biển
của miền Trung. Đó là Dung Quất - Quảng Ngãi
(gắn với nhà máy lọc dầu đầu tiên ở Việt Nam ),
cảng Chân Mây thuộc Thừa Thiên - Huế (gắn với
khu công nghiệp và dịch vụ du lịch Chân Mây)
Sở dĩ miền Trung cần nhiều cảng biển, trong
đó có các cảng nước sâu như thế, bởi vì hàng hóa
qua các cảng miền Trung là hàng hóa quốc tế,
hàng trung chuyển, không phải hàng khai thác tại
chỗ. Một lợi thế nữa là trước mặt các tỉnh duyên hải
miền Trung là đại dương nối liền Việt Nam với Nhật
Bản, Hồng Kông, Singapore, Philippines... Còn sau
lưng là một kênh đào trên bộ để dẫn đến Lào,
Myanmar, Ấn Độ, Pakistan. Do đó, việc phát triển
hải cảng sẽ đem lại lợi nhuận lớn lao cho nền kinh tế.
Trong các cảng của miền Trung, Vân Phong
được đánh giá là cảng có nhiều lợi thế. Vịnh có độ
nước sâu hiếm có (từ 20 - 40m), là nơi kín sóng
gió, không bị bồi lấp bởi sông biển, cách hải phận
quốc tế chỉ 14km, gần ngã ba các tuyến hàng hải
quốc tế. Vì vậy, Vân Phong được các chuyên gia
hàng hải nhìn nhận là "nơi duy nhất của Việt Nam
có đủ điều kiện cạnh tranh mạnh trong hệ thống
dịch vụ cảng trung chuyển container quốc tế và là
nơi duy nhất ở Việt Nam có thể biến ước mơ về
một cảng nước sâu thành hiện thực”. Không đâu
khác, Vân Phong sẽ là nơi mở ra cực phát triển
mới của Việt Nam.
Sự phát triển của cảng biển miền Trung trong
tương lai
Theo định hướng phát triển hệ thống cảng biển
miền Trung thì đến năm 2010, hệ thống các cảng ở
đây phải đạt được con số sản lượng hàng hóa
thông qua là từ 40-50 triệu tấn/năm và đến năm
2020 là 90-110 triệu tấn/năm. Trong đó, "nòng
cốt" vẫn là các cảng Chân Mây, Đà Nẵng, Dung
Quất, Nhơn Hội.
Với tốc độ phát triển như hiện nay, hệ thống
cảng biển khu vực miền Trung hoàn toàn có thể
đảm bảo được năng lực vận tải đó. Trong đó, cảng
Nghi Sơn (trước mắt phục vụ chủ yếu xuất xi
măng, công suất 2 triệu tấn/năm), đến năm 2010
phát triển thành cảng tổng hợp - container công
suất lên 8-10 triệu tấn/năm, có thể đón tàu đến
30.000DWT; cảng Vũng Áng (Hà Tĩnh) xây dựng
qui mô 10 triệu tấn/năm, gắn với qui hoạch xây
52(4): 13 - 18 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 4 - 2009
15
dựng cơ sở lọc hóa dầu và luyện thép trong khu
vực, về lâu dài là đầu ra cho tuyến đường xuyên Á
phía Bắc. Các cảng Chân Mây (TT-Huế) - Liên
Chiểu - Đà Nẵng sẽ qui hoạch thành cụm cảng
hiện đại, trở thành thương cảng quốc tế lớn ở khu
vực miền Trung, có tổng công suất 12- 15 triệu
tấn/năm. Cảng này vừa có chức năng là cửa mở
lớn cho các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ và Tây
nguyên, vừa tiếp nhận hàng hoá quá cảnh của
tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây (Nam Lào và
Đông Bắc Thái lan). Cảng Chân Mây có thể đón
tàu đến 50.000DWT và tàu khách du lịch cỡ lớn,
công suất cảng đạt 6 - 7 triệu tấn/năm vào năm
2020. Dung Quất đầu tư xây dựng thành cụm cảng
lớn, qui mô 20 triệu tấn/năm vào 2010 và 45 - 50
triệu tấn/năm vào 2020, phục vụ công nghiệp lọc
hoá dầu, công nghiệp luyện kim và các khu công
nghiệp khác trong vùng. Cảng Qui Nhơn sẽ hoàn
thiện bến cảng đón được tàu trọng tải 30.000DWT,
nâng cấp cầu cảng đạt công suất thông qua cảng
khoảng hơn 4 triệu tấn năm 2010 và 15 triệu
tấn/năm năm 2020. Cảng Nha Trang chuyên khai
thác hàng sạch và vận tải hành khách đến 2015
chuyển hoàn toàn thành cảng du lịch. Cảng Vân
Phong (Khánh Hoà) hiện tại đã được ưu tiên đầu
tư thành cảng trung chuyển container quốc tế, các
dự án công nghiệp công nghệ cao, thành phố thông
minh - đô thị bền vững. Sắp tới, đây sẽ là cảng
trung chuyển container quốc tế, đồng thời là cảng
đầu mối hàng hoá xuất nhập khẩu trong nước, giữ
vai trò động lực trong việc phát triển Vịnh Vân
Phong thành khu kinh tế tổng hợp đa ngành, bao
gồm cảng trung chuyển quốc tế, công nghiệp, dịch
vụ, du lịch, nuôi trồng thuỷ sản trong đó cảng
trung chuyển quốc tế giữ vai trò chủ đạo Ngoài
ra, với mục đích biến Duyên hải Nam Trung Bộ
đến năm 2010 thành vùng phát triển các ngành
kinh tế quan trọng gắn với biển, một loạt dự án cải
thiện cơ sở hạ tầng cho vùng này sẽ được thực
hiện trong tương lai như: nâng cấp cảng Vũng Rô
(Phú Yên), xây mới cảng trung chuyển quốc tế
Đầm Môn (Khánh Hòa)
4.Vai trò động lực của cảng biển trong phát
triển kinh tế miền Trung
Trên phạm vi thế giới, xu hướng toàn cầu hóa,
hội nhập khu vực đang trở thành một xu thế tất yếu
mang tính thời đại. Bất kỳ nền kinh tế nào, nếu
không vận hành theo xu thế này thì chắc chắn sớm
muộn cũng bị đào thải ra khỏi sự phát triển. Đối
với lĩnh vực vận tải, do chi phí vận tải rẻ, khối
lượng vận tải lớn, tuyến kết nối trên phạm vi toàn
thế giới,... nên vận tải biển trở thành một cầu nối
quan trọng trong hợp tác song phương và đa
phương. Hệ thống cảng biển ngoài vai trò xếp dỡ
hàng hóa, còn thực hiện hoạt động chuyển tải và
logistic tạo giá trị gia tăng với một khu vực hay cả
một vùng rộng lớn. Trên con đường hội nhập,
miền Trung đã được đặt đúng vị trí của nó, đó là
mặt tiền của đất nước để bước ra thế giới bên
ngoài bằng hệ thống cảng biển làm nòng cốt cho
công cuộc phát triển. Trong điều kiện hội nhập
kinh tế thế giới, toàn cầu hóa sản phẩm đã tạo cơ
hội cho cảng biển trở thành nhân tố làm tăng giá
trị hàng hóa. Việc Phát triển vận tải biển sẽ thúc
đẩy quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá, là động
lực thúc đẩy phát triển công nghiệp. Có thể nói, hệ
thống cảng biển miền Trung đóng vai trò nòng cốt
trong việc hình thành vùng trọng điểm kinh tế
miền Trung cũng như sự hình thành các khu kinh
tế của khu vực này.
Tác động của tương hỗ của hệ thống cảng
biển với sự phát triển các khu công nghiệp và
sự gắn kết giữa các địa phương
Một trong những điều kiện cơ bản để một cảng
hay một khu cảng hoạt động là phải gần nơi phát
sinh nguồn hàng hay gần những khu vực thu hút
hàng hóa. Ngược lại, để giảm chi phí vận tải trên
bộ, qua đó giảm giá thành sản phẩm thì các khu
công nghiệp, khu chế xuất và kèm theo nó là các
trung tâm thương mại tài chính, dịch vụ hàng hải,...
cần được hình thành xung quanh hệ thống cảng.
Hiện tại, ở các khu kinh tế dọc duyên hải miền Trung
cũng như hệ thống cảng biển nước sâu và các dự án
đầu tư cho đại công nghiệp hầu hết đã nhanh chóng
được lấp kín. Rõ ràng một quy luật đang diễn ra tại
các khu kinh tế miền Trung: có cảng biển nước sâu
thì công nghiệp nặng phát triển rất nhanh và luôn đi
trước một bước, sau đó mới kéo theo sự phát triển về
công nghiệp nhẹ - thương mại và dịch vụ - du lịch.
Việc xây dựng cảng biển có một tầm chiến lược
hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã
hội của miền Trung, tạo nên sự liên kết chặt chẽ
giữa Việt Nam và các nước trong khu vực. Có thể
xem đó là bước đi thích hợp trong chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội miền Trung để đuổi kịp sự
phát triển của hai đầu đất nước, tạo nên xu thế phát
52(4): 13 - 18 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 4 - 2009
16
triển ổn định trên toàn Việt Nam và thúc đẩy hội
nhập có hiệu quả của nền kinh tế Việt Nam với thế
giới bên ngoài. Có thể lấy cảng nước sâu Dung
Quất làm ví dụ.Vịnh Dung Quất có lợi thế để phát
triển cảng biển và các ngành kinh tế gắn với cảng.
Vịnh Dung Quất có diện tích mặt nước hữu ích trên
4 km
2, có độ sâu trung bình 10m đến 19m, nằm sát
các tuyến hàng hải quan trọng nhất như: cách tuyến
hàng hải quốc tế 90km, cách các tuyến vận tải nội
thuỷ khoảng 30km và là nơi hội tụ đủ các điều kiện
để hình thành cảng biển nước sâu đa chức năng
gồm: cảng chuyên dùng dầu khí và cảng chuyên
dụng cho các ngành công nghiệp nặng (cảng tổng
hợp và cảng trung chuyển quốc tế). Vịnh này cũng
là nơi thuận lợi để hình thành Khu bảo thuế và các
ngành dịch vụ cảng biển. Đây là một trong những
yếu tố có ý nghĩa quyết định để mở cửa thu hút các
nhà đầu tư đến với Khu kinh tế Dung Quất.
Sự ra đời của cảng biển nước sâu và khu công
nghiệp Dung Quất đã đặt nền móng cho sự hình
thành vùng trọng điểm kinh tế miền Trung kéo dài
từ Liên Chiểu (Đà Nẵng) đến Dung Quất (Quảng
Ngãi), sự kiện này đã dẫn đến hình thành khu công
nghiệp tổng hợp kéo dài từ Đà Nẵng đến Dung
Quất theo hướng bố trí các ngành sản xuất, xuất
nhập khẩu có khả năng cạnh tranh, đồng thời hình
thành trục hành lang Đông - Tây thông qua đường
24 và 14. Sự ra đời của cảng biển nước sâu và khu
công nghiệp thương mại dịch vụ Chân Mây dẫn
đến mở rộng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
ra đến Thừa Thiên - Huế, tạo điều kiện cho sự hội
nhập giữa Huế - Đà Nẵng và sẽ dẫn đến sự ra đời
thành phố sinh đôi. Đường 9 sẽ tạo nên hành lang
kinh tế Đông - Tây quan trọng nối vùng trọng
điểm kinh tế miền Trung với các nước tiểu vùng
sông Mêkông. Sự ra đời của cảng biển nước sâu và
khu công nghiệp - dịch vụ Nhơn Hội đã dẫn đến
việc mở rộng vùng kinh tế trọng điểm miền Trung
về phía Nam đến Bình Định (đến đường 19). Trục
kinh tế phát triển đô thị - công nghiệp - thương
mại - du lịch - dịch vụ dọc duyên hải miền Trung
kéo dài từ Chân Mây - Đà Nẵng - Chu Lai - Dung
Quất - Nhơn Hội được hình thành. Đồng thời đóng
vai trò cửa ngõ nối liền miền Trung Việt Nam với
các nước tiểu vùng sông Mêkông, nối Việt Nam với
các nước châu Á -Thái Bình Dương và thế giới. Như
vậy, hệ thống cảng biển miền Trung, đặc biệt là các
cảng nước sâu đã đóng vai trò tiên phong và nòng
cốt để hình thành vùng trọng điểm kinh tế miền
Trung và hàng loạt các khu kinh tế đô thị dọc duyên
hải để có thể thu hút đầu tư với quy mô lớn.
Vai trò cửa mở để thu hút nhà đầu tư
Theo quy hoạch chi tiết phát triển hệ thống
cảng biển Việt Nam, từ nay đến năm 2010, Việt
Nam sẽ cần khoảng 60.000 tỷ đồng cho việc xây
dựng cảng biển. Trong đó, cụm cảng phía Bắc cần
hơn 20.500 tỷ đồng, miền Trung hơn 14.000 tỷ
đồng; phía Nam hơn 20.100 tỷ đồng và vùng Tây -
Nam là hơn 2.000 tỷ đồng. Nhìn lại toàn cục các
dự án đầu tư vào các khu kinh tế - cảng biển miền
Trung người ta dễ dàng nhận thấy từ thế mạnh
cảng nước sâu của mình, lĩnh vực ưu tiên hấp dẫn
các nhà đầu tư là công nghiệp nặng bao gồm công
nghiệp năng lượng, công nghiệp luyện cán thép,
công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp chế
tạo máy cái, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu
thủy. Đây là các ngành công nghiệp cực kỳ quan
trọng cho xương sống công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Số vốn thu hút đầu tư vào lĩnh vực
này thông qua hệ thống cảng biển nước sâu ở miền
Trung hiện có thể lên đến nhiều chục tỉ USD, đang
diễn ra một cách rầm rộ và nóng bỏng trên khắp
các tỉnh duyên hải miền Trung từ Thanh Hóa đến
Bình Thuận.
Từ khi cảng biển được chú trọng, một làn sóng
đầu tư mới đang đổ vào miền Trung. Cụ thể, trong
vòng 10 năm (từ 1988 đến 2008) các tỉnh miền
Trung thu hút được 631 dự án, với tổng vốn trên
10 tỉ USD. Riêng năm 2007 và 2 tháng đầu năm
2008, khu vực này đã thu hút 154 dự án (cấp mới
và tăng vốn), với tổng nguồn vốn đăng ký trên 5,3
tỷ USD, chiếm hơn ½ vốn đầu tư cả giai đoạn
1988- 2006. Trong đó, cảng quốc tế Gemadept
Dung Quất có quy mô lớn nhất miền Trung Trung
bộ hiện nay với tổng vốn đầu tư 575 tỉ đồng. Đây
là cảng nước sâu, có khả năng tiếp nhận tàu hàng
bách hoá và tàu container trọng tải 30.000 tấn. Từ
khi dự án cảng biển nước sâu và Khu Công nghiệp
Dung Quất được hình thành (năm 1992), miền
Trung đã và đang "dấy lên" một "làn sóng" đầu tư
khá mạnh. Tính đến nay, đã có 22 khu công nghiệp
(KCN) được triển khai xây dựng với tổng diện tích
3.880 ha và 9 khu kinh tế (KKT) được Thủ tướng
Chính phủ ký Quyết định thành lập. Trong số 22
KCN, có 9 KCN dự kiến sẽ thu hút khoảng 95-100
52(4): 13 - 18 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 4 - 2009
17
triệu USD vốn đầu tư phát triển hạ tầng; 1,6-2 tỷ
USD vốn đầu tư sản xuất công nghiệp.
V. Một số hạn chế và giải pháp phát triển cảng
biển miền Trung
Có thể nói, việc quy hoạch hàng loạt cảng biển
tại miền Trung có nhiều bất cập. Trong các cảng
tổng hợp của miền Trung có lẽ chỉ có cảng Quy
Nhơn và Đà Nẵng là tiệm cận tới mức độ hiệu quả,
còn các cảng khác đều rơi vào tình trạng dư thừa
công suất (các cảng miền Trung chỉ chiếm 13%
khối lượng hàng hoá cả nước, đang ở tình trạng
thiếu hàng hóa, chỉ sử dụng một phần công suất).
Nếu ta đặt bút so sánh thì sẽ thấy, trong hệ thống
cảng biển của nước ta, chỉ có Sài Gòn hay Bà Rịa -
Vũng Tàu mới là nơi có nhiều khả năng nhất để
đón nhận tàu mẹ (mother feeders), và điều này đẩy
các cảng biển miền Trung vào vị thế bất lợi về chi
phí và cạnh tranh. Một điều nữa cần bàn đến đó là
ở miền Trung hầu như tỉnh nào cũng có cảng,
nhưng hầu hết là mang tính địa phương. Xét về
hiệu quả kinh tế, chúng có vai trò nhất định đối
với địa phương. Nhưng về mặt quy hoạch, liệu như
vậy có phải là quá dàn trải và manh mún? Mặt
khác, mật độ cảng biển ở đây phân bố chưa hợp lý,
đầu tư còn manh mún và mang tính dàn trải, dẫn
tới hiệu quả khai thác những năm qua chưa tương
xứng với tiềm năng. Ngoài ra, đa số các cảng hiện
nay đều là cảng nước nông nên các tàu container
lớn không thể cập cảng để lấy hàng vận chuyển đi
Hồng Kông, Đài Loan và Singapore để tiếp tục
chuyển sang tàu lớn hơn, đi xa hơn.
Miền Trung Việt Nam có nhiều cảng biển có
tiềm năng và lợi thế lớn như Vân Phong (Khánh
Hoà)... nhưng tiềm năng sẽ mãi mãi là tiềm năng
khi không có những hành động cụ thể. Với vị trí
đặc biệt quan trọng, cầu nối miền Trung có rất
nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế. Nhưng cơ sở
hạ tầng ở đây còn quá thiếu. Vì vậy, để hoàn thành
các dự án phát triển hạ tầng cảng biển, tăng cường
đầu tư mua sắm thêm nhiều trang thiết bị hiện đại
để đẩy nhanh năng lực làm việc, miền Trung cần
huy động tối đa nguồn vốn như vốn ngân sách, vốn
vay ODA, vốn vay tín dụng, phát hành trái phiếu
Chính phủ Hiện tại, Chính phủ cũng có nhiều
biện pháp như phát hành trái phiếu (giai đoạn 2003
- 2010 và đang có kế hoạch phát hành Trái phiếu
Chính phủ giai đoạn đến năm 2012). Bên cạnh đó,
nhiều nguồn lực tài chính cũng đang hướng về miền
Trung. Tuy nhiên, việc còn lại vẫn là sự nỗ lực của
chính miền Trung, có như vậy mới có thể phát triển
miền ngang tầm với hai đầu đất nước.
Mặt khác, muốn đạt được con số sản lượng
hàng hóa thông qua là từ 40 - 50 triệu tấn/năm vào
năm 2010 và đến năm 2020 là 90 - 110 triệu
tấn/năm thì việc xây dựng hoàn thiện các trục giao
thông đường bộ như quốc lộ 1A, đường Hồ Chí
Minh và các trục ngang chiến lược kết nối Đông -
Tây qua các nước Lào, Campuchia như các tuyến
quốc lộ 7, 8, 12, 9, 49, 14D, 14E, 24, 19, 25, 26,
27... cần phải được nâng cấp hoàn thiện trước năm
2010 và sau đó sẽ tiếp tục nâng cấp các tuyến còn
lại. Dự án của Chính phủ về phát triển vùng kinh
tế trọng điểm Trung Trung Bộ cũng xác định việc
nâng cấp cơ sở hạ tầng là nhiệm vụ quan trọng
nhất để thay đổi “diện mạo” khu vực này.
Song song với quá trình đó, miền Trung cần
cải tiến việc quản lý và khai thác cảng nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh. Việc cải tiến đó được tập
trung vào các lĩnh vực nâng cao năng lực của cán
bộ thông qua việc phát triển nguồn nhân lực. Áp
dụng công nghệ thông tin nhằm đảm bảo việc trao
đổi thông tin qua lại một cách chính xác và nhanh
chóng. Tiến hành các nghiên cứu phát triển và
nâng cao năng lực cảng để đưa ra các khuyến nghị
về phát triển, kinh doanh khai thác và quản lý cảng
tối ưu. Có sự phối hợp, hợp tác hữu hiệu giữa các
cảng miền Trung với các cảng trong nước và trong
khu vực. Cải tiến thủ tục hành chính cảng và nâng
cao chất lượng từng dịch vụ của cảng. Xây dựng
các tiêu chuẩn cảng biển tối thiểu, đặc biệt là các
cảng container. Ở đây tôi chỉ xin đi sâu vào giải
pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của cảng
biển miền Trung nói riêng và Việt Nam nói chung
trước xu thế hội nhập và phát triển.
Trong bối cảnh cảng biển khu vực phát triển
nhanh chóng và cạnh tranh gay gắt, vấn đề đặt ra
là các cảng biển Việt Nam phải làm gì để nâng cao
năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực, góp phần vào việc đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Để làm được điều này, vấn đề khẩn thiết lúc
này là thực hiện tốt công tác quản lý quy hoạch hệ
thống cảng biển, tiến hành lập và quy hoạch thật
chi tiết các nhóm cảng quan trọng như Dung Quất,
52(4): 13 - 18 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 4 - 2009
18
Nhơn Hội, Chân Mây... Phải tiến hành quy
hoạch phát triển theo mục tiêu đầu tư và khai thác
gắn với ngành công nghiệp và dịch vụ hậu cần
cảng. Ngoài ra, phải cải thiện năng lực của đội
tàu nội địa để các cảng nước sâu của miền Trung
có thể cạnh tranh được với những cảng trung
chuyển khác trong khu vực. Để làm được điều
này, theo tôi vấn đề khó khăn nhất không phải là
vốn mà phải có các dự án tốt, mang tính khả thi
và đội ngũ con người có năng lực. Bởi vì, nguồn
vốn đầu tư vào lĩnh vực này thực sự không khó
huy động.
Trong đầu tư cảng, cần tạo liên kết cảng với
các hệ thống giao thông mặt đất nhằm tạo thuận
lợi nhất cho khách hàng qua phương thức vận tải
đa phương. Việc quy hoạch những cảng biển ở
miền Trung có lẽ ít nhất phải đáp ứng được một
vài yêu cầu. Thứ nhất, đó phải là cảng biển nước
sâu. Bên cạnh đó, miền Trung cũng cần hình thành
cảng chuyên dùng cho các nhà máy công nghiệp
nặng đầu tư sản xuất - kinh doanh và cảng trung
chuyển container quốc tế gắn với quá trình hình
thành, xây dựng Khu Bảo thuế, đầu tư, phát triển
Khu Bảo thuế và khu dịch vụ hậu cần cảng; xây
dựng kè chắn cát, hình thành Liên hợp đóng và sửa
chữa tàu biển, thúc đẩy những dự án đầu tư xây
dựng các bến cảng tổng hợp
Ngoài ra, cần phải có một cơ chế phù hợp dành
cho những cảng biển quốc tế trong giai đoạn toàn
cầu hóa hiện nay. Cơ chế này chính là điều kiện
cần thiết để bù đắp cho việc thiếu các yếu tố mang
tính động lực của các cảng biển miền Trung.
Chúng ta phải học tập kinh nghiệm từ nước Mỹ
trong việc trao quyền kiểm soát 6 thương cảng
quan trọng tại các thành phố lớn như New York,
Baltimore, Philadelphia... cho một công ty thuộc
sở hữu của chính phủ Các tiểu vương quốc ẢRập
thống nhất (UAE), Công ty Dubai Ports World.
Ngoài nguyên nhân chính trị, thì động lực lớn
đứng sau quyết định "dũng cảm" này của Nhà
Trắng chính là Dubai, gương mặt tiêu biểu trong
số 7 tiểu vương quốc thuộc UAE, với thương cảng
Dubai đang là ngôi sao sáng, thiên đường mua sắm
của thế giới và là điểm trung chuyển gần như chưa
thể thay thế giữa châu Á với châu Âu. Đến những
thương cảng lớn của nước Mỹ mà vẫn phải cần
đến động lực duy trì phát triển, thì yêu cầu đó đối
với các cảng biển miền Trung chắc là không thừa.
VI. Kết luận
Nói đến dải đất hẹp miền Trung, nhiều người cứ
nghĩ đó là vùng đất nghèo. Nhưng nếu có những
cảng biển nước sâu để hình thành những trung tâm
xuất nhập khẩu, những khu công nghiệp và dịch vụ,
chắc chắn sẽ tạo ra sức hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư trong và ngoài nước. Mặc dù kinh tế miền Trung
thời điểm hiện tại còn chưa tương xứng với tiềm
năng, việc phát triển cảng biển còn nhiều bất cập
nhưng vai trò động lực của cảng biển đối với sự phát
triển kinh tế miền Trung ngày càng thể hiện rõ. Biển
sẽ là cánh cửa mở ra thế giới, đưa kinh tế miền Trung
sánh ngang tầm với hai đầu đất nước. Vì vậy, việc có
những quyết sách trong quy hoạch và đầu tư để xây
dựng hạ tầng cảng biển một cách có hiệu quả là việc
làm cần thiết. Có như vậy hệ thống cảng biển mới đủ
sức mạnh để thực hiện vai trò là động lực quan trọng
trong phát triển kinh tế miền Trung.
Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Thị Bích, Nguyễn Văn Dương (2004), Địa
kỹ thuật biển và móng các công trình ngoài khơi, Nxb
Xây dựng, Hà Nội.
[2]. Trần Thị Mai, Trần Hữu Nghị (1997), Bảo vệ môi
trường biển, Nxb GD, Hà Nội.
[3]. Nguyễn Chu Hồi (2005),Cơ sở tài nguyên và môi
trường biển, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.
[4]. Vũ Trung Tạng (2004), Sinh thái học biển, Nxb
ĐHQGHN, Hà Nội.
[5]. Thế Trường (2001), Bí mật biển cả, Nxb Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
Summary
SEAPORT – MOTIVE POWER OF A MEDIUM AREA ECONOMIC DEVELOPMENT
A sea has a special role in economic development, it is a door to open up world of countries. The
Medium Area is a soil region about potentiality and advantage, moreover it is the only region of Vietname
that all provinces border on the East Sea. The Medium Area has got enough factors to develop fully a sea
economic foundation, specially a port economy. Currently, The Medium Area has 17 sea ports, inside there
are 3 level national seaports: Da Nang, Quy Nhon and Nha Trang seaport. The Medium Area seaports have
much potentiality to develop economy, specially to attract foreign investment and encourage domestic
investment. So the seaport keeps a role as motive power in economic development at the Medium Area.
52(4): 19 - 21 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 4 - 2009
19
PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỊA HÌNH
ĐÕN TAI BIẾN THIÊN NHIÊN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
Trần Viết Khanh (ĐH Thái Nguyên),
Nguyễn Thị Mây (Trường ĐH Sư phạm – ĐH Thái Nguyên)
I. Đặt vấn đề
Thái Nguyên là một tỉnh trung du - miền núi
với đặc trưng địa hình chủ yếu là đồi và núi thấp,
thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp và xây dựng
các công trình công nghiệp. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh thường xảy ra
các tai biến thiên nhiên như: lũ quét, trượt đất và sạt
lở đất. Các hiện tượng này đó ảnh hưởng không nhỏ
tới phát triển kinh tế - xã hội và đời sống người dân.
Để xác định mối liên quan giữa địa hình và tai biến
thiên nhiên, đề xuất những giải pháp xử lý và phòng
tránh tai biến thiên nhiên hiệu quả, chúng tôi đó tiến
hành nghiên cứu ảnh hưởng của địa hình tới cơ chế
xuất hiện tai biến, khoanh vùng nguy cơ tai biến
trong phạm vi tỉnh Thái Nguyên.
II. Các phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ và yêu cầu thực tế
chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
1) Điều tra, khảo sát thực địa
2) Phân tích ảnh vệ tinh
3) Phân tích địa chất - địa mạo.
III. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
1. Một số hiện tượng tai biến thiên nhiên xảy
ra trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
* Trượt đất và lở đất
Các khu vực tiềm năng phát sinh trượt, lở đất
tập trung chủ yếu ở nơi địa hình phân cắt mạnh
như khu vực núi Hồng, Tam Đảo[5], Võ Nhai,
vòng cung Phú Ngữ và dọc theo một số sông suối
của tỉnh Thái Nguyên. Tai biến trượt, lở đất xảy ra
ở địa bàn tỉnh Thái Nguyên không nhiều nhưng có
cường độ khá lớn và tập trung chủ yếu vào mùa
mưa [1], gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường
tự nhiên và đời sống kinh tế - xã hội. Điển hình
cho hiện tượng này có thể kể đến một số vụ trượt
đất như sau: Vụ trượt, lở đất ở đông nam Núi
Hồng thuộc huyện Đại Từ, xảy ra vào mùa hè năm
1995. Đó là vụ trượt đất lớn với khối lượng đất đá
di chuyển tới hàng nghìn tấn xảy ra ở vùng Đông
Bắc. Trượt đất diễn ra ở nơi địa hình có độ dốc khá
lớn, tạo nên một khối trượt khổng lồ, trượt từ trên
sườn núi xuống cánh đồng lân cận. Chiều rộng
khối trượt đạt tới 400m, quãng đường di chuyển dài
hơn 1000m. Các kết quả nghiên cứu khảo sát cho
thấy tại đây trong kỷ Đệ Tứ đã nhiều lần xảy ra nứt,
trượt đất [6]. Điều đó nói lên tính không ổn định về
mặt địa chất của các đá thuộc vòng cung Phú Ngữ.
Vụ trượt đất ở đồi Yên Ngựa (phía bắc thành
phố Thái Nguyên), xảy ra vào năm 1992. Một khối
đất, đá lớn trượt từ sườn đồi đó đè bẹp một đoạn
phố dài với hàng chục hộ dân. Đây là vụ trượt lở
đất gây nhiều xôn xao trong dư luận nhân dân và
các nhà khoa học. Qua nghiên cứu chúng tôi cho
rằng hiện tượng này xảy ra chủ yếu do điều kiện
địa chất mất tính ổn định dưới tác động của con
người. Đồi Yên Ngựa được cấu thành từ các đá
trầm tích lục nguyên tuổi Trias, các lớp đá có thế
nằm đơn nghiêng, bị đứt gãy kiến tạo chia cắt và
làm dịch chuyển trong điều kiện đất đá mềm bở
kết hợp với sự tăng tải trọng do vỏ phong hoá tích
trữ nước vào mùa mưa.
Trượt, lở đất còn xảy ra dọc theo các sông, suối
trong tỉnh [7]. Trọng lực đất đá và chế độ dòng chảy
của sông là nguyên nhân chủ yếu gây nên hiện
tượng này. Trong vùng nghiên cứu có 2 sông lớn là
sông Công và sông Cầu. Các con sông này có chế
độ dòng chảy không ổn định. Khi mưa lớn, lượng
nước mặt tăng lên kết hợp với độ dốc lớn của địa
hình làm cho chế độ dòng chảy thay đổi mạnh, gây
nên hiện tượng sạt lở hai bên bờ sông [2].
Ngoài ra, ở một vài nơi khác trong tỉnh Thái
Nguyên cũng xảy ra một số hiện tượng trượt, lở
đất tương tự. Đôi khi hiện tượng này còn xảy ra
dọc theo các tuyến quốc lộ đi các tỉnh bạn như
Tuyên Quang, Bắc Kạn, Lạng Sơn, gây ách tắc
giao thông, ảnh hưởng tới các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh.
* Lũ quét và các dòng bùn đá
Lũ quét và dòng bùn đá là loại hình tai biến
nguy hại nhất thường xuyên xảy ra ở nhiều nơi
trên lãnh thổ Thái Nguyên. Chúng có xu hướng gia
tăng cả về tần suất và cường độ. Theo Nguyễn Đình
Hòe, Nguyễn Thế Thôn [3], lũ quét xuất hiện khá
thường xuyên trên vùng núi phía bắc và tây bắc tỉnh
52(4): 19 - 21 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 4 - 2009
20
Thái Nguyên. Từ năm 1994 trở lại đây trung bình
xuất hiện 4 trận lũ/năm và diện tích bị tai biến huỷ
hoại khá lớn (đạt tới vài chục km2). Các vùng
thường xuyên bị ngập lụt do mưa lũ thường nằm ở
phía đông nam thành phố Thái Nguyên, phía tây
huyện Đồng Hỷ, Phổ Yên và các thung lũng giữa
núi. Các vùng bị ngập úng do lượng mưa lớn và khả
năng thoát nước kém là các thung lũng vùng núi đá
vôi ở các huyện Võ Nhai và Định Hoá. Các khu vực
thường xuyên xảy ra lũ quét, lũ ống, lũ bùn đá là ở
thượng nguồn các sông Chợ Chu, sông Nghinh
Tường và các phụ lưu của sông Công.
2. Ảnh hưởng của địa hình tới quá trình địa
động lực gây tai biến thiên nhiên ởThái Nguyên
Địa hình giữ vai trò quan trọng trong việc tạo
nên động lực di chuyển vật chất, phân phối, khống
chế, điều tiết các dòng chảy bề mặt [4]. Các đặc
trưng về độ cao và độ dốc của địa hình ảnh hưởng
trực tiếp tới các quá trình địa động lực làm xuất
hiện các tai biến thiên nhiên. Độ cao địa hình là
yếu tố quyết định tới thế năng của các khối đất đá.
Độ dốc bề mặt địa hình ảnh hưởng tới sự ổn định
các mỏi dốc, tạo nên các quá trình địa động lực
ngoại sinh (hoạt động trọng lực và hoạt động của
các dòng chảy). Có thể cho rằng địa hình, kết hợp
với cấu trúc địa chất, thành phần cơ giới của đất đá
và lớp phủ bề mặt quyết định đến cường độ, thời
gian, quãng đường di chuyển của các hoạt động
trọng lực và các hoạt động dòng chảy.
* Ảnh hưởng của địa hình tới hoạt động trọng lực
Dựa vào thời gian xảy ra các hoạt động trọng
lực, thời gian di chuyển vật liệu, chúng tôi chia ra
các quá trình trọng lực sau:
- Quá trình trọng lực nhanh
Hoạt động trọng lực nhanh xảy ra gây nên hiện
tượng đổ khối, đổ lở đất đá trên các sườn có độ
dốc lớn. Đây là những quá trình động lực xảy ra
nhanh, không ổn định, nguy hiểm, nhưng diện
phân bố không lớn [6]. Trên địa bàn Thái Nguyên
hoạt động này gặp phổ biến ở các khu vực kiểu địa
hình núi thấp cấu tạo bởi đá vôi bị karst hóa mạnh.
- Quá trình trọng lực trung bình
Liên quan với quá trình này là các hiện tượng
trượt khối, trượt chảy, trượt trôi vật chất trên bề
mặt địa hình. Trượt khối xẩy ra trên các sườn dốc
có độ dốc > 250, cấu tạo bởi các đá phiến sét phân
lớp, mặt phân lớp bị phong hóa, gắn kết yếu, mặt
lớp thường trùng với mặt dốc của sườn. Vào mùa
mưa cả khối đất đá trên sườn trượt theo mặt lớp và
di chuyển tương đối nhanh xuống phía dưới lấp
đầy đáy thung lũng. Quá trình động lực này gây nên
sự mất ổn định lớn cho địa hình và lớp vỏ phong
hóa trên mặt, gây nguy hiểm cho con người nhất là
khi có hoạt động của con người làm phá vỡ trạng
thái cân bằng tương đối của địa hình, đặc biệt là tại
chân công trình xây dựng và đường giao thông. Tai
biến này gặp trên các kiểu địa hình đồi cao, sườn lồi
- thẳng, đỉnh nhọn hẹp kéo dài dạng tuyến.
- Quá trình trọng lực chậm
Đây là quá trình chuyển động từ từ về phía
dưới của các sản phẩm phong hóa và lớp thổ
nhưỡng, xảy ra ở những nơi có độ ẩm cao, trên
sườn có vỏ phong hóa với chiều dày thay đổi
không đều nhau, tạo bề mặt gợn sóng theo luống
ngang và phủ tràn khắp sườn. Vào mùa mưa, các
vật liệu vụn của vỏ phong hóa và thổ nhưỡng bị
ngậm nước, trương nở. Ở những nơi vỏ phong hóa
dày thể tích của chúng tăng lên nhiều hơn cùng với
sự tăng khối lượng của chúng làm cho chúng bị
dịch chuyển xuống phía dưới.
Quá trình này chiếm phần lớn diện tích bề mặt
các sườn núi, chúng là các quá trình ngoại sinh
thống trị trên các kiểu địa hình núi và núi thấp.
* Ảnh hưởng của địa hình tới hoạt động dòng chảy
-Hoạt động xói rửa
Hoạt động xói rửa phát triển ở phần giữa, chân
sườn, nơi nước mưa chảy tràn tập trung lại thành
các dòng chảy nhỏ trên bề mặt, quá trình này là giai
đoạn phát triển tiếp theo quá trình nước chảy tràn và
tạo ra sự xói rửa bề mặt, mở đầu cho quá trình xâm
thực. Giai đoạn này, lớp thổ nhưỡng bắt đầu bị di
chuyển và xuất hiện các mương xói trên sườn.
- Hoạt động của dòng tạm thời
Trong phạm vi Thái Nguyên, dựa trên phân tích
địa hình - địa mạo, phân tích ảnh vệ tinh thì quá
trình này phát triển rộng rãi ở vùng Phúc Thuận,
Đại Từ và Quân Chu. Ở vùng đồi, dòng chảy tạm
thời ít gây ra sự cố môi trường, nhưng là nguyên
nhân chính tạo ra các mương xói làm thoái hóa đất.
- Hoạt động của dòng thường xuyên
Hoạt động của dòng chảy thường xuyên gây
nên hiện tượng xâm thực và bồi tụ. Hoạt động của
dòng chảy thường xuyên có thể gây ra gây ra hiện
tượng sau:
Hiện tượng úng ngập xảy ra ở các kiểu địa
hình thấp, ở búi bồi aluvi ven sông, các trũng giữa
núi, một số thung lũng và một vài cánh đồng karst.
52(4): 19 - 21 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 4 - 2009
21
Hiện tượng lũ quét, lũ bùn đá thường xảy ra ở
vùng chân núi, cửa sông, suối [5]. Điển hình cho
hiện tượng lũ bùn đá được quan sát tại Quân Cây
(Phúc Thuận, Phổ Yên). Lưu vực suối Quân Cây
gồm hai nhánh, Nhánh Ông có diện tích lưu vực
4,8km
2, nhánh Bà có diện tích lưu vực 2km2 , tổng
cộng lưu vực đến cửa ra là 8km2, độ dốc lòng suối
là 2%. Lưu vực nằm ở phía đông của sườn Tam
Đảo có độ dốc địa hình lớn, xấp xỉ khoảng 250. Về
thạch học bao gồm các đá sạn kết xen cát kết, bột
kết rất dễ mềm bở khi bị ngậm nước. Phía dưới
cửa ra của suối bị thu hẹp nên khó tiêu thoát dòng
chảy lũ, khi có mưa to rất dễ xảy ra hiện tượng lũ
quét và lũ bùn đá. Hình thái lòng dẫn của sông có
quan hệ chặt chẽ với cấu trúc địa chất và đặc điểm
địa hình. Ở những vùng núi cao, địa hình phân cắt
mạnh, các sông thường có lòng hẹp, bờ dốc, độ
dốc lòng sông lớn, nhưng phần lớn chúng chảy trên
đá gốc khá bền vững nên hiện tượng xói lở bờ ít xảy
ra. Ngược lại, khi sông chảy qua các trũng địa chất
hoặc những vùng địa hình thấp và tương đối bằng
phẳng lòng sông thường mở rộng, độ dốc giảm,
xuất hiện nhiều khúc uốn. Tại những vùng như vậy
hiện tượng bồi tụ và xói lở bờ sông thường xảy ra.
Đối với hiện tượng xói lở bờ sông, tương quan giữa
động lực dòng chảy và độ bền đá cấu tạo nên bờ
sông có vai trò quyết định[7]. Tuy nhiên động năng
của dòng sông được phân bổ khác nhau trên các
đoạn sông và có quan hệ mật thiết với bình đồ cấu
trúc Tân kiến tạo và hình thái dòng chảy của sông.
IV. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi cho rằng
các tai biến trượt đất, sạt lở bờ sông, lũ và lũ quét
xảy ra trên địa bàn Thái Nguyên chủ yếu gắn liền
với đặc điểm địa hình địa phương. Các tai biến này
xảy ra khi địa hình bề mặt, cấu trúc địa chất thuận
lợi cho sự di chuyển vật chất.
Các quá trình địa động lực ngoại sinh bao gồm
nhóm các hoạt động trọng lực là nguyên nhân chủ
yếu gây ra các tai biến nứt, trượt đất và tai biến sạt
lở bờ sông. Nhóm hoạt động dòng chảy là nguyên
nhân của tai biến lũ quét và lũ bùn đá.
Địa hình kết hợp với trọng lực đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo nguồn năng lượng làm
phá huỷ, di chuyển và tích tụ vật liệu. Với các quá
trình địa động lực ngoại sinh: nơi nào địa hình
phân cắt mạnh, núi cao, dự trữ thế năng vật chất
lớn tạo cho đất đá kém ổn định, sẽ là nơi tiềm tàng
nguy cơ trượt lở, đất. Với các quá trình dòng chảy,
địa hình đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển
tải lũ. Phụ thuộc đặc điểm địa hình mà lũ xuất hiện
nhanh hay chậm nên tính chất nguy hiểm của lũ
cũng khác nhau. Tuỳ thuộc vào địa hình dòng dẫn
mà tính chất lũ ở mỗi khu vực trên dòng sông có thể
khác nhau. Ở thượng nguồn thường xảy ra lũ quét
do độ dốc địa hình lớn. Biện pháp phòng chống ở
đây là bảo vệ rừng đầu nguồn, giảm dòng chảy tức
thời. Ở trung lưu, lũ thường mang tính chất lũ tràn,
gây sạt lở, phá huỷ hay bồi lắng làm biến đổi lòng
sông. Biện pháp phòng chống lũ là làm giảm dòng
chảy bằng việc xây dựng các hồ chứa, tìm kiếm khu
vực phân lũ. Ở vựng hạ lưu, lũ mang tính chất ngập
úng. Cần có biện pháp thoát nước, thường xuyên
nạo vét lũng sông để tạo cho nước thoát dễ dàng.
Tài liệu tham khảo
[1]. Lại Huy Anh và nnk, Nghiên cứu hiện trạng, dự
báo diễn biến một số loại hình thiên tai tỉnh Thái
Nguyên và đề xuất giải pháp phòng tránh khắc phục.
Kỷ yếu hội thảo khoa học địa lý, 2001.
[2]. Nguyễn Văn Cư và nnk, Nghiên cứu hiện trạng, dự
báo diễn biến một số loại hình thiên tai tỉnh Thái
Nguyên và đề xuất giải pháp phòng tránh khắc phục.
Báo cáo kết quả đề tài KHCN, 2001.
[3]. Nguyễn Đình Hòe, Nguyễn Thế Thôn, Địa chất
môi trường, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
[4]. Trần Trọng Huệ, Nghiên cứu đánh giá tổng hợp các
loại hình tai biến địa chất trên lãnh thổ Việt Nam và
các giải pháp phòng chống, Hà Nội , 2003.
[5]. Trần Viết Khanh “ Nghiên cứu quá trình phong
hóa vùng Đông Bắc Tam Đảo”, Tạp chí KH&CN
ĐHTN, số 2/1998.
[6]. Trần Viết Khanh, “Trầm tích đệ tứ và địa hình bồi
tụ vùng Đông Bắc Tam Đảo”, Tạp chí KH&CN ĐHTN,
số 5/1998.
[7]. Trần Viết Khanh, “Địa hình hình thành do hoạt
động của các dòng chảy trên mặt vùng Đông Bắc Tam
Đảo”, Tạp chí KH&CN ĐHTN, số 2/2001.
Summary
Thainguyen is a mountainous province with many kinds of landforms. In recent years, in this province had
happened many natural hazards. These hazards effect on the Scio – Economic development in Thainguyen
province. In this article, we study the relationship between each kind of landform and the reasons of natural
hazards.
52(4): 3 - 12 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 4 - 2009
22
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cang_bien_dong_luc_cua_su_phat_trien_kinh_te_mien_trung.pdf