Các hình thức và quy trình tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu trên thế giới
Thủ tục bảo lãnh theo phưng thức cho vay thông thường, nghĩa là khi bảo
lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích xin bảo lãnh, nếu nhà
nhập khẩu không có khả năng thanh toán thì phải làm thủ tục vay tại ngân
hàng, khoản tín dụng này là tín dụng bắt buộc.
21 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 2603 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các hình thức và quy trình tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các hình thức và quy trình tín dụng tài trợ
xuất nhập khẩu trên thế giới
Tác giả
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Để thu hút khách hàng mỗi ngân hàng bên cạnh việc thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật đều cố gắng tạo ra sự khác biệt cho ngân hàng của mình.
Đối với hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu cũng vậy, dựa vào tiềm lực
của mình cùng với mục tiêu thu hút khách hàng, tối đa hoá lợi nhuận, phân
tán rủi ro các ngân hàng cũng lựa chọn các hình thức tín dụng khác nhau đáp
ứng kịp thời mọi nhu cầu tài chính. Ngân hàng đã trở thành một người bạn
đồng hành không thể thiếu của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong quá
trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu
Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho các cơ sở xuất khẩu dưới các
hình thức sau:
Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ
Sau khi lập xong bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm… nhà xuất
khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng của nhà xuẩt
khẩu sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch)
với chỉ thị giao chứng từ khi đã thanh toán (điều kiện D/P) hoặc chấp nhận
một hối phiếu đòi nợ kèm theo (điều kiện D/A). Tuy vậy, thời gian để có tiền
thanh toán do nhà nhập khẩu trả làm cho xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm thời.
Nhà xuất khẩu lúc này có thể yêu cầu ngân hàng đáp ứng một phần giá trị bộ
chứng từ nhờ thu làm đảm bảo.
Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu gần giống với chiết khấu
chứng từ nhưng có một số điểm cần phân biệt như sau:
Ngân hàng không cho vay toàn bộ giá trị hối phiếu mà chỉ đáp ứng trước một
phần.
Nhà xuất khẩu không phải chịu tỷ lệ chiết khấu 10% chi phí hối phiếu như
chiết khấu vì nhà xuất khẩu chỉ cần một phần giá trị hối phiếu.
Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu
từng phần, nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ
ngắn hạn phục vụ nhu câu tiền mặt tạm thời.
Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ
Trong hình thức thanh toán bằng thư tín dụng, nhà xuất khẩu là người được
hưởng lợi. Khi có toàn bộ chứng từ thanh toán trong tay, nhà xuất khẩu có thể
sử dụng L/C để thế chấp mở L/C khác cho người hưởng lợi khác (L/C giáp
lưng) hoặc nhà xuất khẩu có thể đến các ngân hàng thanh toán để chiết khấu
các hối phiếu của bộ chứng từ thư tín dụng, ngoài ra với một L/C cho phép
bán lại chứng từ đòi tiền nhà nhập khẩu hoặc dưới dạng chuyển nhượng toàn
bộ quyền sở hữu một thư tín dụng trả chậm thì nhà xuất khẩu có thể nhận
được một khoản tín dụng từ ngân hàng.
Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ khi sử dụng L/C
điều khoản đỏ, nhà xuất khẩu sẽ có một khoản tiền ứng trước của nhà nhập
khẩu vào thời điểm xác định trước khi xuất trình toàn bộ chứng từ hàng hoá,
các điều khoản ứng trước thường được quy định trong một điều kiện thuận
lợi cho các bên thực hiện.
Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hay ngân hàng xác nhận cấp
cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất khẩu
chịu chi phí liên quan còn ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về khoản ứng
trước, vật bảo đảm của nhà xuất khẩu khi nhận tiền ứng trước.
Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận sẽ thu hồi số tiền ứng trước
cùng với lãi sau khi ngân hàng mở L/C thanh toán (nếu có bộ chứng từ phù
hợp). Nếu nhà xuất khẩu vì một lý do nào đó không xuất trình được chứng từ
phù hợp với điều kiện của L/C, các ngân hàng cũng có quyền đòi số tiền này
ở ngân hàng mở L/C.
Tín dụng chiết khấu hối phiếu
ở hình thức này ngân hàng mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán tức
là mua lại các khoản nợ phải đòi.
Lượng tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng là giá trị hối phiếu sau khi
trừ đi chi phí chiết khấu và các khoản lệ phí…Chi phí chiết khấu được xác
định theo công thức:
Tck: Giá trị chiết khấu M: mệnh giá hối phiếu
P: Lệ phí t: thời gian chiết khấu
Lck: lãi chiết khấu
Trong các yếu tố trên, người ta quan tâm nhất đến lãi suất chiết khấu, tỷ lệ
này phụ thuộc vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, thời hạn thanh
toán, hình thức và giá trị hối phiếu.
Ưu điểm:
Tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu trong việc tái đầu tư đối với khoản
tín dụng cung ứng.
Đối với nhà nhập khẩu thì có ưu điểm đó là khả năng truy đòi được khoản
tiền chiết khấu khi hối phiếu không được thanh toán vào ngày đến hạn.
Những quy định của luật hối phiếu vẫn cho phép ngân hàng truy thu khoản
nợ từ người xuất trình hối phiếu (nó như một dạng tín dụng ứng trước cho
người xuất khẩu).
Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước, đây là loại tín dụng thông
thường nhất trong hoạt động ngoại thương.
Quy trình chiết khấu hối phiếu
Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, chuyển chứng từ vận chuyển và hối phiếu
đòi nợ tới nhà nhập khẩu.
Nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu và chuyển hối phiếu đã chấp nhận cho
nhà xuất khẩu.
Nhà xuất khẩu đề nghị ngân hàng của mình cấp tín dụng trên cơ sở hối phiếu.
Ngân hàng xuất khẩu đồng ý cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu (ghi có vào tài
khoản của nhà xuất khẩu sau khi đã trừ đi chi phí chiết khấu và lệ phí nhờ
thu).
Ngân hàng xuất khẩu đem hối phiếu đến Ngân hàng Trung ương để tái chiết
khấu và thu hồi khoản tín dụng đã cấp cho nhà xuất khẩu.
Khi tới hạn thanh toán, Ngân hàng Trung ương chuyển hối phiếu cho nhà
nhập khẩu và đề nghị thanh toán.
Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và đề nghị
thanh toán.
Nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán và cho phép ngân hàng ghi nợ vào tài
khoản của mình.
Ngân hàng nhà nhập khẩu ghi có vào tài khoản ở Ngân hàng Trung ương, chi
phí hối phiếu sau khi đã trừ đi lệ phí nhờ thu và thông báo khoản thu đã được
thực hiện.
Trường hợp nhà nhập khẩu không chấp nhận thanh toán, nhà nhập khẩu
chuyển hối phiếu cho ngân hàng của mình từ đó hối phiếu được chuyển đến
Ngân hàng Trung ương.
10a. Ngân hàng Trung ương truy đòi ngân hàng nhà nhà xuất khẩu hoặc có
thể truy đòi trực tiếp nhà xuất khẩu.
10b. Mọi vấn đề nhà xuất khẩu phải tự giải quyết với nhà nhập khẩu.
Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá
Ngân hàng cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ
hàng hoá trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này ngân hàng tạo điều
kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự chiết khấu
hối phiếu. Lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào phương thức chiết khấu.
Có 2 loại:
Chiết khấu có truy đòi: Ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ chứng từ,
nếu không được bên nước ngoài thanh toán sẽ quay lại đòi nhà xuất khẩu ->
lãi suất thấp.
Chiết khấu miễn truy đòi: ngân hàng sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro nếu bên
nước ngoài không thanh toán, ngân hàng sẽ không có quyền đòi lại tiền của
khách hàng.
Cho vay thông thường
Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền
để họ sử dụng trong thời gian nhất định. Khi hết hạn người vay phải trả đủ cả
gốc và lãi.
Cho vay thông thường là hình thức tín dụng cơ sở cho các hình thức tín dụng
khác ra đời và phát triển. Ngân hàng sử dụng dưới hai hình thức: cho vay
ngắn hạn(<12 tháng) và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thường áp dụng đối với
những yêu cầu về vốn tạm thời để trang trải những nhu cầu sinh hoạt còn cho
vay dài hạn để cung cấp tiền đầu tư vào máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng…
Thông thường, các nhà XNK vay ngắn hạn để chi trả tiền lương, chi phí vận
chuyển, thu mua hàng xuất khẩu, trả tiền hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp lại sử dụng tín dụng dài hạn để mua sắm trang thiết bị hiện đại,
nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Ưu điểm:
Cho vay theo phương thức này được áp dụng trong mọi lĩnh vực, mọi đối
tượng, mọi cá nhân trong nền kinh tế khi có nhu cầu đều có thể đến ngân
hàng để xin được cấp vốn. Sau khi xem xét hồ sơ thấy khách hàng có đủ mọi
yêu cầu trong nguyên tắc tín dụng ngân hàng đều có thể tiến hành cho vay.
Cho vay theo phương thức này bao giờ cũng phải có tài sản để bảo đảm cho
món vay. Vì vậy nói chung khản vay khá an toàn.
Nhược điểm:
Khó khăn trong việc định giá tài sản tài chính, đặc biệt là khi bán chúng vì
giá cả thị trường thường xuyên biến động, hàng hoá, tài sản có thể bị hỏng
hóc, mất mát.
Thanh toán “factoring” và “forfaithing”:
+ Factoring là một hình thức tài chính trong hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt
động mua bán những khoản thanh toán chưa đến hạn và ngắn hạn từ các hoạt
động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Đặc điểm nổi bật của nghiệp vụ
này là tính miễn truy đòi tương đối đối với nhà nhập khẩu hoặc người sở hữu
trước đó nếu các chứng từ là bằng chứng cho các khoản nợ không được thanh
toán khi đến hạn. Khác với hoạt động mua lại chứng từ thanh toán, hoạt động
factoring không sử dụng các tín dụng thư cũng như hối phiếu. Để có thể chào
khách hàng bằng cách tài trợ này, gần như tất cả các ngân hàng tiến hành lập
cơ sở đặc biệt, chuyên dụng vì factoring không phải là nghiệp vụ ngân hàng.
Hoạt động factoring chỉ sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường
xuyên theo định kỳ hợp đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau
trong cùng một nước hoặc nhiều nước trong cùng một thời điểm.
Chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng được những điều kiện sau mới được
phép mua bán:
Những khoản thanh toán phải tồn tại một cách hợp pháp.
Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng cho những khoản
thanh toán này.
Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày.
Những khoản thanh toán phải đủ tư cách pháp lý độc lập với quyền của người
thứ ba.
Không có việc cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán này của người nhập
khẩu hoặc nước nhập khẩu.
Forfaithing: kỹ thuật factoring được chuyên môn hoá cao gọi là forfaithing.
Về cơ bản nghiệp vụ này giống nghiệp vụ factoring ở những đặc điểm sau:
Forfaithing chỉ bao gồm những khoản thanh toán cụ thể, riêng lẻ trong toàn
bộ quá trình xuất nhập dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu nói riêng.
Thời hạn thanh toán của forfaithing là trung và dài hạn, áp dụng với loại tiền
tệ có khả năng chuyển đổi mạnh USD, DEM…
Factoring phục vụ XNK không sử dụng tới chứng từ còn forfaithing dựa vào
chúng và sự đảm bảo của ngân hàng.
Tín dụng nhập khẩu
Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu dưới các hình
thức như cho vay mở L/C, tín dụng chấp nhận hối phiếu…
Cho vay mở L/C
Thư tín dụng L/C là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C cam kết
trả tiền cho nhà xuất khẩu hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát
trong phạm vi số tiền đó khi họ xuất trình toàn bộ chứng từ phù hợp với nội
dung của L/C.
Quy trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ
Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gởi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở
một L/C cho người xuất khẩu hưởng.
Căn cứ vào đơn xin mở L/C ngân hàng mở L/C sẽ lập L/C và thông qua ngân
hàng đại lý của mình ở nước xuất khẩu thông báo việc mở L/C tới nhà xuất
khẩu.
Sau khi nhận được thông báo, ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho nhà
xuất khẩu toàn bộ nội dung về việc mở L/C và khi nhận được bản gốc L/C thì
chuyển ngay cho nhà xuất khẩu.
Nhà xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu không
thì đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hợp đồng.
Sau khi giao hàng nhà xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và
xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở L/C xin thanh
toán.
Ngân hàng thông báo gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành yêu cầu thanh
toán cho nhà xuất khẩu.
Ngân hàng phát hành kiểm tra toàn bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C
thì tiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu, nếu thấy không phù hợp thì từ chối
thanh toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho nhà xuất khẩu.
Ngân hàng mở L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho nhà
nhập khẩu sau khi nhận tiền thanh toán.
9. Ngày nhận nợ và tính lãi cho vay mở L/C là ngày nhà nhập khẩu phải
thanh toán cho nhà xuất khẩu (ngày đến hạn thanh toán L/C).
10. Đối với nhà nhập khẩu việc mở thư tín dụng đã thể hiện việc ngân hàng
cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu vì mọi thư tín dụng đều do ngân hàng mở
theo đề nghị của nhà nhập khẩu. Nhưng thực tế không phải lúc nào nhà nhập
khẩu cũng có đủ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Vì
vậy ngân hàng mở L/C phải gánh chịu mọi rủi ro khi nhà nhập khẩu không có
khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi L/C đến hạn trả tiền.
10a. Khi ngân hàng mở L/C trả chậm cho nhà nhập khẩu, ngân hàng đã gián
tiếp cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu vì khi có sự chấp nhận bảo lãnh trả tiền
của ngân hàng thì nhà xuất khẩu mới đồng ý cho nhà nhập khẩu mua chịu
hàng hoá. Nếu nhà nhập khẩu sử dụng vốn tự có để mở L/C đến hạn thanh
toán với bên nước ngoài mà nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh toán thì
họ phải nhận nợ với ngân hàng và chịu lãi xuất phạt bằng 150% lãi suất cho
vay. Do vậy nhà nhập khẩu thường sử dụng việc vay để mở L/C trên cơ sở
hợp đồng đã ký.
10b. Khi mở L/C cho nhà nhập khẩu, nếu ngân hàng khống chế số dư có trên
tài khoản của khách hàng thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh của họ
do khoảng cách giữa thời gian mở L/C và thời gian nhận hàng tương đối dài.
Vì vậy, để hạn chế rủi ro ngân hàng thường cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu
theo hạn mức tín dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng phải kiểm tra khả năng kinh
doanh của nhà nhập khẩu, tình hình tài chính, đối tượng nhập khẩu… để có
cơ sở vững chắc trước khi mở L/C.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu
Đây là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng dành cho nhà nhập khẩu. Ngân
hàng cam kết chấp nhận các hối phiếu mà khách hàng của mình phải thanh
toán. Như vậy, nhà xuất khẩu sẽ được đảm bảo thanh toán khi đến hạn.
Hình thức này thường được sử dụng khi người bán thiếu tin tưởng vào khả
năng thanh toán của người mua và họ đề nghị bên mua có một ngân hàng
đứng ra chấp nhạn trả tiền hối phiếu do họ ký phát.
Đây chỉ là một hình thức bảo đảm về mặt tài chính cho nhà nhập khẩu. Nếu
đến hạn thanh toán, người mua có đủ tiền thanh toán thì ngân hàng được nhận
một khoản phí chấp nhận, thật sự ngân hàng không phải ứng tiền ra. Ngược
lại, nếu đến hạn thanh toán mà người mua không có khr năng thanh toán thì
ngân hàng phải gánh chịu thiệt hại.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu đem lại rất nhiều ưu điểm cho hoạt động xuất
nhập khẩu:
Đối với nhà xuất khẩu, với sự chấp nhận của nhà nhập khẩu, họ có sự bảo
đảm chắc chắn về khả năng thanh toán của hối phiếu và họ có thể đem hối
phiếu đi chiết khấu lại tại bất kỳ ngân hàng nào. Sự chấp nhận của ngân hàng
đã tạo ra khả năng lưu thông cho hối phiếu đồng thời cũng tạo điều kiện cho
nhà xuất khẩu được hưởng tỷ lệ chiết khấu ưu đãi.
Đối với nhà nhập khẩu, với hình thức này anh ta sẽ tạo được uy tín đối với
nhà xuất khẩu nếu nhà nhập khẩu có đủ khả năng thanh toán cho nhà xuất
khẩu khi đến hạn. Mặt khác, nhà nhập khẩu cũng có thể đem chiết khấu hối
phiếu tại một ngân hàng khác có tỷ lệ chiết khấu thấp hơn và từ khoản thu
chiết khấu này nhà nhập khẩu có được mức giá mua ưu đãi nếu thanh toán
trước hạn.
Tín dụng chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ (kỳ phiếu)
Hối phiếu tự nhận nợ là dạng hối phiếu khống trong đó ngân hàng tự nhận nợ
đối với nhà nhập khẩu. Thông qua hối phiếu này, ngân hàng cấp cho nhà
nhập khẩu một khoản tín dụng đạ biệt gọi là tín dụng chiết khấu hối phiếu tự
nhận nợ.
Hình thức này giúp cho các nhà nhập khẩu hưởng một khoản ưu đãi do việc
thanh toán nhanh trong giao dịch ngoại thương khi ngân hàng phục vụ họ
không có đủ vốn.
Quy trình chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ
Nhà nhập khẩu ký hợp đồng với nhà xuất khẩu với điều kiện thanh toán khi
giao chứng từ. Nhà nhập khẩu có thời gian 90 ngày để chi.
Nhà nhập khẩu ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng phục vụ mình trên cơ sở
hối phiếu tự nhận nợ.
Để thực hiện hợp đồng tín dụng này, ngân hàng nhà nhập khẩu thông báo và
đề nghị một ngân hàng nớc ngoài (phần lớn là ngân hàng chi nhánh của họ)
phát hành một hối phiếu tự nhận nợ có thời hạn thanh toán là 90 ngày và
được phép thanh toán tại ngân hàng nhà nhập khẩu và chuyển ngay hối phiếu
cho nhà nhập khẩu.
Ngân hàng chi nhánh thực hiện đề nghị trên (phát hành hối phiếu tự nhận nợ
và chuyển cho nhà nhập khẩu)
Nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu tự nhận nợ cho chính ngân hàng phục vụ
mình và đề nghị cung cấp hôí phiếu.
Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu chiết khấu hối phiếu tự nhận nợ và ghi có
vào tài khoản cho nhà nhập khẩu.
Nhà nhập khẩu thực hiện thanh toán theo đúng kỳ hạn cho nhà xuất khẩu.
Ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu đem hối phiếu giao cho ngân hàng Trung
ương.
Đến thời hạn thanh toán, Ngân hàng Trung ương xuất trình hối phiếu cho
ngân hàng nước ngoài đề nghị thanh toán.
Ngân hàng chi nhánh ở nước ngoài chấp nhận thanh toán trên cơ sở chuyển
vốn từ ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu hoặc từ tiền mà nhà nhập khẩu trả.
Tín dụng ứng trước cho nhà nhập khẩu
Với hình thức này, ngân hnàg sử dụng các chứng từ hàng hoá làm vật đảm
bảo. Nhà nhập khẩu được cung cấp tín dụng theo hình thức ứng trước khi họ
cần phải thanh toán tiền mặt cho nhà xuất khẩu hoặc khi nhà nhập khẩu cần
thnah toán bộ chứng từ hàng hoá chưa về đến cảng và doanh nghiệp chưa tiêu
thụ được hàng hoá để thu hồi vốn, hình thức này được ngân hàng áp dụng
cho mục đích thanh toán ngắn hạn của nhà nhập khẩu.
Tín dụng theo hiệp định khung
Đây là một hình thức tín dụng dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài nhằm hỗ
trợ cho việc thanh toán tiền hàng nhập khẩu và thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm
của các nước xuất khẩu.
Tín dụng theo hiệp định khung là một hình thức tín dụng có điều kiện, các
ngân hàng nước xuất khẩu ký kết một hiệp định khung với các ngân hàng
nước ngoài cho phép các ngân hàng này sử dụng những khoản tín dụng riêng
rẽ nhằm tài trợ cho việc nhập khẩu hàng hoá, máy móc thiết bị, dây chuyền
công nghệ từ nước họ (ít nhất 60% giá trị hàng hoá mua bán được sản xuất
hoặc có xuất sứ từ nước tài trợ).
Hình thức này được các nước phát triển sử dụng để cung cấp tín dụng cho các
nước đang phát triển. Đây là một hình thức có nhiều ưu điểm:
Đối với nhà xuất khẩu:
Họ có điều kiện cạnh tranh với đối thủ nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi
cho nhà nhập khẩu, hàng hoá của họ sẽ được ưa chuộng hơn.
Hạn chế được những rủi ro kinh tế, chính trị ở nước ngoài, đặc biệt họ giữ
được khả năng tài chính của mình.
ổn định cán cân thanh toán.
Đối với nhà nhập khẩu:
Họ có nhiều thuận lợi, có thể thanh toán từng phần công trình, máy móc thiết
bị đã nhập khẩu, đặc biệt có thể sử dụng phần lợi nhuận từ việc tiêu thụ sản
phẩm do các máy móc thiết bị nhập khẩu sản xuất ra để thanh toán.
Ưu điểm là hình thức tín dụng này thường có thời gian dài, nhà nhập khẩu sẽ
dễ dàng thu xếp được khả năng tài chính để thanh toán.
Đặc điểm của lãi suất cho vay là có thể sử dụng lãi suất thả nổi hoặc lãi suất
cố định. Ngoài ra còn có một khoản phí suất tín dụng bao gồm:
+ Phí bảo hiểm: Được tính một lần trên giá trị khoản vay. Nếu do người nhập
khẩu trả thì có thể được ngân hàng nước nhập khẩu xem xét cho vay thanh
toán một lần trước khi giải ngân hoặc trả dần suốt thời gian vay.
+ Phí cam kết: Được tính theo tỷ lệ % trên doanh số vốn vay còn lại chưa
được giải ngân.
+ Phí quản lý: Tính theo tỷ lệ % trên giá trị hợp đồng vay vốn và phải được
thanh toán trước khi giải ngân.
Nếu chọn lãi suất cố định thì chỉ phải trả hai loại phí bảo hiểm và phí cam
kết, nếu sử dụng lãi suất thả nổi thì phải trả cả ba loại phí trên.
Tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp
Nhà nhập khẩu sau khi ký hợp đồng mua bán với nhà xuất khẩu nếu họ
không có đủ tiền thì có thể xin vay ngân hàng theo phương thức đề nghị ngân
hàng chuyển trả tiền cho nhà xuất khẩu thông qua ngân hàng đại lý ở nước
ngoài.
Trong trường hợp nhà nhập khẩu đủ khả năng thanh toán, họ sử dụng hình
thức chuyển tiền thì ngân hàng chỉ thực hiện hình thức dịch vụ thông thường
và thu phí.
Quy trình tín dụng theo phương thức chi trả trực tiếp
Giao dịch hàng hoá giữa nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu.
Nhà nhập khẩu viết đơn yêu cầu chuyển tiền.
Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng đại lý.
Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho nhà xuất khẩu.
Ngân hàng đại lý phải hoàn thành việc chuyển tiền.
Ngân hàng nhập khẩu báo nợ cho nhà nhập khẩu.
Thông thường sau khi nhận hàng hoá ngân hàng đại lý mới chuyển tiền để
tránh bị nhà xuất khẩu chiếm dụng vốn.
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, ngành ngân
hàng trên thế giới đã áp dụng công nghệ tiên tiến vào hoạt động của mình.
Chính vì vậy mà có nhiều hình thức tín dụng còn rất xa lạ đối với chúng ta.
Tuy nhiên hy vọng rằng trong tương lai không xa, chúng ta sẽ áp dụng tất cả
những nghiệp vụ dụng những công nghệ hiện đại trong hệ thống ngân hàng
góp phần đáp ứng nhu cầu tài chính nhanh chóng, kịp thời, chính xác nhất.
Bảo lãnh
Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các
thương vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng..).
Từ đó nảy sinh nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro.
Trong ngoại thương, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm rõ khả năng tài chính
để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu, do vậy nhà xuất khẩu
sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thường là ngân hàng đứng ra
baỏ lãnh thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc không tin tưởng nhau,
nhà nhập khẩu có thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh
giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng,
Ngân hàng bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dùng để vay vốn nước
ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng chứng từ… Trách
nhiệm của ngân hàng bảo lãnh là thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong
trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đầy đủ một nghiệp vụ nào đó
với bên nước ngoài.
Bảo lãnh có nhiều hình thức khác nhau:
Phát hành thư bảo lãnh với nước ngoài.
Mở L/C trả chậm
Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận hối phiếu.
Lập giấy cam kết trả nợ nước ngoài.
V..v..
Đối với tái bảo lãnh thì phát hành thư bảo lãnh với nước ngoài.
Các lợi thế của các bên trong nghiệp vụ này:
Đối với nhà nhập khẩu: được hưởng một khoản vốn từ nhà xuất khẩu không
phải trả lãi (thực chất có thể giá bán đã tính vào lãi rồi). Chỉ phải trả một
khoản phí cho người bảo lãnh.
Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm đến hạn sẽ được thanh toán nợ.
Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại ngân hàng
khác.
Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất cứ ngân hàng nào khi tiến hành nghiệp
vụ bảo lãnh có nghĩa là có được sự tín nhiệm về uy tín của bên nhập khẩu và
bên xuất khẩu. Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chi cho vay trừu
tượng, nghĩa là ngân hàng không phải bỏ ra một khoản vốn nào cả mà chi lấy
uy tín, danh dự của ngân hàng làm cơ sở cho vay.
Thủ tục bảo lãnh theo phưng thức cho vay thông thường, nghĩa là khi bảo
lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích xin bảo lãnh, nếu nhà
nhập khẩu không có khả năng thanh toán thì phải làm thủ tục vay tại ngân
hàng, khoản tín dụng này là tín dụng bắt buộc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_hinh_thuc_va_quy_trinh_tin_dung_tai_tro_xuat_nhap_khau_tren_the_gioi_2689.pdf