Cái tôi tình yêu trong thơ trẻ Việt Nam 1965–1975 - Bùi Bích Hạnh

Sống trong hiện thực máu và súng luôn là nỗi đe dọa kinh hoàng, những tưởng các nhà thơ trẻ trong lòng đô thị miền Nam chỉ có thể trải mình trong cái tôi căm hận, oán thán; những tưởng xâm chiếm hết hồn thơ họ chỉ là những niềm đau chung đã ngấm lịm vào da thịt. Vậy mà trong tiếng lòng chung đó, người nghệ sĩ vẫn dành một góc nhỏ để trải nghiệm về trạng thái cô độc của hiện tại và xót xa hơn là tiên liệu về một khoảng thời gian định mệnh. Giọng thơ chùng xuống, đẫm buồn song cái tôi vẫn gắng gượng trong sắc giọng da diết nhớ. Giọng giằng xé của cái tôi cô độc như lạc đi trong nước mắt của chia li: Bây giờ những buổi chiều còn lại một mình / em có biết chăng đời tôi rồi sẽ có một sớm mai nào / ra đi không ngày trở lại / tôi vẫn nhớ em khi đêm tối về / âm thầm khóc trong chiếu chăn / những giọt lệ vàng thánh thiện như nước mắt chim khuyên (Những buổi chiều một mình - Thái Ngọc San). Lê Văn Ngăn - cây bút của phong trào học sinh sinh viên thành thị miền Nam - cũng mang nhiều dự cảm trong tình yêu. Trong hồn thơ của một người đang rơi vào tuyệt vọng, mây trời u ám là không gian của mòn mỏi đợi chờ: Anh sẽ lui về thành thị cũ / soi mắt em trong tấm gương mờ / ngó qua mái ngói mây trời đục / biết đến đêm này khuya có mưa (Bên hồ Thủy Ngữ). 3. KẾT LUẬN Cái tôi tự hát tình ca trong thời cả nước lên đường đầy đặn những cung bậc. Từ âm hưởng say mê của tình yêu lí tưởng, trong veo đến cung trầm của tình cảm đằm sâu thời chiến. Từ chút thầm thoảng trong những mối tình e ấp, ngượng ngùng đến cái ấm nóng của khối tình mặn mà, sâu chín. Từ niềm hạnh phúc của tình yêu chờ đợi, ngóng trông đến những bất hạnh, vỡ vụn của tình yêu mất mát. Từ niềm hạnh phúc tái sinh đến âu lo, dự cảm. Từ đổ vỡ đến yêu tin Dẫu tồn tại ở cung bậc nào, cái tôi tình yêu ấy cũng là biểu hiện sâu sắc cho cái tôi tự nghiệm của thế hệ trẻ. Đó là khát vọng thành thực của những người lớn lên từ mất mát chiến tranh. Hơn hết, tình yêu chính là vẻ đẹp tâm hồn của thời đại chống Mỹ. Dẫu lời tự hát ấy có những cung âm buồn của đổ vỡ, mất đau

pdf8 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 467 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cái tôi tình yêu trong thơ trẻ Việt Nam 1965–1975 - Bùi Bích Hạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế ISSN 1859-1612, Số 03(19)/2011: tr. 58-65 CÁI TÔI TÌNH YÊU TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965–1975 BÙI BÍCH HẠNH Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng Tóm tắt: Cái tôi tình yêu là một dạng thức của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965–1975. Cái tôi trữ tình mang dấu ấn thời đại, bởi vậy tình yêu trong cảm xúc và điểm nhìn của chủ thể trữ tình cũng chịu sự chi phối của yếu tố lịch sử, thời đại. Trong không khí lửa đạn, tình yêu cũng nhuốm sắc màu chiến tranh. Nỗi niềm riêng tư ấy theo người lính vào chiến trường, đi vào đời sống tâm hồn của cả một thế hệ như những bản tình ca nhiều cung bậc sâu kín nhất. Hiện thực nóng bỏng của chiến trường, cuộc sống chồng chất thăng trầm đã thấm vào những vần thơ tình. Cái tôi tình yêu trong thơ trẻ 1965–1975 được thể hiện dưới nhiều sắc thái đa dạng, tạo nên đặc trưng thơ tình thời chống Mỹ, đồng thời góp phần làm phong phú diện mạo cái tôi tình yêu trong thơ cách mạng. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Cái tôi độc thoại và đối thoại, cái tôi tự khắc họa chân dung thế hệ mình, cái tôi trải nghiệm hiện thực chiến tranh... là những biểu hiện làm nên cái tôi tự nghiệm trong thơ trẻ 1965-1975. Và cái tôi tình yêu trong thơ trẻ 1965-1975 là một dạng thức của cái tôi tự nghiệm. Trong không khí bom đạn, tình yêu cũng nhuốm sắc màu chiến tranh. Nỗi niềm riêng tư ấy theo người lính vào chiến trường, đi vào đời sống tâm hồn của cả một thế hệ như những bản tình ca nhiều cung bậc sâu kín nhất của đời sống nội cảm con người. Hiện thực nóng bỏng của chiến trường, chồng chất thăng trầm của cuộc sống thấm vào những vần thơ tình. Các nhà thơ trẻ lại miệt mài tự họa chân dung thế hệ, tự họa mình trong cánh đồng tình yêu mà thiếu cánh đồng đầy hương sắc ấy, nền văn học hiện đại sẽ phần nào trống trải. 2. NỘI DUNG Cái tôi trữ tình mang dấu ấn thời đại, bởi vậy tình yêu trong cảm xúc và điểm nhìn của chủ thể trữ tình cũng chịu sự chi phối của yếu tố lịch sử, thời đại. Đứng trước sự mất - còn của dân tộc, tình yêu trong thơ trẻ 1965–1975 được quan niệm trong một chiều sâu nhận thức mới. Đành rằng khoảng trời riêng tư của con người phần nhiều là tiếng thôi thúc của trái tim, song tình yêu trong các nhà thơ trẻ bấy giờ còn gắn với những ngẫm suy sâu sắc. Chính hoàn cảnh chiến tranh làm cho những đôi lứa yêu nhau vượt qua nỗi đau thầm kín, để cuối cùng con người thấy mình vẫn còn được khát khao, hi vọng. Điều cốt yếu nhất làm nên bản sắc tình yêu trong thơ trẻ thời chống Mỹ là khát vọng viên thành. Song ẩn sau những bản tình ca ngân nga đó còn là những khoảng buồn dồn chất. Đó là tiếng thơ “của một lứa tuổi trẻ gánh trên vai họ thử thách nặng nề nhất của cuộc chiến tranh, với những gian lao, hy sinh mà họ nếm trải đến tận cùng xương thịt” [1, tr. 137]. Chiến tranh tạo ra giằng xé, chia lìa; chiến tranh tạo ra những chênh chao, đợi mong, mòn mỏi CÁI TÔI TÌNH YÊU TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965-1975 59 Tiếng yêu trong trẻo, đằm thắm dường như là những cung bậc bàng bạc trên mảnh đất thơ tình 1965–1975. Các cây bút trẻ đến với tình yêu trong nhiều nguồn cảm xúc không trộn lẫn, làm nên mùa hoa tình yêu trong thơ chống Mỹ. Dịu dàng e ấp hay sẵn sàng bày tỏ; muốn được chở che và có khi lại là mái ấm Một thoáng không dám tỏ bày, chỉ có cái sôi nổi vụng về gửi vào hương hoa hay bối rối, thẹn thùa trong cái nhìn nhau không nói được thành lời là những bản tình ca trong trẻo của thơ tình chống Mỹ. Có một chút thầm thoảng trong anh và em, chỉ kịp giấu tình yêu vào mùi hương sâu kín. Vậy mà tình yêu dùng dằng, ngượng ngập lại len ngấm vào tận chiều dài nỗi nhớ: Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối / Anh không dám xin / cô gái chẳng dám trao / Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao / Không giấu được cứ bay dịu nhẹ (Hương thầm - Phan Thị Thanh Nhàn). Bên khung cảnh tỏ tình ý nhị ấy, thơ tình thời chống Mỹ còn khắc họa một không gian lãng mạn mà cũng đầy cái hổn hển mê say của tình yêu. Cái tôi rạo rực trước một khoảnh khắc dịu dàng, mê đắm: Từ môi mưa giọt xuống môi / nhấm chung một hạt mưa rơi mặn mà / áo em ướt lẫn vào da / tóc lẫn vào gió, gió là sợi tơ / mắt em trong đến ngây thơ / trong như nắng giữa mịt mờ mưa giăng (Mưa trong nắng, nắng trong mưa - Nguyễn Duy). Với hồn thơ đầy tiềm lực, Nguyễn Duy đã đánh thức dậy những cung trầm yêu thương tưởng mờ nhạt trong thơ tình đương thời. Tác giả nhiều lần thể hiện cái tôi tình yêu tự nghiệm đến nao lòng. Day dứt cái tôi là âm thanh bàn tay của người yêu, trong đó tôi xao lòng khi nhận ra bàn tay nhiều vết xước: Không thể nào quên một buổi chiều nao / tôi chợt biết tay em nhiều vết xước / ấy là lúc trong tay tôi rung lên ấm áp / bản nhạc không lời mười ngón tay em đan. Dẫu là thanh âm yêu thương đằm thắm hay đó là tiếng đàn thăng trầm bật lên từ cuộc đời dâu bể thì xoáy vào cái tôi vẫn là dấu vết của nhọc nhằn: Chưa sâu bằng đêm nay tôi nghe em/ tiếng đàn êm như tóc / tiếng lận đận mây trôi bèo dạt/ tiếng bàn tay mang vết xước thường ngày (Âm thanh bàn tay). Nỗi nhớ là cung bậc cồn cào nhất của tình yêu, nhất là tình yêu trong thời chiến, khi sự chia cách thậm chí là sự chia lìa luôn vây bủa con người. Nguyễn Đức Mậu lắng nghe trong gian hầm ngột ngạt, cách chia với thế giới bên ngoài tiếng khóc của những người con gái quắt quay trong nỗi nhớ người yêu. Nhà thơ tái hiện lại góc buồn trong tiềm thức của những thân phận tình yêu thời chiến: Tôi biết đêm nay ở những căn hầm / Các cô gái sẽ nói về mái tóc / Sẽ có người trong mơ ôm mặt khóc / Chợt nhớ về bàn tay người yêu / (Điệp khúc một con đường). Nguyễn Khoa Điềm có Những bài thơ tình viết trong chiến tranh với những lời đính hẹn, những ngày hạnh phúc thật dịu dàng, những khoảng trống chơi vơi: Sao nỗi nhớ / Lại làm mình xa đi / Và trở lại / Với mình? / Sao khổ đau không thể cắt nghĩa / Nào khác / Ngoài em? / Sao em cười và anh đánh mất mình trong mênh mông đôi mắt. Trong “tình về”, Đông Trình cũng trải vào thơ một nỗi nhớ đến dằn vặt. Cái tôi quay về miền kí ức với những mâu thuẫn, xáo động. Lời thơ giằng xé trong tiếng lòng tự vấn: Ngỡ người đã chết trong tôi / Nhưng trên đỉnh nhớ mây trời còn bay / Tôi thức đêm, tôi thức ngày / Ôi sao tôi lại tự đày đọa thân. Hoàng Thị Minh Khanh đã không giấu che cõi lòng của người phụ nữ. Cái tôi say đắm, hối hả tỏ bày nỗi nhớ với anh. Như thể chừng ấy cũng chưa thỏa cảm xúc đang dâng đầy. Cái tôi càng muốn bộc bạch, phơi trải, lời thơ càng sôi nổi, nồng nàn: Em nhớ anh không chỉ đêm trăng tỏ / Em nhớ anh không chỉ lúc mưa rơi (Nhớ). Chủ thể mạnh dạn BÙI BÍCH HẠNH 60 thú nhận cùng anh. Nỗi lòng ấy có chỗ trong cả những ngóc ngách tâm hồn. Xuân Quỳnh, người đàn bà từng ước trái tim mình là máu thịt để biết yêu anh cả khi chết đi rồi lại thể hiện nỗi nhớ ở một góc độ khác. Cái tôi trữ tình hóa thân vào con sóng bạc đầu, để được trải mình giữa bể tình vô tận. Cái tôi đắm trong con sóng tình tứ với nhiều cung bậc nỗi nhớ. Có khi dịu êm nương mình vào cát, có khi dâng lên như kéo cả bờ cát vào lòng biển sâu, cũng có khi thao thức trong nỗi nhớ bờ Cõi nhớ của người đàn bà phập phồng yêu đương trong Xuân Quỳnh là vậy. Mãnh liệt mà đằm sâu, đam mê mà dịu dàng Người nghệ sĩ không giấu được khát vọng ngàn đời của những trái tim yêu: Ôi con sóng nhớ bờ / Ngày đêm không ngủ được / Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức (Sóng). Khát vọng tình yêu mãnh liệt đến nỗi có khi cái tôi trữ tình thể hiện niềm nhớ thật phức tạp: Em khác chi con tàu / Nay đây rồi mai đó / Nên cả lúc gần anh / Mà lòng em vẫn nhớ (Con tàu - Xuân Quỳnh). Phải chăng đấy là cái lí của những hồn thơ quá đam mê yêu như Xuân Quỳnh. Dường như trái tim quá sức vì khát sống khát yêu và một cuộc đời nhiều chống chếnh, đổ vỡ đã thành hình trong thơ chị những khát khao tận cùng. Cái tôi trải mình trong nỗi nhớ thật cụ thể, gần gụi. Những ngày tháng hạnh phúc, bình yên dường như là khát thèm rất thành thực của người phụ nữ từng thấm nghiệm nỗi đợi chờ: Đây cửa sông, nơi anh ra biển Nơi anh về. Mong anh được bình yên Được bình yên trở lại cùng em Nhưng anh chỉ trở về trong những ngày bão tố (Một vùng cửa sông) Sự cách xa, chiều dài năm tháng tạo thành nỗi nhớ. Qua lăng kính đợi chờ của một thương binh, người nghệ sĩ đã lắng nghe được tiếng hạnh phúc của những ngày cách chia không thể trọn vẹn. Bởi ám ảnh trong tôi – nhân vật trữ tình – là mặc cảm có lỗi, xót xa cho lòng chung thủy còn nguyên vẹn dẫu ngày trở về trong tháng năm lửa đạn có khi là biền biệt: Tôi trở về quê hương Biết tám năm người yêu tôi vẫn đợi Lòng chung thủy làm tim tôi đau nhói Biết bao lần tôi lẫn trốn em (Anh thương binh kể chuyện – Lâm Thị Mỹ Dạ) Thiên tính của người phụ nữ là khát khao được nâng niu, vỗ về. Và trong thơ tình của những nhà thơ nữ 1965-1975, người đọc còn nhận ra một biểu hiện khác của thiên tính nữ. Đó là cảm giác muốn làm điểm tựa cho anh, được hát ru anh, được quan tâm chăm sóc, được ôm vào lòng mình nỗi niềm của anh. Lời căn dặn của chủ thể rất đỗi đằm thắm, dịu dàng: Sao không cài khuy áo lại anh / Trời lạnh đấy, hôm nay trời trở rét / CÁI TÔI TÌNH YÊU TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965-1975 61 Gió nhiều quá, phòng trở nên chật hẹp / Bụi mù ngoài đường phố ít người qua (Trời trở rét). Cái tôi ân cần, tình tứ. Tiếng thơ nhỏ nhẻ, như dỗ dành anh; như hàm bao lo lắng. Phải có một trái tim yêu thương đằm sâu, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh mới có những tình cảm ấm áp đến vậy. Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh còn chăm chút cho hạnh phúc lứa đôi bằng những giai điệu hát ru. Tự xưa, lời ru đã đi sâu vào tiềm thức của trẻ thơ trong những làn điệu hát ru con, là chiếc nôi đầu đời ngọt dịu nhất. Ở đây, lại xuất hiện lời ru của thế giới người lớn, lời ru đẫm giai điệu tình yêu. Có cả lo lắng, tận tụy; có cả thầm thì tình tứ: Anh không ngủ được ư anh? / Để em mở quạt, quấn mành lên cho / Lặng sao cái gió mặt hồ / Ghét sao cái nóng đầu mùa đã ghê! (Hát ru chồng những đêm khó ngủ). Cũng khao khát được trao gửi yêu thương, trái tim yêu trong một khúc tình ca của Thúy Bắc lại rút sợi nhớ để dệt nên cả một trời thương che chở cho người mình yêu. Cái tôi rơi vào trạng thái hối hả, nôn nao cốt chỉ mong làm người yêu hạnh phúc. Như chẳng còn cái khắc nghiệt của Trường Sơn. Chỉ còn lại khoảng không gian của bình yên bao phủ đến lạ thường: Rút sợi thương / Chắp mái lợp / Rút sợi nhớ / Đan vòm xanh / Nghiêng sườn đông / Che mưa anh / Nghiêng sườn tây / Xòe bóng mát / Rợp trời thương / Màu xanh suốt / Em nghiêng hết / Về phương anh (Sợi nhớ sợi thương). Tình yêu thời chống Mỹ thường gắn với những giai điệu sôi nổi, gắn với những nỗi niềm hòa quyện trong tình cảm lớn lao hơn, thiêng liêng hơn - tình yêu Tổ quốc. Và tình yêu cũng không xa rời hạnh phúc lứa đôi giản dị. Nhưng sau những bản tình ca đầy màu lạc quan ấy là một phía ẩn khuất những sắc thái rất thật của tình yêu. Đây là điều không thể phủ nhận khi đi vào vườn thơ tình của thế hệ thơ trẻ 1965-1975. Đó là nỗi đau không thể nén lại, là bi kịch đời tư. Những rạn vỡ, mất mát; những giằng xé, nghiêng ngả; những vết thương không liền da; những phấp phỏng đầy dự cảm dù chỉ rải rác ở một số hiện tượng thơ, đều tạo nên điểm nhấn trên khuôn mặt cái tôi thơ tình 1965-1975. “Thường thì cái tôi trữ tình trong thơ dễ bộc lộ trực tiếp trong trường hợp viết về chính bản thân mình và trong những quan hệ riêng tư. Với những loại đề tài này, cái tôi trữ tình trong thơ thường phổ biến là cái tôi của tác giả” [2, tr. 74]. Cái tôi trong thơ tình yêu Lưu Quang Vũ là hồn phách nhà thơ. Bằng cái tôi nội cảm, Lưu Quang Vũ gửi vào thơ niềm khắc khoải giữa tình yêu và số phận con người: Anh là con ong bay giữa trời lận đận / Trời đêm dài chẳng có một ngôi sao (Bầy ong trong đêm sâu). Chủ thể gần như thu mình vào cõi đơn độc: Hoa tìm mùa xuân suốt đời chẳng gặp / Anh suốt đời chẳng gặp sắc tầm xuân / Em hồn nhiên em chẳng biết anh buồn / Em cứ kể về loài hoa bé nhỏ / Những chùm hoa nở bừng trong gió / Những chùm hoa ngày cũ chết lâu rồi (Hoa tầm xuân). Cái tôi cô đơn đến tuyệt vọng. Không hiếm khi chủ thể nếm trải mình đến tự trào. Nhưng thẳm sâu vẫn là sự gắng gượng để nâng niu cái còn lại của tình yêu vụn vỡ: Dẫu anh mất nhà ga êm đẹp đó / Vẫn còn con tàu chuyển bánh đi xa / Anh đã mất ngôi sao trên mái nhà / Anh vẫn còn ngôi sao ngoài cửa sổ / Và nếu mất em rồi anh vẫn còn đôi mắt của em (Anh đã mất chi anh đã được gì). “Sự đầy đủ của cuộc đời con người là ở chỗ tìm thấy tình yêu, mặc dù tình yêu ấy có thể không ở lại cùng ta suốt đời” [3, tr. 54]. Cũng như những bạn thơ cùng thời, Lưu Quang BÙI BÍCH HẠNH 62 Vũ vẫn có những vần thơ tình thoảng hương ngọt ngào, dịu nhẹ đủ lay động những trái tim yêu. Song trên một chặng đường sáng tác, bút thơ ấy lại riêng mình rẽ lối. Hạnh phúc ngày thường đột ngột lìa bỏ như niềm đau thấm lịm vào trái tim yêu say nồng. Còn lại trong thơ là cái tôi cô quạnh, cái tôi ướt sũng cô đơn: Mai trong em anh thành cỏ lãng quên / Em chẳng nhớ chân trời anh khát vọng / Em chẳng nhớ lòng anh cơn gió nóng / Suốt cuộc đời cỏ đắng cỏ lãng quên (Dù cỏ lãng quên). Đôi khi đuổi theo những ảnh hình hư thực, cái tôi đau đến không thể chôn chặt lòng mình, rong ruổi đi tìm những vụn vỡ của kí ức: mặt em sáng trong gương tròn lấp lánh / giữa vật vã thương vong và thắng trận/ chập chờn sau khói đen / những hình ảnh không đầu không cuối / những ngày tháng những đồ dùng em chạm tới / anh lặng lẽ đi tìm/ những mảnh vỡ của tấm gương / dưới đáy hào ướt sũng (Em). Những góc khuất tâm trạng cũng là một phần trong thế giới nghệ thuật thơ Xuân Quỳnh, người phụ nữ khát khao được sống thật đầy cho tình yêu. Khi đón nhận những gãy đổ, mất mát, chủ thể rơi vào bi kịch. Cái tôi dằn dỗi. Không tìm thấy sự đồng điệu, cái tôi giằng xé trong cõi riêng mình trống trải: Thơ hạt cây vừa mới lên mầm / Khi anh đọc cây đã xoe tàn lá / Và cơn bão đắm tàu nơi biển cả / Lúc anh lo cơn bão đã tan rồi / Tôi viết về những cay đắng riêng tôi/ Khi anh xót tôi không còn khổ nữa (Về những bài thơ). Trong những lời thơ đầy trăn trở, cái tôi nhà thơ không dứt hoài nghi: Hạnh phúc đang còn, tình yêu đã mất (Về những bài thơ). Trái tim chị đâu chỉ có hướng về những khúc ru tình đằm thắm, đâu chỉ có phập phồng trong những âu yếm nồng say. Cái tôi trong vườn thơ Xuân Quỳnh có lúc òa vỡ: Một bến sông lạnh vắng / Một con đường nắng chang / Một ráng đỏ chiều hôm / Một tình yêu đã mất (Hoa ti - gôn). Sắc hoa một thời thấm đau như tim vỡ của T.T.K.H giờ lại thêm một lần ngấm chuyện tình buồn. Cái tôi rưng rưng trước sắc hoa rụng tàn, như nỗi đau tiễn biệt: Cánh hoa như lệ vỡ / Như máu vừa mới sa / Như ngàn vạn giọt mưa / Của nỗi buồn khôn dứt (Hoa ti - gôn). Bao cơn địa chấn trong đời, trong bao lần gồng mình vay trả cho những riêng tư tan vỡ làm hồn thơ ấy rung lên những phím ngậm ngùi. Kí ức rạn nứt chưa xa, màu hạnh phúc chưa kịp thắm lại đã mang vào thơ chị những tiếng khóc thầm cho phận mình, cho lỡ làng ngày son trẻ. Những đoạn đời đứt gãy rồi chắp nối đã làm đau trái tim người phụ nữ đa đoan. Con người từng thảng thốt gọi tìm cánh chuồn báo bão đâu dễ vùi sâu nỗi đau riêng. Lời thơ vì thế khắc khoải hơn, day diết hơn trong nỗi buồn tự vấn: Tôi cứ đi tìm mãi bản thân mình / Cũng có thể suốt đời chưa thấy hết (Trở lại mình). Có phải Xuân Quỳnh là “nhà thơ của cái đẹp lâm nguy”? (Chu Văn Sơn). Những năm tháng không yên, những nỗi lo chằng chịt bão bom, cách trở dường như đeo đẳng chị như một định mệnh. Và thắc thỏm, nơm nớp, âu lo là những trạng thái tất yếu của một con người sớm mang nỗi sợ đơn côi. Cõi đa mang ấy như góp vào âm vang thơ tình thời đạn lửa một nốt buồn thao thiết. Cái mong manh, chông chênh của niềm hạnh phúc thường làm trăn trở hồn thơ Xuân Quỳnh. Sự nhạy cảm của người phụ nữ đam mê yêu càng đẩy cái tôi đến với những day trở phức tạp: Em đi suốt đời em / Theo nỗi buồn anh ra biển cả / Nơi ngàn năm sóng vỗ / Nỗi buồn anh trên bờ đá hoang sơ / Nỗi buồn anh như đảo đứng chơ vơ / Giữa sóng CÁI TÔI TÌNH YÊU TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965-1975 63 nước giữa bốn bề bão gió (Nỗi buồn anh). Đeo đẳng tâm thức người nghệ sĩ là nỗi buồn anh chạy dọc một đời bể dâu. Đây không chỉ là tâm thế dự báo mà chủ thể còn như muốn cất lên lời nguyện: hạnh phúc đích thực đôi khi phải gồng gánh cả những buồn đau, duyên phận cùng với cả những buồn thương. Người phụ nữ ấy nhiều khi xoay trở với mặc cảm tình yêu chất chứa nhiều gam buồn. Hoài nghi vào tình yêu cũng chính bởi chị mong chờ nhiều quá, ước ao nhiều quá. Vì thế những dự cảm âu lo là một trạng thái rung động rất đời thực của Xuân Quỳnh. Ngay cả trong khoảng thời gian đong đầy hạnh phúc, những vết thương đời tư đã được khâu lành, người thơ càng ám ảnh về cái mong manh, tròng trành. Tác giả tự hát với một chuỗi những bồn chồn, khắc khoải, thậm chí hoảng loạn trước dự cảm chia xa: Em lo âu trước xa tắp đường mình / Trái tim đập những điều không thể nói / Trái tim đập cồn cào cơn đói / Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn (Tự hát). Chính trạng thái âu lo, thấp thỏm càng đeo đẳng, những trái tim yêu càng khát khao được sống mãi với tình yêu. Xuân Quỳnh - người đàn bà của định mệnh khát yêu – đã có một cách sở hữu tận cùng cõi yêu tưởng thật giản dị song đó là nỗi ngấm nghiệm đánh đổi bằng cả một đoạn đời được - mất: Em trở về đúng nghĩa trái tim em / Là máu thịt đời thường, ai chẳng có / Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa / Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi (Tự hát). Cái tôi từng trải thấm thía một triết lí về tình yêu, đó là nhịp đập vĩnh cửu của những trái tim đam mê yêu ngay cả sau cõi chết. Cùng mang nặng trái tim yêu day diết, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng không thoát mình ra khỏi những phấp phỏng, âu lo, hờn trách. Dù ở chặng thơ trước 1975, hồn thơ ấy chưa thật xáo động với những tiếng lòng nức nở, với những cháy lòng khao khát, những khoảnh khắc giật mình, hoang vắng... Song bản năng yêu của người phụ nữ trong thơ chị giai đoạn này vẫn xốn xang với những nỗi sợ thật đáng yêu: Một nỗi lo âu / Buốt trong ngực trẻ / Lời anh ngọt ngào / Lòng em đau xé (Em sợ). Trước những lời ngọt ngào của nhân vật trữ tình anh, em dường như không lấy đó là hạnh phúc. Bởi trong em là những nếp buồn của một thời son trẻ. Cái tôi dằn vặt trong thắc thỏm trước thời gian, tuổi xuân đời người. Sau những lần va đập với được - mất trong tình yêu, con người càng sợ hạnh phúc rời xa mình. Âu cũng là điều dễ lí giải, đó là tâm lí thường trực của con người quá nâng niu những giá trị có lại trong đời. Hơn thế, khi bất hạnh chưa kịp đi ra khỏi cuộc đời thì niềm vui tái sinh dường như không trọn vẹn. Với người sáng tạo nghệ thuật thì sự linh cảm trở thành ám ảnh; là tiên giác, tiên nghiệm. Thơ tình Lưu Quang Vũ gắn chặt với tâm thế chỉ mới bắt đầu những ngày đẹp nhất trong khi thời gian cứ vô tình bỏ rơi con người. Đứng trước tình yêu đã nhuộm màu thấm thía thì dự cảm thực sự ám ảnh thế giới thơ Lưu Quang Vũ. Cái tôi rơi vào chênh chao: Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa / Thương vườn cũ gãy cành và rụng lá / Áo em ướt để anh buồn khóc mãi / Ngày mai chúng mình ra sao em ơi (Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa). Phải chăng tất cả là những tiên liệu định mệnh? Nhiều khi Lưu Quang Vũ đứng mấp mé ở cảm giác sắp chia lìa ngay trong những ngày đang sống: Tất cả ở đây đều chưa định / Cuộc đời như sắp sửa đi xa (Viết cho em từ cửa biển). Chưa nguôi ám ảnh về hạnh phúc gia đình một lần nghiêng ngả, có lúc, cái tôi nghi ngờ cả đến những điều thật nhất: Chẳng lời ru nào làm anh yên lòng cả / Anh nghi ngờ cả đến giọt sương rơi (Những ngày chưa có em). Niềm bi quan ấy có thể dễ dàng lí giải. Khi một thời xa xót vẫn chưa đi ra khỏi cuộc đời, con người không BÙI BÍCH HẠNH 64 dễ lấy lại tin yêu. Lưu Quang Vũ lại vốn chỉ tin vào những gì từng trải nghiệm; vì thế trong con người thơ là bao linh cảm mơ hồ: Cậu bé con đôi mắt ngây thơ / Đã đánh mất kho vàng và tiếng hát / Anh bỏ hồ trong, bỏ vườn cây mát / Đi tìm chân trời nhưng chỉ thấy cô đơn (Những ngày chưa có em). Đi qua những bức tường gạch vỡ, những bãi nền đổ nát, những tháng ngày rơi vãi, thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ lại có những suy cảm về hạnh phúc thật giản dị. Có lẽ thật hiếm ngòi bút nào trong địa hạt thơ tình chống Mỹ lại đi đến tận cùng bản sắc tình yêu như bút thơ Lưu Quang Vũ. Những bông hoa không chết bao giờ không chỉ là suy nghiệm của Lưu Quang Vũ về chiến tranh, về cái chết của đồng đội trong đối cực mất - còn nghiệt ngã của chiến tranh mà đó còn là hạnh phúc trở về, là tình yêu vĩnh cửu. Tiếng thơ tình yêu đầy bão động ấy vẫn không yên với di chúc tình yêu. Nhân hậu biết bao khi đó chính là chân trời - hiện thân của ước mơ một đời chưa thỏa nguyện, là lòng yêu vẫn còn đương khát, là hạnh phúc dở dang: Em cần gì giếng lạnh / Tâm hồn anh cô quạnh dưới lòng sâu / Ngẩng lên biền biệt mây cao / Cuộc đời thăm thẳm / Tình anh như cỏ lau / Tìm nhau trên đất vắng / Nơi ấy em về mưa sẽ tạnh / Hoa cúc nở vàng trên cánh tay (Không đề). Sống trong hiện thực máu và súng luôn là nỗi đe dọa kinh hoàng, những tưởng các nhà thơ trẻ trong lòng đô thị miền Nam chỉ có thể trải mình trong cái tôi căm hận, oán thán; những tưởng xâm chiếm hết hồn thơ họ chỉ là những niềm đau chung đã ngấm lịm vào da thịt. Vậy mà trong tiếng lòng chung đó, người nghệ sĩ vẫn dành một góc nhỏ để trải nghiệm về trạng thái cô độc của hiện tại và xót xa hơn là tiên liệu về một khoảng thời gian định mệnh. Giọng thơ chùng xuống, đẫm buồn song cái tôi vẫn gắng gượng trong sắc giọng da diết nhớ. Giọng giằng xé của cái tôi cô độc như lạc đi trong nước mắt của chia li: Bây giờ những buổi chiều còn lại một mình / em có biết chăng đời tôi rồi sẽ có một sớm mai nào / ra đi không ngày trở lại / tôi vẫn nhớ em khi đêm tối về / âm thầm khóc trong chiếu chăn / những giọt lệ vàng thánh thiện như nước mắt chim khuyên (Những buổi chiều một mình - Thái Ngọc San). Lê Văn Ngăn - cây bút của phong trào học sinh sinh viên thành thị miền Nam - cũng mang nhiều dự cảm trong tình yêu. Trong hồn thơ của một người đang rơi vào tuyệt vọng, mây trời u ám là không gian của mòn mỏi đợi chờ: Anh sẽ lui về thành thị cũ / soi mắt em trong tấm gương mờ / ngó qua mái ngói mây trời đục / biết đến đêm này khuya có mưa (Bên hồ Thủy Ngữ). 3. KẾT LUẬN Cái tôi tự hát tình ca trong thời cả nước lên đường đầy đặn những cung bậc. Từ âm hưởng say mê của tình yêu lí tưởng, trong veo đến cung trầm của tình cảm đằm sâu thời chiến. Từ chút thầm thoảng trong những mối tình e ấp, ngượng ngùng đến cái ấm nóng của khối tình mặn mà, sâu chín. Từ niềm hạnh phúc của tình yêu chờ đợi, ngóng trông đến những bất hạnh, vỡ vụn của tình yêu mất mát. Từ niềm hạnh phúc tái sinh đến âu lo, dự cảm. Từ đổ vỡ đến yêu tin Dẫu tồn tại ở cung bậc nào, cái tôi tình yêu ấy cũng là biểu hiện sâu sắc cho cái tôi tự nghiệm của thế hệ trẻ. Đó là khát vọng thành thực của những người lớn lên từ mất mát chiến tranh. Hơn hết, tình yêu chính là vẻ đẹp tâm hồn của thời đại chống Mỹ. Dẫu lời tự hát ấy có những cung âm buồn của đổ vỡ, mất đau CÁI TÔI TÌNH YÊU TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965-1975 65 riêng tư thì đó cũng là tiếng yêu chân thực mà trong hoàn cảnh chiến tranh buộc con người nén lại. Mỗi biểu hiện của cái tôi tình yêu làm nên sắc diện riêng của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965-1975. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Vũ Tuấn Anh (1997). Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945-1995 (Nhìn từ phương diện sự vận động của cái tôi trữ tình). NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. [2] Hà Minh Đức (1998). Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại. NXB Giáo dục, Hà Nội. [3] Lưu Khánh Thơ (2001). Lưu Quang Vũ - Tài năng và lao động nghệ thuật. NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội. Title: THE EGO OF LOVE IN VIETNAM’S YOUTH POETTRY (1965–1975) Abstract: Ego of love is one form of the lyrical ego in the Vietnam’s youth poetry 1965-1975. The lyrical ego bears the hallmark of age, that’s why love in the emotion and point of look of the lyrical subject is affected by history, age factor as well. In fire and sword, love is also coloured war. The innermost feelings followed the soldiers’ steps to battlefield, going into the spiritual life of the whole generation like love songs with the most deeply tones. The love verses was imbured with the burning reality of battlefield, the life heaped up vicissitudes. The ego of love in Vietnam youth poetry 1965-1975 was expressed in many nuance making the specific characteristics for love poems in the anti-American time as well as contributing to enrich the performance of the lyrical ego of revolution poetry. ThS. BÙI BÍCH HẠNH Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng Địa chỉ: 257/51 Phan Châu Trinh, Quận Hải Châu, TP Đà Nẵng Email: thachthao111@gmail.com. ĐT: 0914.089.560

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf14_200_buibichhanh_10_bui_bich_hanh_9713_2020983.pdf
Tài liệu liên quan