Cách tiếp cận Marketing trong thu hút FDI

Cách tiếp cận Marketing trong thu hút FDI∗ Mai Thế Cường Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) và Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) Tháng 2 năm 2005 Bài viết này xem xét hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam trên quan điểm marketing và đưa ra một số gợi ý nhằm cải thiện hoạt động này. Phần 1 giới thiệu các biến số cơ bản của marketing và cách diễn giải khi vận dụng vào việc thu hút FDI. Phần 2 chỉ ra các vấn đề tồn tại trong hoạt động thu hút FDI của Việt Nam. Phần 3 đề xuất các bước đi nhằm xây dựng và tăng cường chiến lược thu hút FDI của Việt Nam. I. Marketing dưới góc độ thu hút FDI Tại Việt Nam, thuật ngữ “marketing” thường được dịch là “tiếp thị.” Tuy nhiên, thuật ngữ bằng tiếng Việt không thể hiện đầy đủ nội dung nên việc sử dụng từ gốc “marketing” tương đối phổ biến. Ý tưởng cơ bản của thuật ngữ ‘marketing’ có thể nói đơn giản là cung cấp cái thị trường cần chứ không phải cái mình có. Cách hiểu này, nói chung, được thừa nhận rộng rãi giữa các nhà hoạch định chính sách, giới doanh nghiệp và các nhà nghiên cứu. Thực tiễn thiết kế và thực hiện các chính sách kinh tế lại không như vậy. Một số câu hỏi phổ biến của các nhà hoạch định chính sách là chính phủ nên đóng vai trò như thế nào và chính phủ nên thực hiện hành độg cụ thểđểđạt được mục tiêu. Câu trả lời thường không thống nhất và do đó dẫn đến tình trạng thiếu rõ ràng và thiếu ổn định của chính sách. Chính sách thu hút FDI cũng không phải là một ngoại lệ. ∗ Tác giả chân thành cảm ơn GS.TS Kenichi Ohno, TS. Nguyễn Thị Tuyết Mai và Ths. Tăng Văn Khánh đã góp ý cho tác giả trong quá trình thực hiện bài viết này. Tác giả xin cảm ơn các cơ quan nhà nước Việt Nam (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, Bộ Bưu chính Viễn thông, Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội, Sở Công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc, Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc); đồng nghiệp tại Đại học Kinh tế Quốc dân và Diễn đàn phát triển Việt Nam; và các doanh nghiệp, cá nhân đã tham gia các cuộc hội thảo, thảo luận và trao đổi trong năm 2004. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của bài viết này. 1

pdf29 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1853 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cách tiếp cận Marketing trong thu hút FDI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng. Vậy sản phẩm là gì khi chúng ta bàn về việc thu hút FDI? Phải chăng đó là chính sách, lợi ích của chính sách, hay là môi trường kinh doanh? Sáng kiến chung Việt - Nhật (2003) đã đưa ra câu trả lời rất rõ ràng. Sản phẩm không phải là bản thân chính sách thu hút FDI mà là môi trường đầu tư. Bài viết này đồng tình với với câu trả lời như vậy. 6 Định vị: Theo giáo sư Sidel, “Định vị là điều chúng ta nói với khách hàng. Định vị giúp xây dựng hình ảnh về giải pháp chúng ta cung cấp bao gồm việc sản phẩm đáp ứng loại nhu cầu và mong ước nào, giá trị nào mà sản phẩm mang lại” (Sidel 2002). Nói cách khác, định vị liên quan đến những suy nghĩ mà chúng ta muốn khách hàng có được về sản phẩm. Chính phủ cần tìm hiểu những đánh giá của nhà đầu tư nước ngoài về môi trường đầu tư của Việt Nam. Để việc định vị hiệu quả, chính phủ cần chủ động phân tích điểm mạnh và điểm yếu của Việt Nam so với các quốc gia khác và quyết định một con đường thực tế để cải thiện hình ảnh đầu tư của Việt Nam trong suy nghĩ của các nhà đầu tư. “Định vị phù hợp” có ý nghĩa quan trọng hơn là “định vị cao.” Thiết lập các mục tiêu quá tham vọng sẽ làm giảm tính khả thi khi thực hiện và tính tin cậy trong con mắt các nhà đầu tư tiềm năng. Khách hàng mục tiêu: Các nhà đầu tư nước ngoài cần được phân loại. Việc phân loại có thể dựa trên các tiêu thức như quốc tịch của nhà đầu tư, ngành kinh doanh, dạng công ty (đa quốc gia hay không phải đa quốc gia), chiến lược theo đuổi (khai thác thị trường nội địa hay khai thác thị trường quốc tế). Chính phủ không thể lúc nào cũng làm hài lòng tất cả các nhà đầu tư. Lợi ích của môi trường đầu tư cần tập trung vào các nhà đầu tư mục tiêu2. Các địa phương khác nhau có thể tập trung khai thác các khách hàng mục tiêu khác nhau. Hà Nội hoan nghênh mọi nhà đầu tư nhưng tập trung vào các nhà đầu tư trong lĩnh vực tài chính và dịch vụ. Tương tự, Vĩnh Phúc tuy khẳng định mọi nhà đầu tư đều là nhà đầu tư mục tiêu nhưng thực tế Vĩnh Phúc tập trung thu hút các nhà đầu tư ở các thành phố nhỏ của nước ngoài hơn là ở thủ đô vì các thủ đô nước ngoài thường đón tiếp rất nhiều các đoàn đại biểu kêu gọi đầu tư (Dam 2004). Bên cạnh đó, Vĩnh Phúc cũng không tập trung thu hút các doanh nghiệp hướng vào xuất khẩu vì tỉnh không có lợi thế so sánh trong lĩnh vực xuất khẩu cũng như xuất khẩu không mang lại nhiều lợi ích cho tỉnh như với các địa phương khác. Phạm vi phân phối: Trong thuật ngữ marketing, phạm vi phân phối là quy trình và địa điểm mà khách hàng có thể mua sản phẩm. Diễn giải trong thu hút FDI, phạm vi phân phối cần được hiểu là địa điểm và 2 Một số người có thể phản đối quan điểm này vì cho rằng, về mặt nguyên lý, chính phủ nên tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng và không phân biệt đối xử. Tác giả cũng đồng tình như vậy song bởi vì các nhà đầu tư khác nhau thu được lợi ích khác nhau từ cùng một môi trường đầu tư “không phân biệt đối xử” nên trên thực tế khó có thể tạo ra một môi trường kinh doanh hoàn toàn trung tính. 7 quy trình mà nhà đầu tư có thể đăng ký và triển khai dự án đầu tư tại Việt Nam. Hiện tại, các nhà đầu tư có thể đăng ký đầu tư tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân thành phố, các khu công nghiệp tuỳ thuộc vào khối lượng đầu tư và ngành đầu tư. Việt Nam đã cải thiện đáng kể quy trình cấp giấy phép đầu tư. Chẳng hạn, để đầu tư vào Hà nội, nhà đầu tư chỉ phải đợi 7 ngày để nhận giấy phép đầu tư nếu dự án thuộc diện đặc biệt khuyến khích, 15 ngày nếu dự án thuộc diện khuyến khích và 21 ngày đối với mọi dự án (Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, 2004). Các nhà đầu tư vào khu công nghiệp Việt Nam – Singapore ở Bình Dương thậm chí chỉ phải đợi 7 ngày để có giấy phép đầu tư bất kể dự án thuộc ngành nào. Nhận được giấy phép đầu tư mới chỉ là bước đầu tiên trong việc triển khai dự án đầu tư. Các nhà đầu tư mong muốn thực hiện kế hoạch kinh doanh và thu được lợi nhuận. Việt Nam cần phải cải thiện dịch vụ sau đầu tư để đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư sau khi họ đã đến Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể về công tác tuyên truyền đầu tư cũng như đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép song các nhà đầu tư đã có mặt tại Việt Nam phàn nàn rằng chính sách của chính phủ còn thiếu ổn định và không rõ ràng. Thậm chí một số ý kiến còn nói đùa rằng Việt Nam đang thực hiện chính sách “một cửa” nhưng trên cửa vẫn còn “nhiều khoá”. Thực tế này khiến cho các doanh nghiệp FDI không muốn mời gọi các nhà đầu tư khác đến với Việt Nam. Lý thuyết marketing cho thấy chi phí của việc thu hút một khách hàng mới thường cao hơn chi phí để cổ vũ khách hàng hiện tại lặp lại hành vi mua. Nếu lý thuyết là đúng trong trường hợp thu hút FDI thì các doanh nghiệp FDI đã có mặt tại Việt Nam có nhiều khả năng sẽ mở rộng dự án tại Việt Nam và mời gọi các nhà đầu tư khác đến với Việt Nam. Vậy các yếu tố nào của dịch vụ sau đầu tư sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư đến với Việt Nam? Trước hết, các các cơ quan nhà nước cần có sự phối hợp toàn diện và sâu sắc hơn trong việc trợ giúp, chứ không phải gây khó khăn, cho các nhà đầu tư triển khai và vận hành công việc kinh doanh như giải toả mặt bằng, thuế, thủ tục báo cáo, thủ tục hải quan, ... Một vấn đề quan trọng khác đó là xây dựng một khung chính sách rõ ràng bao gồm một quy hoạch công nghiệp tổng thể, các quy hoạch ngành và kế hoạch thực hiện các chính sách hỗ trợ3. Phạm vi truyền thông: Phạm vi truyền thông là cách thức và địa điểm mà thông điệp định vị được gửi tới các khách hàng mục tiêu. Như đã đề cập đến ở trên, các nhà đầu tư bao gồm các nhóm khác nhau do đó sau khi đã xác định được nhà đầu tư mục tiêu, chính phủ cần đưa ra các chương trình truyền thông mang thông điệp về môi trường đầu tư truyền tải tới các nhà đầu tư mục tiêu. Các chương trình truyền thông cần phù hợp và trợ giúp thông điệp về định vị. 3 Một nhà quản lý cấp cao ở một công ty tiếp vận quốc tế cho rằng thủ tục hải quan của Việt Nam vẫn còn phức tạp. Hơn nữa, giờ làm việc chỉ đến 4.30 chiều. Dịch vụ hải quan nên là dịch vụ 24 giờ/ngày.. 8 Wells và Wint (1991) miêu tả ba dạng kỹ thuật xúc tiến mà các quốc gia sử dụng như sau: (i) các kỹ thuật xây dựng hình ảnh; (ii) các kỹ thuật tạo nguồn đầu tư; và (iii) các kỹ thuật dịch vụ đầu tư. Các kỹ thuật này được sử dụng trong các chương trình truyền thông. Một số quốc gia như Malaysia, Thái Lan và Singapore đã xây dựng được hình ảnh rõ ràng về địa điểm đầu tư. Các quốc gia này giờ đây không còn tập trung vào việc tạo dựng hình ảnh nữa mà thay vào đó là tập trung tạo nguồn đầu tư như Cơ quan Phát triển Công nghiệp Malaysia (MIDA), Hội đồng đầu tư Thái Lan (BOI) và Hội đồng Phát triển Kinh tế Singapore (EDB). Hình ảnh đầu tư của Việt Nam còn chưa rõ ràng và gây tranh cãi cho nên Việt Nam vẫn cần nỗ lực tạo dựng hình ảnh. Bảng 1. Các kỹ thuật xúc tiến đầu tư Các kỹ thuật xây dựng hình ảnh Các kỹ thuật tạo nguồn đầu tư Các kỹ thuật dịch vụ đầu tư 1. Quảng cáo trên các phương tiện truyền thông chung 2. Tham gia các cuộc triển lãm, hội thảo đầu tư 3. Quảng cáo trên các phương tiện tuyên truyền riêng của ngành hoặc khu vực 4. Các đoàn khảo sát tới nước có nguồn đầu tư và từ các nước đầu tư tới nước sở tại 5. Hội thảo thông tin chung về cơ hội đầu tư 6. Tham gia các chiến dịch qua điện thoại hoặc thư tín trực tiếp 7. Phái đoàn tham quan riêng về ngành hoặc khu vực từ nước đầu tư sang nước sở tại và ngược lại 8. Hội thảo thông tin về ngành hay một khu vực cụ thể 9. Tham gia nghiên cứu những công ty cụ thể 10. Cung cấp các dịch vụ tư vấn đầu tư 11. Xem xét giải quyết các đơn xin đầu tư và giấy phép đầu tư 12. Cung cấp các dịch vụ sau đầu tư Nguồn: Trích dẫn từ Wells và Wint (1991). Một số kỹ thuật đầu tư đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các tỉnh và khu công nghiệp sử dụng. Tuy nhiên, các kỹ thuật này thường được sử dụng độc lập mà không được kết hợp như một tổng thể các biện pháp. Về mặt nguyên lý, chính phủ cần đưa ra những thông tin hữu ích và tin cậy trong đó phản ánh đầy đủ chính sách của Việt Nam về thu hút FDI. Chính phủ cũng cần chắc chắn rằng mình đang nói những điều mà các doanh nghiệp thực sự muốn nghe. Chẳng hạn, nếu Việt Nam tập trung mời gọi đầu tư từ các công ty đa quốc gia trong lĩnh vực điện tử nhằm biến Việt Nam thành một 9 địa điểm sản xuất hàng điện tử của ASEAN thì các công ty như Canon, Sony, Matsushita, Philips, LG và Samsung cần phải biết về mong muốn này của chính phủ và các công ty này phải được cung cấp thông tin về các thế mạnh của Việt Nam cũng như các cam kết của Việt Nam để đạt được điều này thông qua các cuộc hội thảo, thảo luận và đặc biệt là quy hoạch phát triển ngành điện tử. Phần này đề xuất ý kiến cho rằng chính phủ nên coi nhà đầu tư là khách hàng và hiểu một cách đầy đủ hành vi của họ. Các biến số marketing cơ bản như sản phẩm, định vị, khách hàng mục tiêu, phạm vi phân phối, phạm vi truyền thông đã được luận giải dưới góc độ thu hút FDI. Năm biến số marketing được diễn giải này có thể giúp các nhà hoạch định chính sách xây dựng và thực thi kế hoạch thu hút FDI. Các bước cụ thể của kế hoạch này sẽ được đề cập đến ở phần 3 song trước đó phần 2 sẽ thảo luận về những tồn tại trong việc thu hút FDI ở Việt Nam. 10 II. Hai tồn tại cơ bản của việc thu hút FDI ở Việt Nam Trong một vài năm qua, Việt Nam đã tổ chức nhiều diễn đàn giữa doanh nghiệp và chính phủ, thực hiện các hoạt động tuyên truyền, xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Mặc dù Việt nam có đầy đủ tiềm năng để thu hút khối lượng lớn FDI phục vụ công nghiệp hoá (Ohno, 2004) song số lượng các dự án, vốn đăng ký và vốn triển khai vẫn tương đối nhỏ và lên xuống hàng năm. Hình 1. FDI vào Việt Nam Nguồn: Vietnam Economic Times (1/2005). Như đã đề cập đến ở trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) hiện đang tham khảo những đề xuất từ nghiên cứu của MPI và JICA (2003). Xem xét chính sách thu hút FDI của Việt Nam trên cơ sở sử dụng năm biến số marekting giới thiệu ở trên, chúng tôi thấy rằng việc thu hút FDI của Việt Nam có hai tồn tại cơ bản sau: (i) tuyên bố định vị không rõ ràng; và (ii) các chương trình xúc tiến và truyền thông kém hiệu quả. 1. Tuyên bố định vị không rõ ràng Việt Nam đang định vị là điểm tiếp nhận FDI như thế nào? Câu hỏi này chưa được trả lời rõ ràng. Việt Nam muốn trở thành quốc gia phân tán rủi ro khi nhà đầu tư đã đầu tư vào Trung Quốc? Việt Nam muốn là cơ sở sản xuất chi phí thấp nhất ASEAN? Việt Nam muốn là quốc gia có chính sách thu hút FDI ổn định nhất ASEAN? Việt Nam sẽ là địa bàn có tỷ lệ lợi nhuận biên cao nhất trên thế giới? 0 1000 2000 3000 4000 5000 6000 7000 19 97 19 98 19 99 20 00 20 01 20 02 20 03 20 04 Tr iệ u đô la M ỹ Đầu tư bổ sung Đầu tư mới Vốn triển khai 11 Chính phủ Việt Nam đưa ra một loạt yếu tố sau như là điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài: (i) ổn định chính trị; (ii) ổn đinh kinh tế vĩ mô; (iii) vị trí địa lý lý tưởng; (iv) nguồn nhân lực trẻ và có kỹ năng; (v) mức lương công nhân cạnh tranh (60-70% của Thái Lan, 18% của Singapore và 3-5% của Nhật Bản); (vi) kích cỡ thị trường triển vọng với dân số lớn và thu nhập đang tăng; (vii) hệ thống pháp lý được cải cách theo hướng hội nhập quốc tế; (viii) chi phí kinh doanh đang được giảm; (ix) thuế thu nhập doanh nghiệp thập và miễn thuế nhập khẩu; (x) cho phép nhiều hình thức đầu tư; (xi) xoá bỏ kiểm soát ngoại hối; (xii) đang nỗ lực thực hiện hệ thống một giá; và (xiii) mở rộng ngành đầu tư cho các dự án FDI (Phan 2004). Tuy nhiên, khi được hỏi về việc chọn ra một hoặc hai yếu tố hấp dẫn chính, câu trả lời thường khác nhau giữa các cơ quan và các cá nhân. 2. Các chương trình xúc tiến và truyền thông kém hiệu quả Trước năm 2003, công tác xúc tiến FDI của Việt Nam còn hạn chế. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) chủ yếu sử dụng các kỹ thuật 2, 4 và 5 ở Bảng 1. Cụ thể hơn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sử dụng các biện pháp sau: (i) danh mục các dự án kêu gọi FDI (dự án UNIDO); (ii) hội nghị xúc tiến FDI tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; (iii) hội thảo ở nước ngoài; (iv) sách hướng dẫn (thủ tục pháp lý, giới thiệu về Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư SCCI,...); (v) một cuốn băng video sử dụng ở các hội thảo xúc tiến FDI và gửi tặng nhà đầu tư; và (vi) hợp tác với các doanh nghiệp FDI để tổ chức hội thảo, hội nghị với các nhà đầu tư tiềm năng trong năm 2000 (Nguyen 2004a). Chính phủ Việt Nam đã nhìn thấy những điểm yếu trong việc thu hút FDI của mình là: (i) thiếu một quy hoạch cho việc thu hút FDI; (ii) danh mục các dự án kêu gọi đầu tư không phù hợp với nhu cầu và quan tâm của nhà đầu tư; (iii) các hoạt động xúc tiến ở nước ngoài kém hiệu quả; (iv) tài liệu truyền thông không đầy đủ; và (v) không cập nhật các thông tin trực tuyến (Phan 2004). Các nhà đầu tư tiềm năng đang nghe những thông điệp không thống nhất từ các phái đoàn vận động đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như của các địa phương. Vấn đề tồn tại khi thiết lập một phái đoàn quốc gia đó là đại diện của tỉnh ít có cơ hội phát biểu. Thậm chí việc chia nhỏ nhóm làm việc cũng không hoàn toàn giải quyết được hạn chế này. Thành phần của đoàn làm việc cũng là một vấn đề. Thành phần của các đoàn địa phương thường bao gồm Chủ tịch hay Phó chủ tịch tỉnh và đại diện từ Văn phòng Uỷ ban, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính,... Một số thành viên không thực sự hiểu rõ vai trò của mình trong công tác xúc tiến đầu tư (Dam 2004). Khi hội nghị, hội thảo kết thúc, một trong những công việc cần thiết phải thực hiện là các hoạt động sau hội thảo nhằm tiếp tục tìm hiểu và kích thích nhu cầu của các nhà đầu tư tiềm 12 năng. Trên thực tế, các phái đoàn Việt Nam thường cung cấp danh thiếp và địa chỉ liên lạc sau mỗi kỳ gặp mặt song ai là người trực tiếp chủ động liên lạc lại và trợ giúp các nhà đầu tư thì chưa rõ ràng. Hơn nữa, do thiếu thông tin về nhà đầu tư, các phái đoàn Việt Nam thường có xu hướng trình bày nhiều về các thông tin không hữu ích và cung cấp ít các thông tin thực sự có ích cho nhà đầu tư. Chẳng hạn, một bài trình bày kêu gọi đầu tư điển hình thường bao gồm các số liệu về kinh tế, các thống kê về FDI, ODA, thương mại và du lịch. Thông tin về quan hệ song phương giữa Việt Nam với quốc gia đang ghé thăm cũng được trình bày như hình thức đầu tư (100% vốn nước ngoài, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh), số lượng dự án đầu tư, số lượng việc làm tạo ra từ các dự án đầu tư,... Các thông tin này cũng cần thiết cho nhà đầu tư theo cách này hay cách khác song các nhà đầu tư cần các thông tin đặc thù hơn như họ có thể bắt đầu công việc kinh doanh như thế nào, khuyến khích cụ thể nào họ nhận được, chính phủ sẽ giúp đỡ họ như thế nào để giải quyết các khó khăn phát sinh,... Các thông tin cụ thể này lại không được đề cập đầy đủ trong các tài liệu vận động đầu tư. Bên cạnh đó, việc so sánh giữa Việt Nam với Trung Quốc và Thái Lan như điểm đến của đầu tư nước ngoài cũng ít khi được thực hiện. Đây là một trong những thông tin mà nhà đầu tư thực sự muốn tìm hiểu. Nếu Việt nam chỉ trình bày về đất nước, chính sách và tiềm năng của mình, điều này vừa quá nhiều và cũng vừa quá ít. Một công việc tốn nhiều công sức và thời gian của các bộ phận vận động đầu tư là cập nhật danh mục dự án kêu gọi đầu tư. Thông tin này được cung cấp bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Nhật trên tờ rơi và đĩa CD. Các tài liệu này thường được thiết kế tương đối đẹp mắt và được cung cấp cho các nhà đầu tư tiềm năng. Chẳng hạn, 170 dự án đã được liệt kê trong “Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài vào Hà Nội” (Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội 2004). Hà Nội cũng bày tỏ mong muốn thu hút đầu tư từ Hoa Kỳ. Thành phố cung cấp danh mục này cho một công ty tư vấn để công ty này sử dụng tại các buổi hội thảo xúc tiến đầu tư. Nhà đầu tư mục tiêu là các công ty Hoa Kỳ. Như đã bàn đến ở trên, nhà đầu tư nước ngoài quyết định địa điểm đầu tư vì những lợi ích thực tế mà họ nhận được từ môi trường đầu tư của quốc gia sở tại. Cách hiểu này chưa thực sự được đưa vào thực tiễn xây dựng chính sách. Các tài liệu xúc tiến đầu tư cần được xây dựng trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư chứ không chỉ dựa trên mong muốn của người làm chính sách. Trong trường hợp của Hà Nội, danh mục dự án đầu tư không thực sự hữu ích cho việc kêu gọi đầu tư vì các dự án trong danh mục không đáp ứng được nhu cầu thông tin từ các công ty Hoa Kỳ (Đại học Kinh tế Quốc dân 2005). Tóm lại, hai tồn tại cơ bản trong thu hút FDI của Việt Nam là những vấn đề liên quan tới định vị và phạm vi truyền thông (đã thảo luận ở phần 1). Về định vị, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như các tỉnh cần chọn một thông điệp khơi dậy được sự quan tâm của các nhà đầu tư tiềm năng. Tương tự, về phạm vi truyền thông, việc thiết kế các tài liệu xúc tiến đầu tư, quyết định thành 13 phần phái đoàn xúc tiến, cần lấy việc thoả mãn lợi ích, nhu cầu của nhà đầu tư làm cơ sở. Phần tiếp theo sẽ đề xuất các biện pháp cụ thể để biến Việt Nam thành một địa điểm đầu tư hấp dẫn và đưa ra các giải pháp khắc phục hai tồn tại vừa nêu ra. 14 III. Các bước đưa Việt Nam thành điểm đầu tư hấp dẫn Trong kinh doanh, khi xây dựng một kế hoạch marketing, chín bước sau thường được sử dụng: (i) phân tích tình huống; (ii) các vấn đề và thứ tự ưu tiên; (iii) mục tiêu; (iv) các lựa chọn chiến lược; (v) chiến lược; (vi) các mục tiêu chi tiết; (vii) chiến thuật; (viii) lịch trình; và (ix) dự trù tài chính (Sidel 2002). Các bước này thường xuyên được đánh giá và điều chỉnh khi thực thi. Tuy nhiên, việc áp dụng máy móc cả chín bước này vào việc thu hút FDI là không hợp lý và phức tạp. Chúng tôi đơn giản hoá thành năm bước như sau: (i) phân tích tình huống; (ii) định vị; (iii) các lựa chọn chính sách; (iv) các chương trình hành động; và (v) đánh giá và điều chỉnh. Hình 2. Các bước Marketing trong thu hút FDI Ph©n tÝch t×nh huèng §Þnh vÞ m«i tr−êng ®Çu t− C¸c lùa chän chÝnh s¸ch Ch−¬ng tr×nh hµnh ®éng §Þnh kú ®¸nh gi¸ vµ ®iÒu chØnh chÝnh s¸ch § Þn h k ú ® ¸n h g i¸ v µ ® iÒ u c h Øn h c h Ýn h s ¸c h Nguồn: Mô phỏng từ bài giảng của Giáo sư Philips Sidel tại Đại học Quốc tế Nhật Bản (2002). 1. Bước một: Phân tích tình huống Bước này cần đưa ra một bức trạnh tổng thể của môi trường đầu tư trong khu vực và trên thế giới. Phân tích phải bao gồm các thông tin như xu hướng FDI trên thế giới, Đông Á và ASEAN, các mạng lưới sản xuất quốc tế, chuỗi giá trị và các công ty đa quốc gia. Chính phủ cần tìm hiểu các nhà đầu tư và đặc điểm của họ, tìm hiểu cách thức mà các nhà đầu tư phản ứng với những chính sách thu hút đầu tư. Phân tích SWOT cần được thực hiện cho Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan. Các yếu tố thành công của việc thu hút FDI trong quá khứ, hiện tại và tương lai cũng cần được xem xét. Việc so sánh chi phí kinh doanh cũng cần được thực hiện. Các phân tích này 15 là cơ sở để ra quyết định ở bước 2 (định vị) và bước 3 (lựa chọn chính sách). Nhà đầu tư được đặt ở vị trí trung tâm để thực hiện các phân tích. Hình 3. Phân tích tình huống Lî i Ýc h vµ n hË n th øc cñ a nh µ ®Ç u t− vÒ m «i tr− ên g ®Ç u t − TruyÒn th«ng vµ xóc tiÕn Chi phÝ kinh doanh Th ñ tô c ® ¨n g ký vµ dÞc h vô sa u kh i c Êp giÊ y p hÐ p ®Ç u t− Nhµ ®Çu t− Ph©n tÝch SWOT cho ViÖt Nam, Trung Quèc, Th¸i Lan YÕu tè thµnh c«ng: hiÖn t¹i, qu¸ khø, t−¬ng lai M¹ng l−íi s¶n xuÊt khu vùc, chuçi gi¸ trÞ, c¸c c«ng ty ®a quèc gia MNCs Xu h−íng vËn ®éng cña dßng FDI (ASEAN vµ thÕ giíi) Ví dụ sau đây về các nhà đầu tư Nhật Bản sẽ dẫn chứng cụ thể hơn về việc thực hiện các phân tích nêu trên. Theo điều tra của JETRO (2004), hơn 60% các nhà đầu tư Nhật Bản muốn đầu tư vào Trung Quốc và trên thực tế hiện đã có 30.000 nhà đầu tư Nhật ở thị trường này. Làm thế nào để Việt Nam đưa ra một môi trường đầu tư hấp dẫn và cạnh tranh được với Trung Quốc? Một mặt, Việt Nam phải cạnh tranh với Trung Quốc và các quốc gia ASEAN trong việc thu hút FDI. Mặt khác, Việt Nam cần coi Trung Quốc và ASEAN như các đối tác trong mạng lưới sản xuất khu vực và xây dựng quan hệ bổ trợ với các quốc gia này. Các đặc điểm của Trung Quốc hấp dẫn các nhà đầu tư Nhật Bản có thể kể ra như sau: (i) môi trường kinh doanh thuận lợi (khủng hoảng tài chính 1997 đã làm xấu đi môi trường kinh doanh ở ASEAN); (ii) kích cỡ thị trường; (iii) chi phí sản xuất thấp; (iv) nguồn lao động dồi dào; (v) sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ; (vi) cơ sở hạ tầng tốt; và (vii) hệ thống phân phối và vận tải thuận lợi (JBICI 2003). Mặt khác, Sáng kiến chung Việt -Nhật (2003) cho thấy các nhà đầu tư Nhật Bản xem xét thị trường Đông Nam Á ở hai góc độ: (i) sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp cơ bản và công nghệ cao; và (ii) các chính sách quốc gia và khu vực. 16 Trước khi ra quyết định đầu tư, các nhà đầu tư Nhật Bản thường tham khảo ý kiến của các công ty Nhật Bản khác để biết nhiều hơn các thông tin về quốc gia sở tại, đặc biệt là các bài học thành công và thất bại4. Các nhà đầu tư Nhật Bản cho rằng chính sách FDI và các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chưa hấp dẫn bằng các quốc gia ASEAN khác như Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Các nhà đầu tư nước ngoài thường so sánh chi phí kinh doanh ở Việt Nam với các quốc gia khác. Chi phí kinh doanh ở Việt Nam không phải là cao nhất trong khu vực Đông Á nhưng vẫn cao hơn các quốc gia cạnh tranh với Việt Nam trong thu hút FDI. Bảng 2. So sánh chi phí kinh doanh ở một số nước châu Á Đơn vị: Đôla Mỹ Hà Nội Bangkok Thượng Hải Kuala Lumpur Lương tháng công nhân (ngành phổ biến) 79-119 184 109-218 202 Lương tháng kỹ sư bậc trung 171-353 327 269-601 684 Lương tháng kỹ sư bậc trung (tổ trưởng hoặc trưởng phòng) 504-580 790 567-1574 1892 Thuê văn phòng (m2/tháng) 24 11,03 37,5 9,92-17,68 Internet băng thông rộng (phí tháng) 76,89 82,75 73,7 162,63 Giá điện kinh doanh (kwh) 0,05-0,07 0,04 0,03-0,1 0,05 Vận tải Container (container 40 feet, từ cảng gần nhất tới Yokohama) 1300 1200 700 575 Giá xe ô tô (1500 phân khối, mui kín) 26500 12563 10849-13991 13965 Nguồn: Trích dẫn từ JETRO (2004). Hệ thống hai giá (các công ty trong nước và các công ty FDI đang trả phí khác nhau cho cùng một dịch vu) cũng là một trở ngại trong thu hút FDI. Mặc dù Việt Nam đang cố gắng để thu hẹp khoảng cách này cũng như đã đạt được những kết quả đáng kể song nỗ lực này vẫn chưa được tuyên truyền hiệu quả tới các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư tiềm năng vẫn cho rằng họ sẽ phải trả phí cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Việt Nam không cần phải trở thành quốc gia có chi phí kinh doanh thấp nhất vì nỗ lực này đòi hỏi nhiều thời gian và các nhà đầu tư sẵn sàng trả chi phí cao hơn ở những môi trường đầu tư tốt hơn. Vấn đề nghiêm trọng nhất là chi phí kinh doanh ở Việt Nam không cao như nhà đầu tư đang nghĩ và nhà đầu tư không biết về điều này. Một lần nữa điều này cho thấy Việt Nam cần tuyên truyền một cách hiệu quả về những nỗ lực giảm chi 4 Ý kiến này được một số các doanh nghiệp và nghiên cứu Nhật Bản nêu ra trong cuộc hội thảo về công nghiệp điện tử và FDI tại VDF vào tháng 8/2004. 17 phí của mình. Các nhà đầu tư cần biết rằng chi phí kinh doanh ở Việt Nam đang giảm đáng kể và hệ thống hai giá chẳng bao lâu nữa sẽ không còn tồn tại (Ohno 2004). Một đặc điểm khác của mọi nhà đầu tư (chứ không chỉ riêng các nhà đầu tư Nhật Bản) đó là để khẳng định lợi ích mà nhà đầu tư có thể đạt được ở Việt Nam, cơ quan thu hút đầu tư cần sử dụng ngôn ngữ của nhà đầu tư, đó là phải chỉ ra được khả năng thu được lợi nhuận từ kinh doanh ở Việt Nam. Một yếu tố thành công khác đó là khai thác mối quan hệ của các nhà đầu tư đã có mặt tại Việt Nam với nhà đầu tư ở nước chủ nhà. Chẳng hạn, tỉnh Vĩnh Phúc đã sử dụng được quan hệ của một Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp ở một tỉnh của Hàn Quốc để làm việc với Thống đốc của tỉnh này và tiếp xúc với cộng đồng doanh nghiệp ở địa phương đó (Dam 2004). Bên cạnh đó, các cuộc hội nghị và hội thảo được chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ có tác dụng nhiều hơn là gửi tài liệu xúc tiến cho đối tác (Nguyen 2004b). 2. Bước hai: Định vị Đây là một trò chơi về nhận thức. Như đã đề cập đến ở phần 2, Việt Nam hiện tại chưa định vị rõ ràng trong thu hút FDI. Định vị cần thể hiện rõ điều Việt Nam muốn các nhà đầu tư có trong đầu khi nghĩ đến việc đầu tư vào Việt Nam. Quyết định về định vị cần được thực hiện càng sớm càng tốt. Điều này đòi hỏi việc hiểu rõ khả năng nội tại cũng như tình hình bên ngoài bao gồm xu hướng FDI, chính sách của các quốc gia khác, hành vi nhà đầu tư và các yếu tố quyết định việc đầu tư. Theo JBICI (2003), các yếu tố hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư Nhật Bản bao gồm: (i) chi phí lao động rẻ; (ii) thị trường nội địa tiềm năng lớn trong tương lai; (iii) nguồn nhân lực tốt; và (iii) phân tán rủi ro. 18 Hình 4. Các yếu tố hấp dẫn đầu tư ở một số quốc gia Đông Á Đơn vị: % 20.4 57.4 74.9 40 74.1 51.1 82.3 30 41.2 24.2 35.3 Lao động rẻ Tiềm năng tăng trưởng thị trường Nguồn nhân lực tốt Phân tán rủi ro Việt Nam Thái Lan Trung Quốc Malaysia Nguồn: Trích dẫn từ JBICI (2003). Ghi chú: Tổng số vượt hơn 100% vì các nhà đầu tư được lựa chọn nhiều hơn một câu trả lời. Số lượng các công ty Nhật Bản trả lời điều tra về mỗi quốc gia như sau: Việt Nam (85), Thái Lan (141), Trung Quốc (447) và Malaysia (30). Hình 4 cho thấy kích cỡ thị trường tương lai và lao động rẻ là hai yếu tố quan trọng nhất hấp dẫn các nhà đầu tư Nhật Bản ở Đông Á. Tuy nhiên, số liệu này cũng có thể được diễn giải theo một cách khác. Nếu chúng ta xem xét trong từng lý do đầu tư, Việt Nam là địa điểm phân tán rủi ro được ưa thích nhất đối với các nhà đầu tư Nhật Bản trong khi Trung Quốc là quốc gia hấp dẫn nhất trong cả hai yếu tố kể trên. Điểm này cho thấy một khả năng nâng cao tính hấp dẫn của Việt Nam với vị thế như là một cơ sở sản xuất phân tán rủi ro trong khu vực. Rõ ràng rằng bản thân Trung Quốc không thể là địa điểm phân tán rủi ro khi mà các công ty đa quốc gia đang cân nhắc về việc đầu tư quá nhiều vào Trung Quốc. Chúng tôi đưa ra ba gợi ý sau để thực hiện quyết định định vị5. • Việt Nam mong muốn trở thành địa điểm đầu tư phân tán rủi ro từ Trung Quốc và các nước ASEAN khác. Trong lĩnh vực điện tử, chẳng hạn, Matsushita có thể coi Việt Nam là địa bàn phân tán rủi ro mặc dù công ty đã đầu tư một khoản lớn ở Malaysia. Canon, trên thực tế, đã lựa chọn Việt nam là địa bàn phân tán rủi ro từ Trung Quốc. • Việt Nam sẽ cung cấp một lực lượng lao động khéo léo và có kỷ luật nhất trong khu vực. • Việt Nam sẽ trở thành cầu nối lý tưởng giữa miền Nam Trung Quốc và ASEAN, là nơi dễ dàng tiếp cận tới cả hai thị trường này. Trong khuôn khổ này, hàng loạt những định 5 Tác giả xin cảm ơn Junichi Mori về những thông tin trong phần này cũng như các cuộc thảo luận và trao đổi trong tháng 7 và tháng 8/2004. 19 vị nhỏ có thể được xem xét. Chẳng hạn, miền Bắc Việt Nam có thể liên kết với hệ thống sản xuất ở miền Nam Trung Quốc và miền Nam Việt Nam có thể gia nhập mạng lưới sản xuất của ASEAN. Một lựa chọn khác có thể là miền Bắc, với hệ thống đông đảo các trường đại học và viện nghiên cứu, sẽ thu hút FDI có hàm lượng R&D cao và gia nhập mạng lưới sản xuất quốc tế trong khi miền Nam có thể gia nhập mạng lưới sản xuất của ASEAN và Trung Quốc do những thuận lợi về vị trí địa lý cũng như do thực tế là khoảng 10% dân số thành phố Hồ Chí Minh là người Việt gốc Hoa. Đây chỉ là ví dụ. Các lựa chọn khác như thời gian giao hàng nhanh nhất hay chi phí lao động tương đối theo năng suất thấp nhất (“chi phí lao động đơn vị”) cũng có thể được cân nhắc. Hơn nữa, hai hay ba lựa chọn có thể được ghép thành một lựa chọn cuối cùng. Để trở thành địa bàn phân tán rủi ro, Việt Nam cần xem xét các yếu tố rủi ro ở Trung Quốc và các quốc gia ASEAN, từ đó tìm ra một “ngách” để đưa ra những chương trình giảm thiểu các yếu tố này. Các nhà đầu tư rất sẵn lòng đầu tư thêm và chấp nhận chi phí cao hơn với những chương trình như vậy. Một khi đã tìm ra những yếu tố rủi ro kinh doanh ở Đông Á, Việt Nam cần tránh để bị liệt kê vào những nhóm này. Trong trường hợp Việt Nam đã nằm trong những nước có rủi ro như vậy, Việt Nam cần chứng minh rằng quốc gia đang có những kế hoạch rõ ràng và cụ thể để xoá bỏ những rủi ro đó. Bảng 3 trích dẫn những yếu tố rủi ro kinh doanh do Viện JBIC thực hiện vào năm 2003. Bảng 3. Ba trở ngại hàng đầu của các công ty Nhật Bản ở một số quốc gia Trung Quốc (i) Hệ thống pháp lý không rõ ràng (hay thay đổi); (ii) yếu kém trong bảo hộ sở hữu trí tuệ; và (iii) khó thu hồi các khoản phải thu. Thái Lan (i) Cạnh tranh gay gắt với các công ty khác ở thị trường nội địa; (ii) khó khăn trong việc tìm kiếm lao động địa phương; và (iii) chi phí lao động tăng. Malaysia (i) Cạnh tranh gay gắt với các công ty khác ở thị trường nội địa; (ii) chi phí lao động tăng; và (iii) hạn chế vốn nước ngoài (hạn chế về tỷ lệ vốn nước ngoài, loại hình kinh doanh, thường xuyên thay đổi). Việt Nam (i) Cơ sở hạ tầng; (ii) hệ thống pháp lý không rõ ràng (hay thay đổi); và (iii) khó khăn trong việc tìm kiếm lao động địa phương. Nguồn: Trích dẫn từ JBICI (2003) Chúng tôi cho rằng Việt Nam nên tập trung thực hiện tốt việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đây là vấn đề nghiêm trọng thứ hai đối với việc đầu tư vào Trung Quốc. Bên cạnh đó, Việt nam tiếp tục cải thiện hệ thống pháp lý và cơ sở hạ tầng. Các nỗ lực này cần được tuyên truyền hiệu quả tới các nhà đầu tư hiện tại cũng như các nhà đầu tư ở Tokyo hay Osaka (đối với các nhà đầu tư Nhật Bản) và các nhà đầu tư ở Seoul (đối với các nhà đầu tư Hàn Quốc). 20 3. Bước ba: các lựa chọn chính sách Một lựa chọn chính sách là một chương trình tích hợp năm biến số marketing ở trên. Hàng loạt các lựa chọn chính sách phải được xây dựng để xem xét, cân nhắc. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các địa phương phải quyết định lựa chọn một chính sách trước khi đưa ra các chương trình hành động. Lợi ích dự kiến của môi trường kinh doanh và các chương trình truyền thông cần gắn chặt với các quyết định về định vị và phải hướng tới các nhà đầu tư mục tiêu. Phần 1 đã cho thấy sự cần thiết phải tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc thu hút FDI. Cách tiếp cận của các địa phương và các khu công nghiệp có thể khác với cách tiếp cận của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp và các bộ kinh tế khác. Tuy nhiên, tất cả các bên liên quan đều cần chia xẻ mục tiêu về thu hút một khối lượng lớn vốn FDI. Chúng tôi cho rằng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp bắt đầu bằng việc xây dựng tuyên bố về định vị cho toàn quốc gia và ra các quyết định liên quan tới các biến số marekting khác. Bộ Kế hoạch và Đầu tư nên tập trung định vị Việt Nam như là một địa điểm đầu tư được ưa thích và thực hiện một chiến dịch marketing thống nhất trên toàn quốc gia để đảm bảo rằng các nhà đầu tư tiềm năng được nghe một thông điệp thống nhất từ Việt Nam. Bộ Công nghiệp và các bộ kinh tế khác nên định vị các ngành công nghiệp của Việt Nam bằng những quy hoạch ngành rõ ràng để căn cứ vào đó các nhà đầu tư tiềm năng có thêm thông tin để ra các quyết định đầu tư. Mỗi bộ cần trở thành đầu mối thông tin về ngành và cơ hội đầu tư vào ngành mà bộ quản lý. Các tỉnh và khu công nghiệp có thể có cách tiếp cận giống như trên và cũng có thể có những nghiên cứu riêng về các nhà đầu tư mục tiêu, từ đó, đưa ra các chiến lược khác nhau với các biến số khác nhau. Chính các địa phương và các khu công nghiệp là những người hiểu rõ nhất về việc nhà đầu tư nào sẽ đến với mình. Các tỉnh và khu công nghiệp vẫn có thể cạnh tranh với nhau để thu hút FDI thông qua việc xác định nhà đầu tư mục tiêu khác nhau, cải thiện chương trình marketing, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng địa phương và đưa ra các dịch vụ sáng tạo trước và sau đầu tư. Và tất nhiên tất cả các nỗ lực này đều phải nằm trong khuôn khổ quốc gia do Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Công nghiệp và các bộ khác đưa ra. 21 Hình 5. Phối hợp thu hút FDI trong một chiến dịch tích hợp Bé KÕ ho¹ch vµ §Çu t− §Þnh vÞ m«i tr−êng ®Çu t− ViÖt Nam Thu hót kh«ng h¹n chÕ c¸c nhµ ®Çu t− Thùc hiÖn c¸c cuéc vËn ®éng ®Çu t− Gi¶m chi phÝ kinh doanh Bé C«ng nghiÖp vµ c¸c bé kh¸c §Þnh vÞ c¸c ngµnh c«ng nghiÖp ViÖt Nam Thu hót kh«ng h¹n chÕ c¸c nhµ ®Çu t− Thùc hiÖn vËn ®éng ®Çu t− theo ngµnh Gi¶m chi phÝ kinh doanh N©ng cÊp c¬ së hÇng phôc vô kinh doanh §Çu mèi cung cÊp th«ng tin vÒ ngµnh §Þa ph−¬ng vµ khu c«ng nghiÖp 1. Lùa chän nhµ ®Çu t− 2. §Þnh vÞ m«i tr−êng ®Çu t− ®Þa ph−¬ng 3. VËn ®éng ®Çu t− 4. C¶i thiÖn c¬ së h¹ t©ng ®Þa ph−¬ng 5. S¸ng t¹o vµ ®æi míi quy tr×nh cÊp giÊy phÐp vµ trî gióp nhµ ®Çu t− triÓn khai dù ¸n ®Çu t− Ở mỗi cấp, việc phân tích lợi - hại của mỗi lựa chọn chính sách cần được thực hiện, từ đó chọn ra một chiến lược để thực hiện. Khuôn mẫu chung của các lựa chọn chính sách có thể như sau: Môi trường đầu tư của ……….. (quốc gia hay địa phương) được định vị như ……… (tuyên bố định vị) tập trung vào ……… (dạng nhà đầu tư), truyền thông qua ……… (các chương trình truyền thông). Các nhà đầu tư có thể đăng ký tại ……… (địa điểm và quy trình) với các trợ giúp sau từ chính phủ ……… (các dịch vụ sau đầu tư). Dưới đây là một ví dụ về cách viết một lựa chọn chính sách. Môi trường đầu tư của Việt Nam được định vị như địa bàn lý tưởng nhất Đông Á cho việc phân tán rủi ro, tập trung vào các nhà đầu tư Nhật Bản đã có mặt ở Trung Quốc hay ASEAN, truyền thông qua các cuộc hội thảo ở Tokyo và Osaka, Singapore, Kuala Lumpur, và Thượng Hải; quảng cáo trên Nihon Keizai Shimbun (Japan Economic Journal), Financial Times, và các bản tin trên CNN và NHK (Japan Broadcasting Association); các trang web công nghiệp kết nối với trang web của các tổ chức Nhật Bản như JETRO, JBIC và các chính quyền trung ương và địa phương; và tài liệu giới thiệu thông qua các nhà đầu tư hiện tại. Các nhà đầu tư Nhật Bản có thể đăng ký đầu tư qua mạng, hay tại Đại sứ quán của Việt Nam ở Tokyo, Singapore và Kuala Lumpur, hay các văn phòng đại diện đầu tư của Việt Nam ở những thành phố này. Chính phủ Việt Nam đảm bảo rằng các nhà đầu tư có thể bắt đầu kinh doanh trong vòng 45 ngày 22 kể từ ngày nhận được giấy phép đầu tư. Chính phủ Việt Nam cam kết bảo vệ có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ của nhà đầu tư, tiếp tục cải thiện hệ thống pháp lý và cơ sở hạ tầng. 4. Bước bốn: các chương trình hành động Chương trình hành động bao gồm các bước đi cụ thể, các chính sách, hoạt động và lịch trình mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, các bộ, các tỉnh và khu công nghiệp cần thực hiện để thu hút khối lượng lớn FDI. Hình 5 đã miêu tả sự phối hợp giữa các bên. Các nội dung của chương trình cần rõ ràng, cụ thể, chủ động và chi tiết từ việc xây dựng đến thực thi kế hoạch. Một chương trình hành động phải chỉ rõ các nhiệm vụ cần thực hiện, ai là người chịu trách nhiệm cho từng công việc. Một kế hoạch thực tế là một kế hoạch có thể thực thi chứ không phải một kế hoạch chỉ để viết ra và cất vào trong tủ đựng hồ sơ. Nội dung của chương trình hành động được miêu tả như ở Bảng 4. Một trong những lý do cản trở việc thực hiện một chiến lược xúc tiến FDI hiệu quả là hạn chế về ngân sách. Trên phạm vi quốc gia, Việt Nam không có một ngân sách riêng biệt dành cho xúc tiến đầu tư. Phần lớn các chuyến đi khảo sát hay xúc tiến do phía đối tác nước ngoài tài trợ. Ở tầm địa phương, ngân sách dành cho xúc tiến đầu tư cũng hạn chế. Một số địa phương đã có ngân sách riêng cho hoạt động này là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương (MPI-JICA 2003). Bảng 4. Nội dung của chương trình hành động xúc tiến đầu tư Phần 1: Mục tiêu thu hút đầu tư 1. Mục tiêu định tính Mong muốn về hình ảnh đầu tư Mong muốn về mối quan hệ giữa doanh nghiệp hai nước 2. Mục tiêu định lượng Số lượng doanh nghiệp thu hút; Số lượng vốn đầu tư thu hút; Số lượng doanh nghiệp hai nước tiếp xúc với nhau Phần 2. Các biện pháp thực hiện kế hoạch 3. Nhóm các biện pháp xây dựng hình ảnh về môi trường đầu tư Các biện pháp từ 1 đến 5 tại bảng 1: Ngân sách phân bổ, cơ quan thực hiện, cơ quan phối hợp, thời gian thực hiện, mẫu đánh giá kết quả thực hiện 4. Nhóm các biện pháp tạo nguồn đầu tư Các biện pháp từ 6 đến 9 tại bảng 1: Ngân sách phân bổ, cơ quan thực hiện, cơ quan phối hợp, thời gian thực hiện, mẫu đánh giá kết quả 23 5. Nhóm các biện pháp dịch vụ đầu tư Các biện pháp từ 10 đến 12 tại bảng 1: Đặc biệt chú trọng các nhà đầu tư đã có mặt tại Việt Nam: toạ đàm chính sách, trao đổi thông tin hai chiều giữa các nhà quản lý và doanh nghiệp Phần 3. Phối hợp và hợp tác 6. Các cơ quan thường trú nước ngoài Tên cơ quan, chức năng, trưởng đại diện, người trực tiếp làm việc với thành phố, phối hợp hiện tại, đề xuất phối hợp. 7. Các cơ quan Việt Nam tại nước ngoài Tên cơ quan, chức năng, trưởng đại diện, người trực tiếp làm việc với thành phố, phối hợp hiện tại, đề xuất phối hợp. Phần 4. Đánh giá định kỳ việc thực hiện kế hoạch xúc tiến đầu tư 8. Đánh giá theo nhóm biện pháp thực hiện Nhóm biện pháp: từ 1 đến 12 tại bảng 1: Tiêu chí đánh giá, kết quả thực hiện, nguyên nhân thành công và thất bại, tiếp tục hay không tiếp tục thực hiện, các yếu tố mới xuất hiện, các điều kiện và hỗ trợ trong thời gian tiếp theo. 9. Đánh giá theo cơ quan thực hiện biện pháp Các cơ quan trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UBND tỉnh, thành phố và Sở Kế hoạch và Đầu tư; đơn vị bên ngoài được giao thực hiện một số biện pháp; cơ quan phối hợp bên ngoài: Tiêu chí đánh giá, kết quả thực hiện, nguyên nhân thành công và thất bại, tiếp tục hay không tiếp tục hợp tác, các yếu tố mới xuất hiện, hình thức giao việc trong thời gian tới, điều kiện thực hiện Nguồn: Đại học Kinh tế Quốc dân (2005). Có ý kiến cho rằng để thu hút được 5 triệu đôla FDI, một quốc gia cần dùng tới 1 triệu đôla cho công tác xúc tiến (Nguyen 2004a). Thực tế ở Việt Nam cho thấy, thậm chí một ngân sách đầu tư lớn (trong điều kiện Việt Nam) sẽ hết chỉ sau ba hay bốn chuyến công tác nước ngoài (vận động đầu tư). Năm 2001, Hà Nội dành 3,5 tỷ đồng (khoảng 230.000 đôla Mỹ) cho công tác xúc tiến đầu tư. Con số này là 5,5 tỷ đồng (khoảng 350.000 đôla Mỹ) vào năm 2003. Khoảng một phần ba ngân sách này được sử dụng cho các chuyến công tác nước ngoài (MPI-JICA 2003, Nguyen 2004b). Tình hình còn không được như vậy ở các địa phương. Một địa phương năng động trong thu hút FDI như Vĩnh Phúc, ngân sách phân bổ cho hoạt động xúc tiến đầu tư chỉ đủ để thực hiện một chuyến đi vận động đầu tư ở nước ngoài (Dam 2004). Khoản 4 trong Sáng kiến chung Việt - Nhật (2003) đề xuất rằng chính phủ Việt Nam cung cấp ngân sách xúc tiến đầu tư cho các bộ và uỷ ban nhân dân tỉnh và chính phủ Nhật Bản sẽ (i) tổ chức các đoàn tìm hiểu cơ hội đầu tư đến Việt Nam thường xuyên; (ii) trợ giúp phía Việt Nam 24 trong tổ chức các cuộc hội nghị ở Nhật; (iii) xây dựng năng lực cho cơ quan FDI và các trung tâm xúc tiến đầu tư; và (iv) trợ giúp Việt Nam thiết lập một văn phòng xúc tiến đầu tư tại Nhật theo chương trình của JETRO. Mọi thứ đã sẵn sàng. Điều Việt Nam cần làm là đưa ra các các chương trình hành động cụ thể. Một vấn đề khác liên quan tới ngân sách là thủ tục hành chính. Ở phần lớn các địa phương, để nhận được ngân sách cho xúc tiến FDI, Ban quản lý khu công nghiệp trước hết cần đề xuất kế hoạch với Uỷ ban nhân dân tỉnh. Tiếp theo, Uỷ ban sẽ yêu cầu Sở Tài chính phân bổ ngân sách. Chúng tôi đề xuất việc phân bổ ngân sách trực tiếp cho các Sở Kế hoạch và Đầu tư. Thậm chí sẽ tốt hơn nếu ngân sách được phân bổ cho từ 3 đến 5 năm (khoảng thời gian cần thiết để thực hiện hiệu quả các chương trình vận động đầu tư). Trên phạm vi quốc gia, nghiên cứu của MPI-JICA (2003) đề xuất việc thành lập một Cơ quan xúc tiến đầu tư của Việt Nam (Vietnam Investment Promotion Agency, VNIPA) nhằm đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả giữa các bên liên quan. Nghiên cứu cũng gợi ý chi tiết về mô hình tổ chức, nhân viên, kế hoạch đào tạo, ngân sách và nguồn tài chính cho cơ quan xúc tiến này. 25 Hình 6. Mô hình tổ chức của VNIPA ChÝnh phñ ViÖt Nam CQXT§T cña ViÖt Nam Bé C«ng nghiÖp vµ c¸c bé kh¸c CQXT§T Hµ Néi CQXT§T §µ N½ng CQXT§T TP HCM Hîp t¸c xóc tiÕn ë n−íc ngoµi Ban qu¶n lý UBND, Së KH§T Ban qu¶n lý UBND, Së KH§T Ban qu¶n lý UBND, Së KH§T Nguồn: Trích dẫn từ MPI và JICA (2003). Ghi chú: Đường liền chỉ vai trò Quản lý trực tiếp và đường đứt chỉ vai trò Hỗ trợ và phối hợp. 5. Bước cuối cùng: đánh giá và điều chỉnh chính sách Kể từ năm 2003, Cục Đầu tư nước ngoài thực hiện một số gợi ý từ nghiên cứu của MPI-JICA. Hiện tại, việc đánh giá mức độ thành công của các chương trình này chưa được thực hiện vì thời gian thực hiện mới chỉ hơn một năm. Các công việc đã được thực hiện bao gồm: (i) thay đổi thiết kế và nội dung của các tài liệu xúc tiến; (ii) quảng cáo về Việt Nam trên các tạp chí quốc tế; và (iii) sử dụng PowerPoint và các phương tiện khác tại các buổi hội thảo xúc tiến đầu tư (Nguyen 2004a). Wells và Wint (1991) lập luận rằng việc đánh giá hoạt động thu hút FDI là rất quan trọng bởi vì nó ảnh hưởng tới việc phân bổ ngân sách. Các tiêu chí khác nhau cần được sử dụng để xem xét hiệu quả của từng kỹ thuật xúc tiến. Các cơ quan xúc tiến đầu tư có thể tự đánh giá hoặc thuê cơ quan bên ngoài đánh giá hoạt động xúc tiến. Chẳng hạn, Hội đồng đầu tư Thái Lan (BOI) đã thuê UNICO & OPMAC, một công ty tư vấn của Nhật, đánh giá các chương trình xúc tiến của 26 Thái Lan. Nói chung, việc đánh giá các biện pháp tạo dựng hình ảnh và dịch vụ đầu tư thường do các cơ quan bên ngoài thực hiện. Một số các tiêu chí sau thường được sử dụng để đánh giá các biện pháp xúc tiện đầu tư như chi phí đầu tư, việc thay đổi quốc tịch của các nhà đầu tư, số lượng dự án mới, số vốn đăng ký, số vốn thực hiện, số lượng các cuộc hội thảo và khảo sát thực hiện. Việc điều chỉnh chính sách cần được thực hiện thậm chí trước khi việc đánh giá hoàn thành. Các tổ chức đầu tư cũng có thể sử dụng tiêu chí số lượng các nhà đầu tư tiềm năng thực sự ghé thăm đất nước hay địa phương cũng như số lượng các nhà đầu tư tiềm năng nhận được tờ rơi và các tài liệu tuyên truyền khác. Như đề cập đến ở Bảng 4, các đánh giá và điều chỉnh cần được thực hiện riêng biệt cho từng biện pháp cũng như từng tổ chức thực hiện. Các tiêu chí đánh giá cho từng nhóm tổ chức hay biện pháp thực hiện cần được xây dựng. Các hoạt động liên quan bao gồm phân tích các yếu tố thành công và thất bại, phản ứng với các yếu tố phát sinh, đưa ra các điều kiện và hình thức giao việc tiếp theo. Các ý kiến tích cực hay tiêu cực đều cần được xem xét kỹ lưỡng để cải thiện môi trường kinh doanh cũng như sử dụng trong các tài liệu xúc tiến đầu tư tương lai. Một số địa phương như Hà Nội và Vĩnh Phúc đã mời các công ty luật, các công ty tư vấn và cá nhân tham gia vào quá trình vận động đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, các bộ, các tỉnh và các khu công nghiệp cũng nên xem xét việc sử dụng các cơ quan, tổ chức bên ngoài trong quá trình mời gọi đầu tư của mình. Các chương trình xúc tiến và truyền thông sẽ hiệu quả hơn nếu các đại lý quảng cáo, công ty du lịch, hãng tư vấn đầu tư, các viện nghiên cứu, các trường đại học tham gia vào quá trình này. Các kỹ thuật 1, 3, 4, 6, 7, 8, và 9 ở Bảng 1 có thể được thực hiện hiệu quả bởi các đơn vị bên ngoài (nếu các đơn vị này thực sự có chuyên môn). Chẳng hạn, các đại lý quảng cáo có thể thực hiện tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và các phương tiện truyền thông khác, các đại lý du lịch có thể tổ chức các chuyến đi xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Các viện nghiên cứu, trường đại học, các hãng tư vấn và hãng luật có thể tập trung tìm hiểu, phân tích các công ty đa quốc gia. Trong phần này, năm bước marketing trong thu hút FDI đã được luận giải trong đó việc phân tích tình huống phải được tiến hành thường xuyên. Chúng tôi cũng đề xuất các biện pháp giải quyết hai vấn đề tồn tại nêu ra trong phần 2, đó là việc chưa định vị rõ ràng và phương pháp tuyên truyền kém hiệu quả. Việt Nam nên định vị là một địa điểm đầu tư phân tán rủi ro từ Trung Quốc và ASEAN. Tăng cường thực hiện bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là rất cần thiết để thực hiện quyết định định vị “địa điểm phân tán rủi ro từ Trung Quốc và ASEAN”. Các chương trình xúc tiến và truyền thông sẽ đạt được hiệu quả tốt hơn thông qua sự hợp tác và phối hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp, các bộ, uỷ ban nhân dân, khu công nghiệp và các tổ chức bên ngoài. Phần này cũng bàn đến những hạn chế về ngân sách xúc tiến đầu tư. 27 IV. Kết luận Bài viết này đã rà soát hoạt động thu hút FDI của Việt Nam. Năm biến số marketing và năm bước marketing đã được giới thiệu nhằm cải thiện việc thu hút FDI. Việt Nam đã có những bước đi quan trọng và đáng kể trong việc đơn giản hoá các thủ tục đầu tư và giảm khoảng cách chi phí giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI. Tuy nhiên, các nhà đầu tư mong muốn thấy được các hành động mạnh mẽ hơn từ phía chính phủ trong việc dỡ bỏ các khó khăn. Sau khi nhận được giấy phép đầu tư, các nhà đầu tư mong muốn được trợ giúp trong việc khởi động, vận hành kinh doanh cũng như vượt qua các trở ngại bằng những dịch vụ sau đầu tư. Các nhà đầu tư cũng mong muốn Việt Nam có được các chiến lược phát triển và các quy hoạch công nghiệp thực tế để giúp họ thực hiện công việc kinh doanh dễ dàng hơn. Nếu chính phủ thành công trong việc này, các nhà đầu tư hiện tại chắc chắn sẽ mở rộng kinh doanh và mời gọi các nhà đầu tư khác đến với Việt Nam. 28 Tài liệu tham khảo Tiếng Anh Dam, Tam So, 2004, Manager, Investment Management Division, Vinh Phuc Investment and Industrial Zones Management Board (author’s interview), August 26. Department for Planning and Investment of Hanoi, Hanoi at a glance, 2004, FDI promotion presentation materials. Fulbright Economics Teaching Program, 1999, Marketing places: Readings, Fulbright, Ho Chi Minh City. ________, 1999, Marketing places: Syllabus, Handouts, Problem sets and Exams, Fulbright, Ho Chi Minh City. Hanoi City People’s Committee, 2004, The List of Projects Calling for Foreign investment into Hanoi-Vietnam. Japan Bank for International Cooperation Institute (JBICI), 2003, Survey Report on Overseas Business Operations by Japanese Manufacturing Companies: Results of JBIC FY 2003 Survey: Outlook for Japanese Foreign Direct Investment (15th Annual Survey), Tokyo. Japan External Trade Organization (JETRO), 2004, The 14th Survey of Investment-related Cost Comparison in Major Cities and Regions in Asia, Oversea Research Department of JETRO, Tokyo. Lipsey, R., 1999, “Affiliates of U.S. and Japanese Multinationals in East Asian Production and Trade,” NBER Working Paper No. 7292. Ministry of Planning and Investment and Japan International Cooperation Agency, 2003, The Study on FDI Promotion Strategy in the Socialist Republic of Vietnam: Final Report, Hanoi. Mori, Junichi, and Kenichi Ohno, 2004, “Optimum Procurement Strategy: Determinants of Parts Localization under Regional Linkage and Competition,” Vietnam Development Forum, October. Mortimore, Michael, 2003, “Targeting Winners: Can FDI Policy Help Developing Countries Industrialize?” Oslo Workshop, May. Nguyen, Ba Cuong, 2004a, Head of Investment Promotion and International Cooperation Division, Foreign Investment Agency, Ministry of Planning and Investment (author’s interview), July 28. Nguyen, Thanh Tinh, 2004b, Expert of Department of Foreign Investment and Project Monitoring, Hanoi Authority for Planning and Investment (author’s interview), August 4. Ohno, Kenichi, 2004, “Designing a Comprehensive and Realistic Industrial Strategy,” Vietnam Development Forum Discussion Paper No.1, June. Ohno, Kenichi, and Mai The Cuong, 2004, “The Automobile Industry in Vietnam: Remaining 29 Issues in Implementing the Master Plan”, Vietnam Development Forum, December. Sidel, Philips, 2002, “Marketing Policy,” lecture notes prepared for an MBA course at the International University of Japan, Niigata. Vietnam Economic Times, 2005, “Statistics,” Issue 131, January, p. 56. Vietnam-Japan Joint Initiative to Improve Business Environment with a view to strengthen Vietnam’s Competitiveness, 2003, Hanoi. Wells, Louis T, and Alvin G. Wint, 1991, “Marketing a Country: Promotion as a Tool for Attracting Foreign Investment,” Foreign Investment Agency Occasional Paper 1 (reprinted in Fulbright Economics Teaching Program, Marketing Places: Reading Course 1999-2000). Tiếng Việt Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), 2003, Nghiên cứu về Chiến lược xúc tiến FDI tại nước CHXHCN Việt Nam: Báo cáo cuối cùng, Hà Nội. Hà Nội - Điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài, 2004, tài liệu phục vụ Toạ đàm Hợp tác đầu tư , thương mại Việt-Trung, tháng 7. Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU), 2005, “Định hướng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư của các doanh nghiệp Hoa Kỳ và châu Mỹ vào Hà Nội,” bản thảo cho đề tài cùng tên với Sở Khoa học công nghệ thành phố Hà Nội, tháng 1. Phạm Mạnh Dũng, 2004, “Thực trạng và triển vọng môi trường kinh doanh và đầu tư ở Việt Nam,” bài viết cho Diễn đàn Quốc tế về Tăng cường quan hệ kinh tế Việt Nam Nhật Bản: Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, ngày 4/3/2004, Hà Nội. Phan Hữu Thắng, 2004, “Chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam,” bài viết cho Diễn đàn Quốc tế về Tăng cường quan hệ kinh tế Việt Nam Nhật Bản: Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, ngày 4/3/2004 Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCách tiếp cận Marketing trong thu hút FDI.pdf
Tài liệu liên quan