Tóm lại, từ diễn biến của tình hình thế giới từ Cách mạng Tháng Mười Nga đến nay có thể khẳng định: chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại nhất định sẽ có bước phát triển mới.Theo quy luật phát triển khách quan của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng yếu tố mâu thuẫn nước Nga ngày càng phát triển. Lúc này ở Nga, Đảng Cộng Sản Bônsêvích được thành lập là đội tiên phong của giai cấp vô sản Nga.
Như vậy cuối thế kỉ XIX đầu XX Nga đã hội tụ đầy đủ điều kiện cho cuộc cách mạng diễn ra. Nó vừa mang tính đặc thù vừa mang tính phổ biến.
3. DIỄN BIẾN CỦA CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA
Sau cách mạng dân chủ tư sản Tháng Hai 1917, ở Nga tồn tại tình trạng hai chính quyền song song, một bên là Chính phủ lâm thời tư sản (chuyên chế của giai cấp tư sản) và một bên là Soviet các đại biểu công nhân và binh sĩ, đứng đầu là Soviet Petrograd (chuyên chính vô sản).
Tháng 4-1917, V.I.Lenin về nước để trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Nga, tìm cách đưa nước Nga chuyển từ cách mạng dân chủ tư sản tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời xóa bỏ tình trạng hai chính quyền bằng con đường hòa bình. Ngày 16-4-1917, V.I.Lenin đến Thủ đô Petrograd để trình bày Luận cương Tháng Tư, một văn kiện mang tính cương lĩnh đề ra đường lối giành chiến thắng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa với khẩu hiệu "Tất cả chính quyền về tay các Soviet!".
+ Ðầu tháng 7-1917, Chính phủ lâm thời công khai đàn áp các phong trào đấu tranh quần chúng, khủng bố các Soviet. Nước Nga lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng. V.I.Lenin buộc phải rút vào hoạt động bí mật tại vùng Ra-dơ-líp (Phần Lan), cách Petrograd (nay là Saint Petersburg) 34 km để tránh sự truy lùng của Chính phủ lâm thời. Từ nơi hoạt động bí mật, V.I.Lenin thường xuyên chỉ đạo phong trào cách mạng nước Nga. V.I.Lenin vạch rõ, thời kỳ đấu tranh hòa bình đã chấm dứt, các lực lượng cách mạng ở nước Nga phải tích cực chuẩn bị để tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
+ Ðầu tháng 8-1917, Ðại hội lần thứ VI Ðảng Công nhân Xã hội Dân chủ (CNXHDC) Nga (Bolshevik) họp bán công khai ở Petrograd, V.I.Lenin tuy không tham dự nhưng vẫn lãnh đạo Ðại hội tiến hành và thông qua đường lối khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Trong thời gian này, V.I.Lenin viết xong cuốn Nhà nước và cách mạng đề ra nhiệm vụ cho giai cấp vô sản phải giành chính quyền bằng con đường đấu tranh vũ trang.
+ Theo quyết định của Ủy ban Trung ương Ðảng Bolshevik, ngày 7-10-1917, V.I.Lenin từ Phần Lan bí mật trở về Petrograd để trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Ngày 10-10-1917, dưới sự chỉ đạo của Lenin, Hội nghị Ủy ban Trung ương Ðảng Bolshevik đã họp và thông qua kế hoạch khởi nghĩa vũ trang do V.I.Lenin đề ra.
+ Ngày 12-10-1917, Soviet Petrograd đã cử ra Ủy ban Quân sự cách mạng để chỉ đạo công tác chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở Thủ đô.
+ Ngày 16-10-1917, Ủy ban Trung ương Ðảng Bolshevik thành lập Trung tâm quân sự cách mạng để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa trong cả nước. Các tổ chức đảng Bolshevik đã tích cực triển khai những công việc cần thiết trên các mặt chính trị - tư tưởng, tổ chức và kỹ thuật - quân sự để tiến tới khởi nghĩa vũ trang.
+ Trong khi đó, Chính phủ lâm thời ráo riết thi hành những biện pháp khẩn cấp nhằm "bóp chết" cuộc khởi nghĩa vũ trang của giai cấp vô sản. Theo đó, 70 tiểu đoàn xung kích và một số trung đoàn độc lập của quân đội đã được Chính phủ lâm thời điều động từ mặt trận về bảo vệ những trung tâm lớn như Petrograd, Moscow...
+ Ngày 24-10-1917, Chính phủ lâm thời bắt giam các ủy viên của Ủy ban Quân sự cách mạng, lục soát và đóng cửa các tờ báo của Ðảng Bolshevik, ra lệnh chiếm điện Smolnui... Thủ tướng Chính phủ lâm thời A. Kerenski tuyên bố sẽ áp dụng mọi biện pháp để tiêu diệt cuộc khởi nghĩa ở Petrograd.
+ Trước tình hình trở nên hết sức khẩn trương và cực kỳ nghiêm trọng, V.I.Lenin chủ trương phải tiến hành khởi nghĩa ngay. Trong ngày 24-10-1917, V.I.Lenin ba lần gửi thư tới Ủy ban Trung ương Ðảng Bolshevik yêu cầu phải tiến hành khởi nghĩa ngay trong đêm đó.
+ Tối 24-10-1917 (theo lịch Nga cũ, tức tối 6-11-1917), V.I.Lenin đến Cung điện Smolnui trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang nhằm lật đổ Chính phủ tư sản lâm thời và thiết lập chính quyền Soviet. Ðêm 24-10-1917, khởi nghĩa vũ trang nổ ra ở Thủ đô Petrograd (nay là TP Saint Petersburg). Quân khởi nghĩa, gồm các đơn vị Cận vệ đỏ của công nhân Petrograd, binh sĩ cách mạng và thủy thủ Hạm đội Baltic (tất cả khoảng 200 nghìn người), dưới sự lãnh đạo của Ðảng Bolshevik do V.I.Lenin đứng đầu, đã đánh chiếm các vị trí then chốt ở thủ đô, gồm các cầu qua sông Neva, nhà ga xe lửa, trung tâm bưu điện, nhà máy điện, Ngân hàng quốc gia và các cơ quan quan trọng khác ở Thủ đô.
+ Rạng sáng 25-10-1917 (7-11-1917), trừ Cung điện Mùa Ðông và một vài nơi, các lực lượng khởi nghĩa đã làm chủ tình hình ở Thủ đô Petrograd. 10 giờ sáng, Trung tâm quân sự cách mạng của Soviet Petrograd công bố lời kêu gọi "Gửi các công dân nước Nga" do V.I.Lenin dự thảo, trong đó tuyên bố Chính phủ lâm thời đã bị lật đổ, chính quyền đã về tay các Soviet. Tiếp đến 21 giờ 40 phút, sau pháo lệnh của chiến hạm "Rạng đông", quân khởi nghĩa tiến công Cung điện Mùa Ðông - nơi cố thủ cuối cùng của Chính phủ lâm thời. Tới 2 giờ 10 phút đêm - rạng sáng 26-10-1917, Cung điện Mùa Ðông bị chiếm, các bộ trưởng trong Chính phủ lâm thời bị bắt giữ. Thủ tướng Chính phủ lâm thời A. Kerenski trốn chạy ra nước ngoài.
+ Cũng trong ngày 25-10-1917, Ðại hội các Soviet toàn Nga lần thứ II khai mạc. Ðại hội thông qua lời kêu gọi "Gửi công nhân, binh sĩ và nông dân" do V.I.Lenin dự thảo. Ðại hội ra quyết nghị: Các Soviet đại biểu công nhân, binh sĩ và nông dân có trách nhiệm bảo đảm trật tự cách mạng.
Tại phiên họp diễn ra đêm 26 rạng sáng 27-10-1917 (đêm 8 rạng sáng 9-11-1917), Ðại hội đã thông qua hai văn kiện đầu tiên của Chính quyền Soviet: "Sắc lệnh hòa bình" và "Sắc lệnh ruộng đất" do V.I.Lenin dự thảo. "Sắc lệnh hòa bình" tuyên bố những nguyên tắc về chính sách đối ngoại của Chính quyền Soviet, lên án cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa là "một tội ác lớn nhất đối với nhân loại" và kêu gọi các nước tham chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất nhanh chóng đàm phán để ký kết một hòa ước dân chủ và công bằng. "Sắc lệnh ruộng đất" tuyên bố thủ tiêu không bồi thường ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc và của các sở hữu lớn khác, quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất và chia ruộng đất cho nông dân. Ðại hội đã bầu ra Chính phủ Soviet đầu tiên, được gọi là Hội đồng các Ủy viên nhân dân do V.I.Lenin đứng đầu.
+ Ngày 15-11-1917, Chính quyền Soviet được thiết lập tại Moscow. Ðến tháng 3-1918, Chính quyền Soviet giành được thắng lợi hoàn toàn trên phạm vi cả nước Nga rộng lớn. Cách mạng Tháng Mười Nga toàn thắng.
4. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng 10 Nga.
Cách mạng tháng 10 có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với nước Nga và Thế giới.
a. Với nước Nga:
- Cách mạng tháng 10 mở ra một kỉ nguyên mới và làm thay đổi hoàn toàn tình hình đất nước và số phận hàng triệu con người ở Nga.
+ Lần đầu tiên trong lịch sử nước Nga, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc được giải phóng. Thoát khỏi mọi gông xiềng nô lệ, đứng lên làm chủ đất nước và vận mệnh của mình.
+ Lịch sử nước Nga bước sang một trang mới – một chế độ xã hội mới được thiết lập – chế độ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu cao cả là xóa bỏ chế độ người bóc lột người; xây dựng một xã hội tự do, hạnh phúc, bình đẳng và công bằng cho mọi người lao động.
b. Với Thế giới:
- Cách mạng tháng 10 có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình lịch sử và cục diện Thế giới:
+ Thắng lợi của Cách mạng tháng 10 và sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô Viết đầu tiên trên Thế giới đã làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống hoàn chỉnh bao trùm Thế giới.
+ Thế giới đã phân chia thành 2 hệ thống xã hội đối lập:
.) Hệ thống xã hội Tư bản chủ nghĩa.
.) Hệ thống xã hội Xã hội chủ nghĩa.
- Cách mạng tháng 10 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho Cách mạng Thế giới về sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản, về khối liên minh công nông và nghệ thuật chớp thời cơ để giành thắng lợi.
- Cách mạng tháng 10 đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào Cách mạng của giai cấp công nhân Quốc tế, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
+ Ngay sau khi Cách mạng tháng 10 thắng lợi, một cao trào Cách mạng vô sản đã bùng nổ ở Châu Âu (1918 – 1923) làm chấn động dữ dội nền thống trị của giai cấp tư sản nhiều nước.
+ Quốc tế Cộng sản được thành lập năm 1919 và hoạt động đến năm 1943 có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển và thắng lợi của phong trào nông dân nhiều nước.
- Cách mạng tháng 10 mở ra một thời kì mới trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ La-tinh. Một xu hướng mới đã xuất hiện trong phong trào giải phóng dân tộc nhiều nước, xu hướng đi theo con đường Cách mạng vô sản dưới ngọn cờ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin với những nhận thức mới.
+ Phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của phong trào Cách mạng vô sản Thế giới.
+ Tính tất yếu của sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào Cách mạng của giai cấp vô sản và phong trào giải phóng dân tộc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung và chủ nghĩa đế quốc.
=> Nhờ đó, phong trào giải phóng dân tộc nhiều nước phát triển mạnh mẽ, Đảng Cộng sản ở nhiều nước ra đời và giành được những thắng lợi quan trọng.
“Như ánh mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng 10 chiếu rọi khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái đất. Trong lịch sử loài người, chưa có cuộc Cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế” (Hồ Chí Minh).
c. Ảnh hưởng của cuộc cách mạng tháng Mười Nga với cách mạng Việt Nam?
+ Năm 1920, sau khi đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Đó là con đường đi theo Cách mạng tháng 10 Nga, con đường Cách mạng vô sản.
+ Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam là “Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” thành lập năm 1925 được sự huấn luyện và giảng dạy trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc đã nâng cao ý thức chính trị cho thanh niên Việt Nam. Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần tội ác của thực dân Pháp, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê-nin và kinh nghiệm xây dựng Đảng vô sản kiểu mới ở Nga. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930.
+ Ảnh hưởng của Cách mạng tháng 10 đến Việt Nam thông qua con đường sách báo, lí luận và qua các thanh niên tiến bộ giữa lớp huấn luyện tại Quảng Châu của Nguyễn Ái Quốc.
+ Từ kinh nghiệm thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 10, đó là sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô; Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào tháng 2/1930 đã lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác:
- Cách mạng tháng 8/1945.
- Kháng chiến chống Pháp năm 1945 đến năm 1954.
- Kháng chiến chống Mĩ cứu nước năm 1954 đến năm 1975.
- Và công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay.
+ Trong Cách mạng, Đảng ta cũng học tập kinh nghiệm từ Cách mạng tháng 10:
- Đoàn kết công – nông – binh thành một khối thống nhất để tạo nên sức mạnh vĩ đại.
- Xây dựng và củng cố chuyên chính vô sản.
- Xây dựng lực lượng Cách mạng vững chắc kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa Quốc tế vô sản.
d. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về Cách mạng Tháng Mười (Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002)
Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế.
Sách đã dẫn (Sđd) tập 12, tr.300.
Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
Sđd, tập 12, tr.301.
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã dạy cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới nhiều bài học hết sức quý báu, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và của cả loài người. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng thấm nhuần những lời dạy của Lênin và những bài học lớn của Cách mạng Tháng Mười.
Sđd, tập 12, tr.303.
Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền chuyên chính của bọn bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội bảo đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng
Sđd, tập 8, tr.560.
Con đường thắng lợi của cách mạng Việt Nam chính là theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, mà Lênin vĩ đại đã vạch ra cho nhân dân lao động toàn thế giới, cho các dân tộc bị áp bức và cho cả loài người tiến bộ đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Sđd, tập 11, tr.495.
Đi theo con đường do Lênin vĩ đại đã vạch ra, con đường của Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi rất to lớn. Chính vì vậy mà mối tình gắn bó và lòng biết ơn của nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười vẻ vang, đối với Lênin vĩ đại là vô cùng sâu sắc.
Sđd, tập 12, tr.309.
Từ Cách mạng Tháng Mười Nga thành công đến cuộc kháng chiến của Việt Nam thắng lợi, những trận đấu tranh cực kỳ gian khổ khó khăn, nhiều khi phải hy sinh xương máu, những người cách mạng lớp trước đã phụ trách và đã xây dựng nền tảng để cho thanh niên tiến lên.
Sđd, tập 10, tr.308.
Nhờ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, nhờ sự hình thành và phát triển của phe xã hội chủ nghĩa, nhờ sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, hiện nay hàng trăm triệu nhân dân trên thế giới, trước kia là những nô lệ quằn quại dưới gót sắt của bọn thực dân, nay đã giành được tự do, độc lập.
II. Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới
Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội đã từ lý thuyết không tưởng trở thành một lý luận khoa học. Quá trình thâm nhập lý luận khoa học đó vào đời sống thực tiễn phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã dẫn đến sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực: từ một nước đến nhiều nước và trở thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hùng mạnh trên phạm vi quốc tế ở thế kỷ XX với nhiều thành tựu vĩ đại, in đậm dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu. Chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đã tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và tiếp tục phát triển. Thực tế lịch sử đó đã đặt ra vấn đề về tương lai của chủ nghĩa xã hội. Lời giải đáp chân chính cho câu hỏi này chỉ có thể có được trên cơ sở nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào việc phân tích bối cảnh cụ thể của thời đại ngày nay.
1. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
a. Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
- Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) Ngày 7 tháng 11 năm 1917 dưới sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo quần chúng nhân dân khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền xây dựng nhà nước Xô viết đầu tiên trên thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ phong kiến, lập nên chính quyền của những người lao động, xây dựng xã hội mới không có người bóc lột người. Sau Cách mạng Tháng Mười chủ nghĩa xã hội từ học thuyết lý luận đã trở thành hiện thực thực tiễn đối lập với hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. - Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt. Từ sau cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng một chế độ mới cực kỳ khó khăn và phức tạp: nền kinh tế lạc hậu lại bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp đó là nội chiến và chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc, sự bao vây, cấm vận về kinh tế. Trước tình hình đó, từ năm 1918 đến đầu năm 1921, Đảng Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lênin đã thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến, tiến hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản độc quyền, đại địa chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác. Đến tháng 3 năm 1921, sau khi nội chiến kết thúc, Đại hội X Đảng Cộng sản Nga đã thông qua việc thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP). V.I.Lênin đã chỉ rõ trong những điều kiện mới, việc sử dụng những hình thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận rất quan trọng của chính sách này. Với việc thực hiện NEP thì chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những hình thức thích hợp để giúp nước Nga Xôviết nhanh chóng khắc phục tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến tranh, hạn chế sự phát triển tự phát của nền sản xuất nhỏ - mầm mống của sự phục hồi chủ nghĩa tư bản. V.I Lênin cho rằng, thông qua việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp vô sản có thể học tập, kế thừa và phát huy có chọn lọc tất cả những tài sản vật chất – kỹ thuật và tinh hoa chất xám trong kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức khoa học – kỹ thuật và trình độ quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Nhà nước vô sản có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước như là một hệ thống các chính sách, công cụ, biện pháp nhằm điều tiết hoạt động của các xí nghiệp tư bản còn tồn tại trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử dụng, vừa cải tạo bằng phương pháp hòa bình đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa và sản xuất nhỏ. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn có thể coi là một trong những phương thức, phương tiện, con đường có hiệu quả trong việc thúc đẩy xã hội hóa và làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội. Sau khi V.I.Lênin qua đời, đường lối đúng đắn này đã không được quán triệt và thực hiện đầy đủ. Chính sách kinh tế mới thực hiện chưa được bao lâu thì từ cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, triệu chứng một cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ. Trong bối cảnh đó, ngoài nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, biến nước Nga lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp còn phải xây dựng tiềm lực quốc phòng, đối phó với nguy cơ chiến tranh. Trong điều kiện như vậy, nhà nước Xôviết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao. Trong thực tế, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp công nghiệp hóa với thời gian ngắn (chưa đầy 20 năm), trong đó đã mất gần 10 năm nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Đó là thành tựu vĩ đại của nhân dân Liên Xô. Do đó, không thể phủ nhận vai trò to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mô hình đầu tiên này của chủ nghĩa xã hội.
b. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những thành tựu của nó
Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra đời bao gồm các nước: Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari,Rumani, Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ, Trung uốc, Triều Tiên, Việt Nam (sau này thêm Cuba). Chính vì vậy, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các nước tại Matxcơva năm 1960 đã ra tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người”. Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Cho dù lịch sử có biến động như thế nào, dù có ai cố tình xuyên tạc lịch sử cũng không thể phủ nhận được sự thật là Liên Xô và các nước Đông Âu đã có một thời kỳ phát triển rực rỡ và đạt được rất nhiều thành tựu to lớn đóng góp chung vào sự phát triển của nhân loại trong thế kỷ XX. - Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đua nhân dân lao động lên làm chủ xã hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế giới. Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa được thiết lập. Đó là chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, thực hiện ngày càng đầy đủ quyền dân chủ, ngăn ngừa và trấn áp những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân. - Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. - Chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. - Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới. - Chủ nghĩa xã hội còn có tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa. 2. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội xôviết và nguyên nhân của nó a. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết Lịch sử xã hội loài người không đi theo con đường thẳng và phong trào cách mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, thất bại hay những thời kỳ thoái trào. Bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989 trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở các nước Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và sáu nước Đông Âu đã bị sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra ở Mông Cổ, Anbani, Nam tư. b. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội Xôviết Sau khi V.I.Lênin qua đời, ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hoá tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế hoạch hoá tập trung đã phát huy mạnh mẽ tác dụng, song đã biến dạng thành kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, tập trung cao, từ bỏ hay gần như từ bỏ nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động. Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, sau cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973, các nước tư bản sau khủng hoảng đã tự điều chỉnh để thích nghi với tình hình mới. Ngược lại, Liên Xô và các nước Đông Âu vẫn cứ giữ nguyên mô hình phát triển theo kiểu tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, chỉ trú trọng đến phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, đặc biệt là chưa đầu tư đúng mức cho phát triển khoa học và công nghệ, dần dần tụt hậu so với các nước tư bản chủ nghĩa. Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống quản lý và nói chung là chậm đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội dẫn đến hậu quả tất yếu là sự thua kém rõ rệt trong nhiều lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động so với các nước tư bản chủ nghĩa. Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài như đã nói trên chính là nguyên nhân sâu xa làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên, sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không phải xuất phát từ sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà là do quan niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta chỉ rõ: “ Do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ” đã gây tình trạng trì trệ kéo dài và khủng hoảng. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ Một là, trong cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất. Cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ 1986 và kết thúc trong sự đổ vỡ hoàn toàn năm 1991. Đường lối cải tổ trượt dài từ cơ hội hữu khuynh đến xét lại, từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ chủ trương ban đầu là cải tổ kinh tế chuyển nhanh sang cải tổ về chính trị một cách vô nguyên tắc đã tạo điều kiện cho sự phát triển làn sóng “công khai”, “dân chủ”, “không có vùng cấm”, phủ định mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội, gây tâm lý hoang mang cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa xã hội. Bằng việc loại bỏ dần những người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ, nhóm lãnh đạo cải tổ đã chiếm được các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và nhà nước.
Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành cuộc chiến tranh khi thì bằng súng đạn, khi bằng “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội, gây ra cuộc chiến tranh lạnh từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây đã sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện ở “tư duy chính trị mới”. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm mọi cách để lái nó theo ý đồ của họ, tác động vào cải tổ cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong là nguyên nhân trực tiếp làm Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên nhân này quyện chặt vào nhau, tác động cùng chiều, tạo nên lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh như một cơn lốc chính trị trực tiếp phá hoại ngôi nhà của chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, xét cho cùng chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh giác trong hàng ngũ những người cộng sản đã tạo cơ hội bằng vàng cho chủ nghĩa đế quốc “chiến thắng mà không cần chiến tranh”. Trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do sai lầm củamô hình cũ thì cải tổ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu để thoát khỏi khủng hoảng, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới. Nhưng vấn đề là ở chỗ, cải cách dựa trên nguyên tắc nào? Bằng phương pháp nào để vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao. Bài học của Liên Xô và Đông Âu có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho những người Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới hiện nay
Chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới ra đời từ sau thắng lợi của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga (1917), cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thắng lợi là một mốc son chói lọi trong sự phát triển của xã hội loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử, một chế độ xã hội ưu tiên đã ra đời. Một xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu đã phát huy vai trò của quần chúng nhân dân lao động trong quản lý đất nước. Ách áp bức bóc lột giữa người với người về cơ bản đã bị xóa bỏ. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười, các Sắc lệnh về hòa bình, Sắc lệnh về ruộng đất được ban bố làm nức lòng nhân dân lao động ở nước Nga.
Nhờ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, từ một nước Nga xã hội chủ nghĩa đã lôi cuốn hàng chục nước lân cận Nga để thành lập nên Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (viết tắt là Liên Xô – 1922). Ngay sau khi thành lập, Liên Xô đã có những đột phá trên con đường xây dựng xã hội ở một nước còn lạc hậu về khoa học, kỹ thuật. Với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hợp tác hóa, có sự kế thừa những thành tựu trong khoa học kỹ thuật và quản lý của chủ nghĩa tư bản, Liên Xô đã nhanh chóng trở thành một cường quốc trên thế giới. Với vai trò quyết định cứu nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai đã minh chứng cho sức mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Ngay sau đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc, một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã ra đời ở các nước thuộc Đông Âu, nhiều nước ở Châu Á và Mỹ Latinh đã giành thắng lợi to lớn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ rồi gia nhập vào phe xã hội chủ nghĩa (Việt Nam, Trung Quốc, Cuba).
Từ sau năm 1945, chủ nghĩa xã hội hiện thực tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế đối trọng của mình với hệ thống tư bản chủ nghĩa trên thế giới, tạo ra những điều kiện để phong trào xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh vì hòa bình dân chủ trên thế giới phát triển.
Sau hơn 70 năm tồn tại, phát triển, nó đã có những cống hiến, thành tựu trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo nên mối quan hệ đối trọng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản hiện đại, mở ra triển vọng phát triển mới, tiến bộ của nhân loại.
Trước hết là thành tựu trong việc xây dựng một chế độ chính trị với nhiều điểm tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của văn minh nhân loại xóa bỏ mọi áp bức, bất công giữa người và người, lôi cuốn đông đảo người dân vào quản lý xã hội, quản lý đất nước.
Trong quá trình phát triển của mình, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước đã tạo nên nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực văn hóa; khoa học – kỹ thuật; giáo dục và đào tạo.
Trên lĩnh vực xã hội, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã có nhiều đóng góp, thành tựu trong giải quyết hàng loạt vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, tạo việc làm cho người lao động, chế độ phúc lợi công cộng trong giáo dục – đào tạo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân).
Về phương diện đối ngoại, nhờ sự tồn tại, phát triển cả hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã đóng góp thiết thực vào việc giữ gìn hòa bình trên thế giới, góp phần thúc đẩy các phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ và các phong trào tiến bộ trên thế giới phát triển.
Sau một thời kỳ phát triển với những đóng góp to lớn vào tiến trình cách mạng thế giới, chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào tình trạng trì trệ và từng bước rơi vào khủng hoảng, những quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội không được đúc rút cụ thể mà chỉ dừng lại ở những quy luật chung, phổ quát, lại mang tính áp đặt, khiên cưỡng, chưa phản ánh nét đặc thù của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở từng quốc gia, khu vực. Tình hình đó dẫn đến sự rạn nứt trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Biểu hiện rõ rệt nhất cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới là khủng hoảng về thể chế chính trị dẫn đến khủng hoảng về kinh tế, xã hội. Hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước bị xa rời hoặc bị chối bỏ. Mất đoàn kết, không thống nhất ý chí giữa các đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa là biểu hiện thực tế nhất của khủng hoảng về mô hình và cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực từ sau những năm 60 của thế kỷ XX. Đỉnh điểm cuộc khủng hoảng của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô là việc giải thể Liên bang Xôviết dưới thời kỳ Enxin- người kế nhiệm Goócbachốp giữ vai trò Tổng thống Liên bang Nga (1991).
Cùng thời kỳ sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng lâm vào tình trạng tương tự. Sau năm 1991 ở Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa tư bản được khôi phục thay thế cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 70 năm tồn tại, sự tan rã của thể chế chính trị ở Liên Xô và Đông Âu thực chất là sự tan rã của một dạng thức, một mô hình của xã hội chủ nghĩa được coi là “mẫu mực” là “duy nhất đúng”. Tuyệt nhiên, đó không phải là sự đổ vỡ, sự “kết thúc lịch sử” của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học.
* Những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, suy thoái của chủ nghĩa xã hội hiện thực
- Những nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội là vấn đề hoàn toàn mới, thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa có tiền lệ; mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu phải đánh giá và vận dụng đúng, sáng tạo lý luận Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nếu so với các mô hình tổ chức xã hội có trước đó thì mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức xã hội hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ. Bản thân các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin mới dự báo những nét cơ bản ban đầu. Mặt khác giữa lý luận và thực tiễn luôn có khoảng cách lớn: có những quan điểm Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội cho đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị; có những quan điểm đã bị lịch sử vượt qua; có những quan điểm cần nhận thức lại, nhận thức cho đúng.
Thứ hai, các xu thế mới nảy sinh trong thời đại đã tác động lớn đến đời sống chính trị - xã hội thế giới, đến sự tồn vong của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Toàn cầu hóa trở thành xu thế lớn lôi cuốn hầu hết các quốc gia - dân tộc tham gia, với những cơ hội và thách thức lớn. Bên cạnh đó, các xu hướng khác như dân chủ hóa đời sống xã hội, đa phương hóa các quan hệ quốc tế đi kèm với những xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, biển đảo v.v. đều tác động không nhỏ đến thể chế chính trị ở nhiều quốc gia. Trong đó rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực tác động đến chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước. Những tác động từ khoa học, công nghệ, các xu thế lớn của thời đại đều diễn ra mạnh mẽ với những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Thứ ba, việc tồn tại song song hai thể chế chính trị chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch của chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Thời kỳ Chiến tranh lạnh là thời kỳ mà chủ nghĩa tư bản hiện đại với mọi toan tính thâm độc muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội hiện thực. Rất nhiều âm mưu, thủ đoạn từ các nước tư bản lớn, nhất là từ Mỹ đã được thực hiện để thay đổi tương quan lực lượng giữa “hai phe”, hai thể chế chính trị trên thế giới.
Trong rất nhiều âm mưu, thủ đoạn chống phá chủ nghĩa xã hội hiện thực có chiến lược “diễn biến hòa bình” đã được Mỹ và nhiều nước tư bản chủ nghĩa sử dụng và gây hậu quả nghiêm trọng đối với hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới. Chiến lược “diễn biến hòa bình” mà các đế quốc thực hện đã góp phần đẩy nhanh quá trình khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
- Những nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan vốn có, nhiều nguyên nhân chủ quan là những nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng suy thoái của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Một là, những sai lầm, yếu kém trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội không được phát hiện, sửa chữa, điều chỉnh kịp thời.
Bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, của lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nói riêng luôn đòi hỏi các đảng cộng sản và công nhân phải có các quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển sáng tạo. Tuy nhiên, trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã có những nhận thức sai lầm, máy móc, giáo điều khi vận dụng các quan điểm Mác - Lênin. Sai lầm, yếu kém đã diễn ra khá lâu nhưng không được phát hiện, sửa chữa, điều chỉnh, dẫn đến tình trạng khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Việc áp đặt mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa kiểu Xôviết cho tất cả các nước trong hệ thống là một sai lầm, khuyết điểm lớn. Trong đó, đã tuyệt đối hóa những giá trị, những nét đặc tưng mang tính phổ biến và coi nhẹ, xem thường những giá trị, đặc trưng mang tính đặc thù của từng quốc gia dân tộc là hoàn toàn trái với quan điểm lịch sử - cụ thể về tính đa dạng, phong phú của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ở một phương diện khác, rất nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã qúa chủ quan, nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế “phi xã hội chủ nghĩa”, không vận dụng đúng các quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc đã xa rời quan điểm Mác – Lênin về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Việc duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung, xem nhẹ các yếu tố của thị trường đã làm triệt tiêu những động lực trong phát triển kinh tế.
Hai là, trong công tác xây dựng đảng, ở nhiều nước đã xa rời nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, biến đảng cộng sản thành tổ chức độc quyền, một số cán bộ lãnh đạo cao cấp trở thành kẻ quan liên, từng bước xa rời hoặc phản bội lại chủ nghĩa Mác – Lênin.
Ở Liên Xô và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào những thập niên từ 60-90 cuối thế kỷ XX, bộ máy đảng cộng sản đã không được xây dựng theo những nguyên tắc mácxít – lêninit. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng hoàn toàn bị rời bỏ, trở thành tập trung quan liêu, độc tài, độc quyền.
Những nội dung xây dựng đảng kiểu mới: về tư tưởng, chính trị, tổ chức, về đạo đức, lối sống của người đảng viên đã trở thành xa lạ trong Đảng Cộng sản Liên Xô và nhiều đảng cộng sản khác. Những người cầm đầu trong bộ máy Đảng, Nhà nước Xôviết đã thoái hóa, biến chất rồi trở thành những kẻ phản bội nhân danh “cải tổ”, “cải cách”. Đây là nguyên nhân rất trực tiếp đưa chủ nghĩa xã hội hiện thực đến khủng hoảng, suy thoái.
Ba là, những yếu kém, khuyết điểm trong đường lối chính trị, sự vận hành kém hiệu quả của hệ thống chính trị và pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Xét về bản chất, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa phải thể hiện những điểm tiến bộ, ưu việt hơn hệ thống chính trị tư bản chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quản lý đất nước bằng pháp luật là chủ yếu. Thế nhưng sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt là từ những năm 60 của thế kỷ XX về sau, tình trạng phe phái, chia rẽ trong hệ thống chính trị ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trở thành phổ biến. Đảng cộng sản là tổ chức lãnh đạo và lấn át cả quyền lực của nhà nước làm thay đổi nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng nhân dân chỉ tồn tại hình thức mà không phát huy được quyền dân chủ của công dân, quyền giám sát và phản biện xã hội đối với bộ máy đảng và nhà nước. Pháp luật xã hội chủ nghĩa không những không được củng cố, hoàn thiện mà ngày càng bị buông lỏng, mất hiệu lực. Ở nhiều nước, đảng cộng sản đã đứng trên cả pháp luật, người cán bộ, đảng viên càng có chức, có quyền, càng tha hóa, biến chất và xa rời quần chúng.
Những yếu kém này đã tạo cớ cho những phần tử cơ hội (điển hình là Goócbachốp) đã lấy đổi mới chính trị làm tiền đề, điều kiện cho dân chủ hóa xã hội theo kiểu phương Tây
Cũng tương tự như Liên Xô, ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa thuộc Đông Âu cũng có tình trạng yếu kém, thoái hóa, mất hiệu lực của hệ thống chính trị và pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, không nắm bắt và giải quyết đúng nhiều mối quan hệ diễn ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhiều mối quan hệ đòi hỏi phải nhận thức đúng, giải quyết phù hợp đều bị xem thường: quan hệ lợi ích giữa cá nhân - tập thể - xã hội; quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng - xã hội; quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản hiện đại; quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa yêu nước; giữa chủ nghĩa xã hội và các phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ, vì hòa bình trên thế giới. Quan điểm biện chứng, quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị xa rời khi giải quyết các quan hệ vừa nêu.
Hàng loạt vấn đề thực tiễn lẽ ra phải được tổng kết để rút ra bài học kinh nghiệm giải quyết các quan hệ đã gặp phải sự thờ ơ hoặc thái độ coi thường của các đảng cộng sản cũng như chính quyền nhà nước ở các nước xã hội chủ nghĩa. Tình trạng tụt hậu, khủng hoảng, suy thoái vì vậy có điều kiện bùng phát ở hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa.
Năm là, những yếu kém, sai lầm, khuyết điểm trong chiến lược phát triển các nguồn lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là chiến lược phát triển con người, trí tuệ con người ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế tập trung quan liêu, lấy kế hoạch hóa như là các “chỉ tiêu pháp lệnh” đã tác động tiêu cực đến chiến lược phát triển các nguồn lực trong các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Một trong những nguồn lực quan trọng nhất là nguồn lực con người đã không được quan tâm chăm lo, đào tạo bồi dưỡng và đáp ứng những nhu cầu vật chất, tinh thần. Những chỉ tiêu về mưc sống, chăm sóc sức khỏe, chế độ bảo hiểm, bảo trợ xã hội đối với người lao động không được quan tâm đúng mức; người lao động không được thu hút tham gia các lĩnh vực quản lý xã hội hàng loạt vấn đề xã hội nảy sinh đã không được giải quyết thỏa đáng, kịp thời. Những hạn chế, yếu kém trên đã góp phần làm trầm trọng thêm các lĩnh vực chính trị - xã hội ở những nước xã hội chủ nghĩa.
Sáu là, trong hàng loạt chính sách đối nội, đối ngoại của các nước xã hội chủ nghĩa đã vấp phải những khuyết điểm, sai lầm trong giải quyết các quan hệ giữa giai cấp – dân tộc – quốc tế.
Trong quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, đã tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp, xem nhẹ vấn đề dân tộc. Trong quan hệ đối ngoại, với chủ nghĩa quốc tế được “lý tưởng hóa” không những không phát huy vai trò, ảnh hưởng tốt đẹp của chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân mà còn làm phương hại đến chủ quyền, ý thức độc lập dân tộc của những quốc gia dân tộc nhỏ.
Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, sự khủng hoảng về niềm tin, về tương lai, triển vọng của xã hội loài người đã diễn ra trong đời sống chính trị - xã hội thế giới. Cũng từ đây nhiều trào lưu, xu hướng mới nảy sinh trong nhận thức, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở một số nước, các đảng cộng sản, đảng công nhân, đảng cánh tả đã có những nhận thức mới, phù hợp hơn về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở kế thừa những giá trị lý luận của học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng vào điều kiện lịch sử - cụ thể của từng quốc gia – dân tộc.
Sau những tổn thất to lớn từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, chủ nghĩa xã hội đang từng bước khắc phục khó khăn để phục hồi với những diện mạo mới.
3. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội
a. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài người - Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.
Chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của nhân loại. Trong mấy thập kỷ qua, do biết “tự điều chỉnh và thích ứng” đồng thời sử dụng triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, các nước tư bản chủ nghĩa đã vượt qua được một số cuộc khủng hoảng và vẫn còn khả năng phát triển. Song dù thế nào, chủ nghĩa tư bản cũng không thể là chế độ tương lai của nhân loại. Bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không thể xóa bỏ được đói nghèo, mù chữ, bất bình đẳng do phân hóa thu nhập và mức sống ngày càng sâu sắc. Chủ nghĩa tư bản với những mâu thuẫn bên trong không thể khắc phục mặc dù nó luôn được tô vẽ bằng những lối xưng danh mới như: “phi hệ tư tưởng hóa”, “xã hội tư bản”, “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội kinh tế tri thức hóa”... - Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại sẽ tiếp tục phát triển thông qua những cuộc khủng hoảng, những cuộc cải cách để thích ứng và quá trình đó cũng chính là quá trình quá độ sang một xã hội mới. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của nền văn minh hậu công nghiệp: kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển; tính chất xã hội của sở hữu ngày càng tăng; sự điều tiết của nhà nước đối với kinh tế thị trường ngày càng hữu hiệu; tính nhân dân và xã hội của nhà nước tăng lên. Việc giải quyết những vấn đề phúc lợi xã hội và môi trường ngày càng tốt hơn. Với những đặc điểm trên đây, có thể xem đó là những xã hội quá độ vì nó chứa đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội tương lai.
b. Chủ nghĩa xã hội – tương lai của xã hội loài người - Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội Sau sự kiện Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, các thế lực chống chủ nghĩa xã hội ra sức tuyên truyền rêu rao về “cái chết của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin”. Song sự phân tích ở các phần trên cho thấy, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội thực tế chứ không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đang vươn tới. Tương lai của loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Tính chất của thời đại hoàn toàn không thay đổi,loài người vẫn ở trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu hiện và đặt ra yêu cầu mới phải giải quyết. - Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và ngày càng đạt được những thành tựu to lớn. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã có tác động mạnh mẽ đến các nước xã hội chủ nghĩa còn lại nhưng với sự kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, các nước này không những đứng vững mà còn thực hiện đổi mới tương đối thành công. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của mình, Trung Quốc và Việt Nam đã từng bước tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thích hợp. Tuy hai nước có những sự khác biệt về quy mô, vị trí trên trường quốc tế, về văn hóa dân tộc nhưng sự đổi mới, mở cửa của Trung Quốc và Việt Nam cũng có nhiều nét tương đồng với nhau: - Từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) hoặc kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam). Quá trình đổi mới của hai nước đều thực hiện đa dạng hóa sở hữu, trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể (Trung Quốc) hoặc công hữu là nền tảng (Việt Nam); kinh tế nhà nước là chủ đạo, sở hữu cổ phần được xem là hình thức chủ yếu của chế độ công hữu (Trung Quốc) hoặc doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức kinh tế phổ biến (Việt Nam); đa dạng hóa hình thức phân phối, coi trọng phân phối theo lao động, đảm bảo quyền kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp; giá cả, tỷ giá, lãi suất do thị trường xác định có sự điều tiết của nhà nước; phát triển đồng bộ các loại thị trường từ thị trường hàng hóa dịch vụ đến thị trường chứng khoán; thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng lớn, xóa đói giảm nghèo, giữ gìn môi trường...
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại, phù hợp với những cam kết quốc tế; giảm dần sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp; gia tăng hiệu lực điều tiết vĩ mô; gia tăng sự phân quyền cho các địa phương; thực hiện chế độ dân chủ, đặc biệt là ở các cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, gia tăng sự giám sát của các cấp, của công luận, của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, của các tổ chức xã hội, thực hiện cải cách hành chính... - Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng bao gồm các hội nghề nghiệp, văn hóa, tôn giáo, xã hội...khuyến khích sự phát triển của các tổ chức này hướng vào các mục đích như từ thiện, cứu trợ... - Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, WTO, các tổ chức khu vực như Hiệp hội ASEAN,Đông Á và trở thành thành viên tích cực của các tổ chức này. - Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo của Đảng cũng dần được đổi mới theo hướng dân chủ và hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Trung Quốc và Việt Nam. Công cuộc cải cách của Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Những định hướng phát triển của Trung Quốc và Việt Nam đều tôn trọng những giá trị tiến bộ của nhân loại, nghiên cứu và ứng dụng chúng phù hợp với điều kiện cụ thể trên cơ sở những giá trị nhân đạo cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Sự tiến triển thực tế của những cuộc cải cách ở Trung Quốc và Việt Nam sẽ góp phần quan trọng làm sáng tỏ hơn con đường đổi mới chủ nghĩa xã hội. - Đã xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội Trong tình hình chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào thì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là khu vực Mỹ Latinh, từ những năm 1990 đã xuất hiện xu thế thiên tả và phát triển lên thành một trào lưu vào đầu thế kỷ XXI. Từ 1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các Chính phủ cánh tả tiến bộ đã lên cầm quyền ở 11 nước Mỹ Latinh, trong đó có nhiều nước tuyên bố đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 2005, Tổng thống Vênêxuêla Hugo Chavez nhiều lần công khai tuyên bố mục tiêu của cách mạng Vênêxuêla là đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau khi tái đắc cử trong kỳ bầu cử tổng thống năm 2006, Tổng thống Hugo Chavez một lần nữa khẳng định: Vênêxuêla sẽ tiếp tục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI.Tổng thống Bôlivia Êvô Môralét nói rằng: chủ nghĩa xã hội là mơ ước của các dân tộc Mỹ Latinh. Êcuađo và Nicarago cũng tuyên bố lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội.Sự xuất hiện của “Chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI” còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, đánh giá nhưng đó là những biểu hiện về sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc Mỹ Latinh, thể hiện bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội thế giới. Đó cũng chính là bằng chứng chứng minh cho sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, từ diễn biến của tình hình thế giới từ Cách mạng Tháng Mười Nga đến nay có thể khẳng định: chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại nhất định sẽ có bước phát triển mới.Theo quy luật phát triển khách quan của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cach_m_ng_thang_m_i_nga_khanhn8_8565.docx