Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG_ CSTT Ở VIỆT NAM MỤC LỤC Trang MỞĐẦU 1 NỘI DUNG 3 CHƯƠNG I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 3 1.1. Khái niệm, vị trí của CSTT 3 1.2. Mục tiêu của CSTT 4 1.3. Các công cụ của CSTT 4 1.3.1 Nghiệp vụ thị trường Mở 4 1.3.2 Dự trữ bắt buộc 5 1.3.3 Chính sách tái chiết khấu 5 1.3.4 Quản lý hạn mức tín dụng 6 1.3.5 Quản lý lãi suất 7 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ 8 CỦA CSTT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 2.1. Sựđổi mới trong việc thực hiện CSTT 8 2.2. Việc sử dụng các công cụ của CSTT những năm qua 8 2.2.1. Công cụ lãi suất 8 2.2.2. Công cụ hạn mức tín dụng 14 2.2.3. Công cụ dự trữ bắt buộc 16 2.2.4. Công cụ cho vay tái chiết khấu 18 2.2.5. Công cụ nghiệp vụ thị trường Mở 20 2.3. Đánh giá qúa trình thực hiện các công cụ của CSTT những năm 22 vừa qua. 2.3.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô. 22 2.3.2 Những vấn đề tồn tại trong quá trình thực hiện các công cụ 24 của CSTT những năm qua. CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ CỦA 28 CSTT Ở VIỆT NAM 3.1. Định hướng 28 3.1.1 Bối cảnh trong nước và Quốc tế 28 3.1.2 Một sốđịnh hướng cơ bản 29 3.2 Giải pháp 29 3.2.1 Nhóm giải pháp về việc tạo môi trường, điều kiện thuận lơị 29 3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của CSTT. 30 KẾT LUẬN 34 1

pdf38 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5451 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỉnh lãI suất dễ làm cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình. 10 Chương 2 Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay. 2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Kể khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực hiện chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau: Cách xác định lượng tiền cung ứng: Nếu như trong thời kỳ bao cấp chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lượng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ chức tín dụng khác (D). Bên cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ... Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng, đóng băng như thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều năm...) Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thlống NH đã được phân thành 2 cấp NHNN và các NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc NHNN có quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. 2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua. 2.2.1. Công cụ lãi suất: ở Việt Nam, lãi suất được sử dụng như công cụ chính của chính sách tiền tệ, nó là yếu tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá 11 stập trung sang cơ chế thị trường, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh. Giai đoạn 1988- 1991: Chính sách lãi suất được thay đổi cơ bản: Lãi suất tiết kiệm cao hơn tốc độ trượt giá (lạm phát ), nâng lãi suất tiền gửi và tiền vay của các tổ chức kinh tế tiến gần với lãi suất huy động tiết kiệm.Lãi suất cho vay vốn lưu động và tốc độ lạm phát (%) ư Biểu1: Lãi suất cho vay vốn lưu động và tốc độ lạm phát(%). Từ T3/81- T10/91 3/89 6/89 7/89 2/90 IV/90 7/91 10/91 1. Lãi tiết kiệm - Loại 3T 12 9 7 7 4 3,5 3,5 - Loại không kì hạn 9 7 5 5 2,4 2,1 2,1 2. Lãi cho vay vốn lưu động 6,8- 6,5 5,1- 5,5 3-4 3-4 1,8 1,8 2,1- 3,7 3. Tốc độ ép + 5,4 - 2,9 -2,5 +0,2 +7,6 +2,5 +5,5 Nhờ việc tăng lãi suất huy động vốn đã thực hiện được chủ trương của Nhà nước là đâỷ lùi lạm phát và có cơ sở để thực hiện việc tài trợ vốn cho các xí nghiệp quốc doanh đang lâm vào tình trạng khủng hoảng lúc bấy giờ. Song xét trên bình diện toàn nền kinh tế thì chúng ta đã thất bại trong lĩnh vực đầu tư vì lãi suất cho vay quá cao, vốn ngân hàng ứ đọng, nền kinh tế phát sinh các hoạt động kinh tế thiếu tính cực : vay tiền chơi đề, hoặc để gửi lãi ăn chênh lệch. Tình trạng đó đã dẫn đến sự đổ bể của các HTX tín dụng còn các NHTM thực chất là phá sản nếu không có bàn tay cứu giúp của Nhà nước. Việc thi hành chính sách lãi suất thực dương đã được thực hiện nhưng lại chưa triệt để vì thực tế với các ngân hàng thì lãi suất cho vay lại nhỏ hơn lãi suất huy động: Năm 1991 lãi suất huy động tiết kiệm 45% năm; chỉ số trượt giá bình quân 43,4% năm ; lãi suất cho vay 40,2% năm. 12 Giai đoạn 1992-1995: Lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như công cụ chính của CSTT, lãi suất thực dương bắt đầu được duy trì từ cuối 1992, điều chỉnh linh hoạt cùng với tỉ lệ lạm phát và bám sát thị trường (trong thời gian 2 năm từ T8/1992-T8/1994 mức lãi suất được điều chỉnh tới 6 lần), NHNN khống chế “sàn ” lãi suất tiền gửi, trần lãi suất cho vay và có một bộ phận cho vay theo lãi suất thoả thuận (T8/1992: Lãi tiết kiệm loại 3 tháng: 2,3%, lãi cho vay 2,5%, lạm phát +0,3%). Để thực hiện nguyên tắc trên đồng thời tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay để khuyến khích đầu tư phát triển trong nền kinh tế một số biện pháp sau đây đã được sử dụng: . Thay đổi cơ cấu nguồn vốn ngân hàng theo hướng tăng nhanh nguồn vốn có lãi suất thấp ( tăng tiền gửi giao dịch, vốn tín dụng nước ngoài, vốn ngân sách) . Thu hẹp chênh lệch lãi suất huy động và cho vay giữa ngoại tệ và bản tệ theo hướng tăng lãi suất đối với ngoại tệ: Lãi suất cho vay ngoại tệ năm 1993 là 7,5% lên 8,5% năm 1994 và 9,0% năm 1995 và điều chỉnh hàng tháng lãi suất ngoại tệ theo biến động lãi mất thị trường TCQT SINGAPORE. . Qua việc quốc hội thông qua dự luật bỏ thuế doanh thu NH đã hỗ trợ cho NHNN tiến thêm một bước trong việc cải tiến lãi suất vào cuối T12/1995: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa giảm từ 2,1% tháng xuống 1,75% tháng ; lãi suất cho vay trung - dài hạn được giữ nguyên không quá 1,7% tháng. Mặt khác có quy định để các NHTM tuân thủ chênh lệch lãi suất bình quân giữa huy động và cho vay là 0,35% tháng. Ngoài ra, từ T8/94: Chính sách lãi suất TD còn được cải cách theo hướng nâng lãi suất tiền gửi có kì hạn lên gần với lãi suất tiền gửi tiết kiệm của dân cư cùng kì hạn để bảo đảm lợi ích kinh tế chính đáng của họ và khuyến khích họ gưỉ tiền vào ngân hàng. Đồng thời thực hiện lãi suất cho vay trung, dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn: Năm 1994 giữ nguyên mức lãi suất cho vay ngắn hạn; nâng lãi suất cho vay trung hạn, dài hạn từ 1,2% lên 1,7% tháng. 13 Quá trình cải cách lãi suất trên đã nâng cao tính chủ động cho các NHTM trong việc ấn định mức lãi suất cụ thể theo yêu cầu huy động vốn và nhu cầu tín dụng thị trường, tăng sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và làm giảm chi phí NH có lợi cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo mục tiêu chính sách tín dụng. Giai đoạn từ 1996- Nay: Đến cuối 1996, NHNN chỉ quy định các mức lãi suất :“trần” theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân chung là 0,35%(tháng) (4,2% năm). Trong phạm vi “trần” lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất được công bố, các NHTM được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh riêng. Sau 4 lần điều chỉnh lãi suất kể từ cuối 1995: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa giảm từ 22% năm xuống 15% năm, lãi suất cho vay trung- dài hạn giảm 21% năm xuống còn 16,2% năm. Mặt khác nhằm điều chỉnh các luồng vốn dư thừa từ thành thị về nông thôn thì lãi suất cho vay ở nông thông được duy trì cao hơn một chút so với lãi suất cho vay ở thành thị. Trong năm 1997, với mục tiêu góp phần tăng trưởng kinh tế và phù hợp xu hướng giảm lãi suất, việc quy định trần lãi suất cho vay giảm mạnh, T7/1997 lãi suất cho vay ngắn hạn giảm từ 1,2% tháng xuống 1% tháng, lãi suất cho vay trung dài hạn giảm từ 1,35% tháng xuống 1,1% tháng ,chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân quy định là 0,35% tháng(4,2% năm) Tuy nhiên từ quý IV năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, đồng USD có xu hướng lên giá và lãi xuất tiền gửi bằng USD ở mức cao trong khi lãi suất huy động của VND ở mức thấp nên đã có hiện tượng người gửi tiền rút VND để chuyển sang USD. Nhiều tổ chức kinh tế và dân cư găm giữ USD gây khó khăn cho các NHTM và tăng sức ép đối với đồng nội tệ, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cho 14 thị trường tiền tệ và việc huy động vốn của các NHTM, đặc biệt là một số NHTM cổ phần. . Trước tình hình đó, ngày 20/1/1998, thống đốc NHNN ra QĐ số 39/1998 / QĐ- NHNN1 với nội dung chủ yếu là: - Đưa ra mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng bằng VND: lãi cho vay ngắn hạn từ 1%-1,2% tháng; lãi suất cho vay trung và dài hạn là 1,1- 1,25% tháng ; đồng thời xoá bỏ sự chênh lệch về lãi suất giữa 2 khu vực thành thị và nông thôn. Đó là cơ sở tăng lãi suất huy động vốn VND. Hạn chế rút tiền VND tích trữ USD ,tăng vốn cho sản xuất kinh doanh. - Quy định trần lãi suất cho vay bằng USD vẫn giữ nguyên 8,5% năm như trước đây đồng thời NHNN còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa của các pháp nhân tại TCTD nhằm hạn chế việc quản lí ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi góp phần tăng cường cho việc quản lí ngoại hối. - Đến cuối năm, trần lãi suất cho vay bằng USD được điều chỉnh giảm từ 8,5 % xuống 7,5% năm để phù hợp với cân bằng lãi suất LiBOR, SiBOR hiện hành; đồng thời góp phần mở rộng cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế. Nhìn chung việc điều chỉnh lãi suất trong năm 1998 là phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và tỷ giá, nó đã có tác động tích cực đối với việc huy động vốn và cho vay trong nền kinh tế. Tổng số vốn huy động ở hầu hết các tổ chức tín dụng đều tăng lên điều đó cho thấy mối tương quan giữa lạm phát và lãi suất tiền gửi được coi là tương đối hợp lý. Từ đó, quy mô tín dụng cung ứng cho nền kinh tế tăng lên đặc biệt tín dụng bằng VND có tốc độ tăng cao hơn. Thị trường ngoại tệ ,tỉ giá VND/USD lại trở về trạng thái tương đối ổn định. Bước sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chững lại, để phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của chính phủ , NHNN đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất cho vay bằng VND theo xu hướng giảm: Từ 1,2% tháng (ngắn hạn) và (1,25%tháng -trung dài hạn) xuống mức thấp nhất là 0,85% tháng (thành thị); 1% tháng (nông thôn); 1,15% tháng (NHTMCP nông thôn- 15 Quỹ TDND cơ sở ); 0,7% (NH phục vụ người nghèo). Trần lãi suất cho vay bằng USD là 7,5% năm. Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp với diễn biến của nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh nguy cơ giảm phát đang là chậm lại tốc độ tăng trưởng. Năm 2000, lãi suất trong nước có những diễn biến khá phức tạp .Thực hiện chủ trương kích cầu của chính phủ, lãi suất cho vay bằng VND vẫn tiếp tục được điều chỉnh theo xu hướng giảm: lãi suất cho vay phổ biến gỉam từ 0,75% tháng xuống 0,70% tháng. Trong khi đó lãi suất ngoại tệ lại chịu tác động của thị trường tài chính quốc tế, trong năm 2000, lãi suất thị trường quốc tế liên tục tăng buộc lãi suất ngoại tệ trong nước cũng phải tăng theo (từ 3,5% năm lên 4,5% năm ), nhiều khi lãi suất VND thấp hơn lãi suất USD. Ngày 2/8/2000, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất: chuyển từ cơ chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ: Đối với cho vay VND, lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất cơ bản được công bố hàng tháng. Hiện nay, lãi suất cơ bản là 0,75% tháng, biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3% tháng, biên độ cho vay trung và dài hạn là 0,5% tháng. Đối với lãi suất cho vay USD, lãi suất cho vay không vượt quá lãi suất USD trên thị trường liên NH Singapore (SiBOR) kì hạn 3 tháng đôí với cho vay ngắn hạn, kì hạn 6 tháng đối với cho vay trung dài hạn tại thời điểm cho vay cộng biên độ do thống đốc NHNN quy định (Hiện nay biên độ cho vay ngắn hạn là 1% năm , biên độ cho vay trung dài hạn là 2,5% năm ). Còn đối với các ngoại tệ khác do chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động tiền gửi TD nên cho phép các TCTD tự xác định. Với nội dụng điều hành lãi suất cơ bản như trên cho thấy lãi suất cơ bản được xác định trên cơ sở lãi suất thị trường với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo sự kiểm soát lãi suất của NHNN, phù hợp thực tiễn Việt Nam, đây là một bước tiến mới, bước đi tiếp theo trong tiến trình tự do hoá lãi suất. 16 Như vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định tỷ giá VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng trong quá trình ổn định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng tiền Việt Nam và lòng tin của dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần tình trạng sử dụng hay cất trữ USD, từng bước đẩy lùi tình trạng “đô la hoá” ở Việt Nam. Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển chưa cao, việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn. 2.2.2 Công cụ Hạn mức tín dụng: Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của thời kì đổi mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm phát: Những năm 1990-1991do lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6% tháng ). Để khống chế lạm phát, NHNN chủ trương thi hành CSTT “thắt chặt” ngay từ đầu năm để giảm bớt lượng tiền cung ứng. Dựa trên một số chỉ tiêu vĩ mô dự kiến năm 1992 là: Tăng trưởng kinh tế (4,5%); chỉ số lạm phát (30%/ năm), NHNN đưa ra hạn mức tín dụng đối với tất cả hệ thống NHTM là 34,5% (mức tăng so với năm trước) . Bằng nhiều biện pháp kết hợp, năm đó chúng ta đã đạt được kết quả thực tế rất khả quan: mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến (8,65%), mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất nhiều (17,6%), tiền tệ đi dần vào ổn định. ở thời kỳ đầu, công cụ hạn mức TD chỉ áp dụng cho 4 NHTMQD( NH Ngoại thương, NH Công thương, NH Nông nghiệp, NH đầu tư phát triển) nhưng sau vài năm đổi mới, do quy mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá nhanh, số lượng các NHTM ngày càng nhiều nên NHNN quyết định áp dụng hạn mức tín dụng cho hầu hết các NHTM. Tính đến cuối năm 1997 có 26 NHTM trong nước phải áp dụng hạn mức tín dụng còn các NH nước ngoài và NH liên doanh tuy chiếm thị phần tín dụng đáng kể (10-15% thị phần tín dụng trong nước) nhưng vẫn chưa phải áp dụng hạn mức tín dụng. 17 Những năm sau đó, đặc biệt là từ 1995 đến 1997, NHNN vẫn tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” để kiểm soát lạm phát từ đó đưa ra rỉ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa phải cho các NHTM. Song kết quả thực tế cho thấy hiện tượng phổ biến là hầu hết các NHTM đều có xu hướng vượt qúa chỉ tiêu hạn mức tín dụng được giao, cụ thể . Biểu 2: Tình hình thực hiện hạn mức tín dụng (1995-1998). 1995 1996 1997 Quỹ T D /1998 Năm Danh mục KH giao Thực hiện KH giao Thực hiện KH giao Thực hiện KH giao Thực hiện Tăng so với năm trước 21% 37,8% 25% 29% 21% 26,4% 4% 4,8% Hiện tượng trên xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất, trong giai đoạn nay tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân hàng năm của các NHTM tăng nhanh (khoảng 26% đến 37% năm) vì vậy các NHTM tất yếu phải thực hiện đầu tư tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế vì con đường để đầu tư qua thị trường tiền tệ, thị trường vốn là khó khăn trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ. Thứ hai, Do diễn biến lãi suất đang có xu hướng giảm trần lãi suất cho vay trong khi đó để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi suất huy động (do tâm lý người dân không muốn gửi), điều đó làm cho chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động giao động ở mức 0,15% - 0,25% tháng, thấp hơn so với trước đây 0,3%-0,45% tháng. Với chênh lệch như vậy để đảm bảo hoạt động kinh doanh đủ bù đắp chi phí hoạt động thì buộc các NHTM phải tăng dư nợ đối với nền kinh tế. Hiện tượng trên cũng góp phần giải thích tại sao trong những năm 1995- 1997 mặc dù lạm phát được kiểm chế ở mức thấp (bình quân 6,9% năm) nhưng nền kinh tế vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao 9,28% năm. 18 Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán vì lạm phát có xu hướng giảm và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng tăng và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Do đó từ quý II/1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ (mặc dù có thể coi nó như một giải phóng tình thế khi cần thiết). Công cụ này sẽ được xoá bỏ hoàn toàn khi thị trường tiền tệ ổn định , thị trường vốn phát triển và thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả. 2.2.3 Công cụ Dự trữ bắt buộc Đây là công cụ gián tiếp điều chỉnh mức cung tiễn được sử dụng sớm nhất ở Việt Nam (từ 1991), theo pháp lệnh Ngân hàng (1990), tỷ lệ DTBB có thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM. Song trong điều kiện thực tế lúc bấy giờ khi tiềm lực của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể, nên NHNN đã quy định tỉ lệ DTBB là 10%; được áp dụng cho các NHTMQD, NHTM cổ phần ,chi nhánh NH nước ngoài,NH liên doanh và các công ty tài chính. Qua quá trình thực hiện ban đầu cho thấy rất ít NHTM dự trữ đủ 10% nhất là các NHTM cổ phần, do vậy để nâng cao hiệu quả của công cụ này, trong năm 1994, NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB; quy định mức DTBB thống nhất đối với tất cả các NHTM(có phân biệt với các loại tiền gửi khác nhau : tiền gửi, tiền tiết kiệm không kì hạn: 13%;tiết kiện kì hạn 3,6 tháng, kì phiếu mục đích, trái phiếu: 8%) ; đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng quy chế phạt đối với các TCTD không thực hiện đúng quy chế DTBB. Năm 1995, NHNN quy định (T10/1995) DTBB chỉ được tính đối với loại tiền gửi có kì hạn từ 12 tháng trở xuống, thống nhất ở mức 10% được áp dụng cho tất cả các NHTM( trừ NHTMCP nông thôn, HTX tín dụng, quỹ TDND tạm thời chưa phải thực hiện). Số lần tính DTBB hàng tháng tăng lên, lại bỏ dần tín phiếu kho bạc trong cơ cấu tiền gửi DTBB; tiễn gửi DTBB được 19 hợp nhất với tiền gửi thanh toán của các NHTM vào một tài khoản chung là tài khoản tiền gửi không kì hạn tại NHNN. Tiền gửi dự trữ vượt được trả lãi 0,1% tháng (Năm 1996). Điều này đã tạo sự linh hoạt hơn cho việc điều chỉnh dự trữ của các NHTM tại NHNN, góp phần gián tiếp khống chế lãi suất thị trường và khối lượng tín dụng cung ứng để thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát. Đến T12/97, Quy chế DTBB có sự thay đổi để đảm bảo tính cụ thể, rõ ràng hơn: Tiền gửi DTBB tại NHNN được tính bình quân trong cả kì duy trì, tỷ lệ DTBB vẫn là 10%, tiền dự trữ vượt được hưởng lãi suất 0,2% tháng (bằng VND) và 4,86% năm (đối với USD). Đồng thời NHTM nào thiếu tiền gửi DTBB trong kì duy trì sẽ bị phạt theo mức 200% lãi suất cho vay tái cấp vốn của NHNN (VND), từ đó khuyến khích các NHTM thực hiện đúng quy chế DTBB. Để luật NHNN có hiệu lực (từ 1/10/1998) ,từ cuối 1998 và trong năm 1999, quy chế DTBB có những thay đổi đáng kể: Đối tượng áp dụng được mở rộng thêm (quỹ TDND, NH hợp tác);số tiền DTBB phải gửi tại NHNN để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thay cho quy định về cơ cấu tiền DTBB trước đây: 70% gửi tại NHNN và 30% tiền mặt, ngân phiếu còn thời hạn thanh toán; việc trả lãi tiền DTBB do chính phủ quy định. Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 1999 tỉ lệ DTBB được điều chỉnh nhiều lần theo xu hướng gỉam nhằm nới lỏng tiền tệ, kích thíh đầu tư, tiêu dùng. Biểu 3: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD năm 1999 Tỉ lệ DTBB (%) TCTD 1/1/99 1/3/99 1/6/99 1/7/99 1/10/99 1. NHTMQD, NHTM của đô thị, chi nhánh NH nước ngoài, NH liên doanh & Công ty TC 10 7 6 5 5 - NH nông nghiệp và PTNT 10 7 6 5 3 20 2. NHTMCP nông thôn, NH hợp tác, Quỹ TDNDTW, khu vực. 0 5 4 1 1 3. TCTD có số dư tiền gửi phải tính DTBB dưới 500trđ quỹ TDND cơ sở, HTX tín dụng, NH phục vụ người nghèo. 0 0 0 0 0 Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở rộng tín dụng, giảm chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn của các NHTM do lãi suất giảm. Trong năm 2000, NHNN tiếp tục áp dụng tỷ lệ DTBB bằng VND như năm 1999. Riêng về tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để tạo tín hiệu hạn chế việc các TCTD huy động tiền gửi USD ( qua việc nâng lãi suất huy động) để gửi ra nước ngoài hưởng chênh lệch lãi suất, khuyến khích các TCTD cho vay trong nước, ngày 1/10/2000 NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 8% kể từ kỳ duy trì DTBB tháng 11/2000. Sau đó nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương trên ,ngày 1/12/2000 NHNN tiếp tục nâng tỷ lệ DTBB lên 12% áp dụng từ kỳ duy trì DTBB 12/2000. Như vậy, công cụ DTBB ngày càng được hoàn thiện và trở thành công cụ đắc lực của NHNN Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ. 2.2.4 Công cụ Cho vay tái chiết khấu ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã được sử dụng như là một công cụ của CSTT ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì chưa hội đủ những điều kiện nên việc áp dụng nó còn giản đơn làm cho hiệu quả của nó còn nhiều hạn chế. Mặc dù vậy trong những năm gần đây nó đã trở thành công cụ đắc lực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu của CSTT quốc gia. Thời kỳ đầu, cho vay chiết khấu được thực hiện qua việc NHNN cho NHTM vay ngắn hạn căn cứ vào khế ước tín dụng ( có chất lượng ) do NHTM đem thế chấp tại NHNN, lãi suất tái cấp vốn được xác định dựa theo 21 lãi suất cho vay (cao nhất ) của các NHTM và được điều chỉnh linh hoạt theo mục tiêu CSTT quốc gia ở mỗi thời kỳ. Năm 1994 với mục tiêu kiềm chế lạm phát, NHNN hạn chế tới mức thấp nhất mức tái cấp vốn cho các NHTM qua việc nâng lãi suất tái cấp vốn từ 85% -100% lãi suất cho vay các NHTM, riêng NH nông nghiệp là 95%. Năm 1995 để đẩy mạnh mục tiêu trên, NHNN đã ngưng tái cấp vốn cho các NHTM nhằm đẩy mạnh công tác thu hồi nợ và giảm cho vay tín dụng của các NHTM. Nhờ đó, đến cuối 1995 dư nợ cho vay chiết khấu của NHNN đã giảm xuống 13% so với 1994. Năm 1996 ,để giải quyết tình trạng khó khăn trong thanh toán của các NHTM, NH đã thực hiện việc cho vay ngắn hạn đối với các NHTM trong trường hợp tạm thời thiếu khả năng thanh toán (qua các phiên thanh toán bù trừ trên từng địa bàn). Nhưng áp dụng lãĩ suất tái chiết khấu ở mức tối đa. Điều này một mặt bảo đảm được sự ổn định của hệ thống ngân hàng, mặt khác hạn chế được khả năng cung ứng vượt qúa về tín dụng của các NHTM đồng thời khuyến khích việc huy động vốn của các NHTM, cũng hạn chế bớt việc các NHTM vay tiền của NHNN, vì vậy cuối năm 1996, dư nợ cho vay tái chiết khấu chỉ tăng 3,5% so với 1995. Trong năm 1997 NHNN đã sử dụng phương thức tái cấp vốn có thế chấp (bằng chứng từ, tiền gửi ngoại tệ tại NHNN) nhằm bù đắp khó khăn tạm thời trong thanh toán cho các NHTM. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ quy định 100% lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế sang quy định mức lãi suất cụ thể (từ tháng 3-tháng 7năm 1997). Mức lãi suất tái cấp vốn quy định là 1,1% tháng, từ T8/1997là 0,9% ). Do trong năm 1997 các NHTM đã tích cực hơn trong việc trả nợ NHNN và khả năng huy động vốn tăng nên đến cuối 1997, dư nợ tái cấp vốn của NHNN giảm 11,9% so với 1996. Năm 1998, để thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm hạn chế sự gia tăng lạm phát do ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, NHNN đã tăng lãi suất tái chiết khấu từ 1% tháng 1,1% tháng (thấp hơn tiền lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,1% tháng. 22 Năm 1999, với mục tiêu khuyến khích tăng trưởng kinh tế, khắc phục nguy cơ giảm phát NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tái cấp vốn từ mức 1,1% tháng đầu năm xuất 0,5% tháng đồng thời quy chế về nghiệp vụ chất khấu, tái chiết khấu đã được ban hành để phát triển một bước hiệu quả công cụ này trong chính sách tiền tệ và tạo khả năng cân đối nguồn vốn hoạt động cho các ngân hàng. Các giấy tờ có giá ngắn hạnh được chiết khấu tại NHNN là tín phiếu kho Bạc, trái phiếu NHNN và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác do NHNN quy định ở mỗi thời kỳ. Mức lãi suất tái chiết khấu được công bố là 0,45% tháng. Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000, nhằm khuyến khích mở rộng tín dụng của các TCTD, NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5% tháng xuống 0,45% tháng (31/3/2000) và xuống 0,4% tháng (31/7/2000). Đồng thời NHNN cũng giảm lãi suất tái chiết khấu từ 0,45% tháng xuống còn 0,4% tháng (T3/2000) và xuống 0,35% tháng (T7/2000). Tuy vậy cho đến T9 /2000 để hạn chế các TCTD bù đắp thiếu hụt thanh toán qua hình thức vay tái cấp vốn, tái chiết khấu từ NHNN và khuyến khích thực hiện bù đắp qua thị trường mở nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường này, đồng thời tạo tín hiệu cho các TCTD tăng lãi suất huy động, ngày 2/11/2000 NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn lên 0,5% tháng và tăng lãi suất tái chiết khấu lên 0,45% tháng. Như vậy công cụ cho vay chiết khấu đã dần được áp dụng theo đúng bản chất của nó là tín hiệu cho các NHTM điều chỉnh lãi suất cùng với sự phát triển của thị trường ở Việt Nam , trở thành một công cụ đắc lực của chính sách tiền tệ quốc gia... 2.2.5 Công cụ Nghiệp vụ thị trường mở Luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện CSTT quốc gia” 23 Trước khi thị trường mở chính thức được đưa vào vận hành ở Việt Nam, NHNN đã từng bước tạo lập cơ sở cho nó qua việc tổ chức đấu thầu và phát hành các loại tín phiêú, đó là: Tín phiếu kho bạc Nhà nước (KBNN): từ năm 1996 đến hết năm 1998 NHNN đã phối hợp với KBNN tổ chức đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho bạc. Năm 1996, KBNN đã phát hành gần 100 tỷ đồng tín phiếu qua NHNN, sau đó chủ yếu là phát hành trái phiếu kho bạc (thời hạn một năm). Tổng mệnh giá trúng thầu năm 1997 là 2917,5 tỷ VND (37 đợt ); năm 1998 là 4020,7 tỷ VND (46 đợt),năm 1999 là 3011.6 tỉ VND(46 đợt) , năm 2000 là 4441.0 tỉ VND (43 đợt). Các đối tượng trúng thầu chủ yếu là các NHTM Quốc doanh, các NHTM cổ phần và các Công ty Bảo hiểm. Song nếu theo quy định của luật NHNN thì các trái phiếu này không thể sử dụng làm công cho thị trường mở được. Tín phiếu NHNN: Do NHNN Việt Nam phát hành từ năm 1995, tính đến thời điểm tháng 7/1999 NHNN đã tổ chức được 6 đợt phát hành tín phiếu NHNN. Các đợt này đều được tổ chức vào các thời điểm khi mà tổng phương tiện thanh toán và lạm phát có xu hướng gia tăng nhằm rút bớt tiền trong lưu thông. Tổng mệnh giá đã phát hành của cả 6 đợt là 3.400 tỉ VND; phần lớn các tín phiếu này đều có thời hạn 3 tháng. Cho đến ngày 12/7/2000, NHNN chính thức khai trương đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động theo phương hướng sử dụng nó như là một công cụ điều tiết tiền tệ linh hoạt và có hiệu quả của NHNN. Trong năm 2000, NHNN đã thực hiện được 17 phiên giao dịch thị trường mở, trong đó có 14 phiên mua được 1353,50 tỷ đồng đạt 71,24% khối lượng chào mua với lãi suất trong khoảng 4,20%- 5,58% năm và 3 phiên bán được 550 tỷ đồng đạt 100% khối lượng chào bán với lãi suất trong khoảng 4,0%- 4,6% năm. Đến 31/12/2000 ; NHNN đã bơm 405 tỷ đồng qua thị trường mở sau khi loại trừ các khoản mua, bán đã đến hạn thanh toán. Từ 1/1/2001- 7/2/ 2001, NHNN đã thực hiện được 3 phiên giao dịch mua được 160 tỉ đồng chỉ đạt 50% khối lượng chào mua với mức lãi suất 3,5-4,6 24 %năm. Đã có 18 tổ chức tín dụng đăng kí là thành viên của thị trường (tuy vậy mỗi phiên giao dịch chỉ có thường xuyên từ 1 đến 3 thành viên tham gia)Phương thức giao dịch chủ yếu là Mua- Bán có kì hạn (15 ngày -4tháng ) hoặc mua hẳn- bán hẳn. Như vậy,ở Việt Nam thị trường mở đã tìm được con đường đi riêng cho mình và tính ưu việt của nó đã được phát huy tác dụng ở một mức độ nhất định (đã giúp cho các NHTM được chủ động hơn trong việc điều chỉnh lượng vốn khả dụng của mình, qua đó NHNN phần nào đã thực hiện được mục tiêu CSTT quốc gia).Tuy vậy ,đây mới chỉ là giai đoạn khởi đầu và mang tính chất thử nghiệm nên đòi hỏi nó phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện. 2.3 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua. 2.3.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô. *Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ: Có thể nói đây là thành tựu đáng được ghi nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm soát chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng hàng năm và đó được xem như một bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và kiềm chế làm phát, ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, làm cho giá cả ổn định, đời sống người dân không ngừng được cải thiện. Biểu 4: Mối quan hệ giữa tổng phương tiện thanh toán với tỷ lệ lạm phát Năm Chỉ tiêu 199 1 199 2 199 3 199 4 1995 199 6 1997 1998 1999 200 0 Tốc độ tăng của M2(%) 78 34 19,8 27,8 22,3 22,7 25,4 23,9 39,28 38 Tỷ lệ lạm phát (%) 67,6 17,6 5,2 14,4 12,7 4,5 3,6 9,2 0,9 6 25 Về sức mua đối ngoại của đồng tiền, cơ chế điều hành tỉ gía từng bước được điều chỉnh phối hợp cùng với các công cụ của CSTT đã dần phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Biểu 5: Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam Năm Chỉ tiêu 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 - Xuất khẩu (%) 24 12 39 28 38 24 4 23,3 =11.540 tr USD - Nhập khẩu (%) 9 53 48 24 54 -7 11 _ * Góp phần tăng trưởng kinh tế:Việc ổn định giá trị VND đã tạo lòng tin của nhân dân vào đồng bản tệ, tạo môi trường đầu tư lành mạnh, thu hút được nguồn vốn đáng kể từ trong và ngoài nước. Đặc biệt việc điều chỉnh các công cụ CSTT: lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt buộc... của NHNN ở các giai đoạn cụ thể đã có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới việc huy động và phân bổ nguồn vốn có hiệu quả trong nền kinh tế của các TCTD. Cũng từ đó mà góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế liên tục qua các năm. Biểu 6:Tình hình tăng trưởng kinh tế (GDP) của Việt Nam Năm Chỉ tiêu 9 1 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 6 DP (tỉ VND) giá so sánh 1981-1994 33.99 1 36.73 5 39.98 2 195.5 67 213.83 3 231.2 64 244.6 76 256.26 9 273.43 9 26 Tăng trưởng 6DP(%) 6 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 8,8 5,8 4,8 6,7 Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của CSTT ở Việt Nam đã góp phần đạt được hai mục đích thường mâu thuẫn nhau đó là: Vừa đẩy lùi lạm phát vừa tăng trưởng kinh tế. Có được kết qủa này còn phải kể đến vai trò của nhiều CSKT vĩ mô khác nữa và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta chưa đạt được mức năng suất biên của sản lượng tiềm năng trong nền kinh tế. * Ngoài ra, việc sử dụng các công cụ của CSTT cũng góp phần gián tiếp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm. Năm 1999 cả nước giải quyết được việc làm cho 1,2 triệu lao động và thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn (năm 2000,tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 11%). 27 2.3.2 Những vấn đề tồn tại trong qúa trình thực hiện các công cụ của CSTT những năm qua. Trong những năm qua, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến việc kiểm soát và điều hành toàn bộ quá trình cung ứng tiền (phương pháp dự đoán không phù hợp, phương thức điều hành MS không linh hoạt cùng với các biến đổi kinh tế, mới chỉ quan tâm đến khối lượng tiền phát hành hàng năm cho 2 mục tiêu (cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế thông qua cho vay chiết khấu các NHTM và mua ngoại tệ, chưa đánh giá đúng khả năng tạo tiền của các NHTM). Từ đó dẫn đến việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết sự tăng, giảm khối lượng tiền trong nền kinh tế của NHNN thời gian qua cũng bị hạn chế ở nhiều mặt. Nhóm các công cụ trực tiếp: Được sử dụng chủ yếu trong việc điều tiết cung tiền thời gian qua, những công cụ này chỉ phù hợp với quá trình chuyển đổi kinh tế trong giai đoạn đầu nhưng trong tương lai sẽ không còn phù hợp nữa (rõ nhất là công cụ hạn mức tín dụng đã bị loại bỏ từ quý II/98). Lãi suất là công cụ được sử dụng thường xuyên nhất trong điều hành CSTT ở Việt Nam vừa qua. Tuy nhiên, cũng như tình trạng ở các nứơc đang phát triển khác, ở Việt Nam lãi suất không nhạy cảm lắm với đầu tư. Điều này được thể hiện rõ rệt trong hai năm (1998, 1999) khi trần lãi suất cho vay giảm liên tục nhưng đầu tư vẫn chưa tăng mạnh, giá cả và sản lượng không những không tăng mà còn tiếp tục giảm (tuy điều này còn liên quan đến các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát từ yếu tố tiền tệ danh nghĩa). .Việc NHNN luôn tiếp điều chỉnh lãi suất trong một khoảng thời gian ngắn (từ 1/6/99-4/9/99) đã 3 lần giảm lãi suất cho vay )đã gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng.Vì lãi suất cho vay được điều chỉnh giảm (liên tục) trong khi đó lãi suất nhận gửi ở thời kì trước vẫn giữ nguyên từ đó xuất hiện khả năng tiềm tàng về rủi ro lãi suất bất khả kháng.Việc điều chỉnh theo xu hướng giảm trong thời gian qua ít có tác dụng tích cực đến việc tăng cường huy động 28 vốn trong và dài hạn. Việc các NHTM tự quy định lãi suất tiền gửi thanh toán trong khung trần lãi suất cho vay tối đa đã dẫn tới các NHTM tranh giành khách hàng bằng việc tăng lãi suất tiền gửi thanh toán lên khá cao, khiến cho tổng số vốn huy động của toàn ngành NH không tăng mà chỉ chuyển từ NH này sang NH khác, gây bất ổn định trong kinh doanh. . Các NHTMQD đang còn phải bao cấp qua lãi suất cho vay theo chỉ đạo của NHNN, nếu điều này kéo dài sẽ triệt tiêu tính kinh doanh của các NHTM. . Việc điều chỉnh lãi suất của NHNN nhiều khi còn chậm so với thị trường vì thế nó có tác dụng khẳng định hơn là hướng dẫn diễn biến thực tế. Mặt khác cơ sở để NHNN điều chỉnh lãi suất còn nặng về quan điểm trường phái trọng tiền ( căn cứ vào sự thay đổi của chỉ số giá cả thị trường là chủ yếu, sự ảnh hưởng của thị trường vốn còn hạn chế) . Hơn nữa, trong nền KTTT về mặt nguyên tắc thì lãi suất phải được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Việc kiểm soát lãi suất của NHNN hiện nay chính là một kiểu can thiệp giá của nhà nước. Nếu cứ như vậy sẽ là không phù hợp trong tương lai khi hệ thống thị trường ở Việt Nam phát triển hoàn thiện hơn. Công cụ dự trữ bắt buộc :Trong nhiều năm liền (kể từ khi có pháp lệnh NH T5/1990 ) chúng ta duy trì một cách cứng nhắc tỉ lệ DTBB 10%, điều này chỉ phù hợp trong thời kỳ đầu nhưng sau đó khi đồng tiền Việt Nam đi vào ổn định thì đó là tỉ lệ không hợp lý, thiếu linh hoạt song NHNN trong thời gian đó vẫn không có quyền thay đổi vì để sửa đổi pháp lệnh phải có thời gian. Kể từ khi luật NHNN được thực hiện, tỉ lệ DTBB tuy có được điều chỉnh giảm đi (0-20%) và linh hoạt hơn nhưng theo nhiều chuyên gia đánh giá thì nó vẫn ở mức cao. Việc thực hiện các quy định về DTBB của các TCTD chưa nghiêm, tiềm ẩn các nguy cơ khủng hoảng khả năng thanh toán. Mặt khác đối tượng phải áp dụng quy chế DTBB còn chưa đầy đủ, các đối tượng áp dụng thì mức độ tỉ lệ DTBB còn khác nhau- có nhiều yếu tố khộng hợp lý. Như vậy NHNN vẫn chưa thực sự tạo ra được một “sân chơi bình đẳng”đối với các TCTD. 29 Trong điều kiện thực tế Việt Nam, tác dụng của công cụ nay còn hạn chế, chưa biểu hiện rõ nét, thời gian gần đây cùng với lãi suất thị trường, lãi suất tái cấp vốn, chúng ta đã liên tục hạ thấp tỉ lệ DTBB tuy nhiên vẫn chưa thúc đẩy nền kinh tế phát triển rõ rệt, kết quả biểu hiện còn khá khiêm tốn. Thực tế đó chứng tỏ ở Việt Nam hiện nay chưa có một cơ chế đầy đủ để CSTTC (cụ thể là các công cụ của CSTT) phát huy tác dụng, mối liên hệ - tác động của nó với các biến số kinh tế vĩ mô còn rất hạn chế. Công cụ cho vay tái chiết khấu: Chúng ta còn thiếu tiền đề quan trọng để thực hiện nghiệp vụ này đó là việc sử dụng thương phiếu chưa phát triển phổ biến trong các giao dịch thương mại; công cụ mà NHNN thực hiện nghiệp vụ này là các tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN. Theo lý thuyết, lương tiền phát hành vào lưu thông qua con đường tái chiết khấu sẽ là phù hợp hơn nếu nó được dựa trên các thương phiếu(vì lượng tiền đó được bảo đảm bằng sự gia tăng khối lượng hàng hoá của nền kinh tế) . . Việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán của các NHTM hiện nay phải chăng là quá dễ dãi theo nguyên lí phát hành tiền. Nó có thể đáp ứng nhu cầu trước mắt của các NHTM nhưng nó cũng dễ phát sinh các tiêu cực trong qúa trình thực hiện , chưa kích thích sự năng động của các NHTM . Như vậy sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát, gây bất ổn đối với giá trị đồng tiền quốc gia. .Trong việc điều chỉnh chính sách chiết khấu dường như chúng ta chỉ nặng về điều chỉnh lãi suất chiết khấu mà chưa chú ý đến “cửa sổ chiết khấu” của NHTW đối với các NHTM (vì quy mô cung ứng cho vay chiết khấu của NHNN đối với các NHTM cũng phải căn cứ vào thực lực của chính các NH đó). Mặt khác việc áp dụng lãi suất chiết khấu nhiều khi còn mang nặng tính bao cấp ( ưu tiên NHTMQD) do vậy vai trò “người cho vay cuối cùng” đối với mọi TCTD của NHNN chưa thực sự thể hiện rõ nét. 30 Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Về cơ bản thì đây chưa thực sự trở thành một công cụ điều tiết linh hoạt, chủ yếu của NHNN ở Việt Nam mặc dù theo lý thuyết vai trò của nó là rất to lớn. - Vấn đề nêu trên có thể biểu hiện ở các khía cạnh sau: . Quá trình tạo “hàng hoá” còn chậm chạp, việc tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN của NHNN còn mang nặng tính hành chính, các chủ thể tham gia không nhiều chủ yếu là các NHTM quốc doanh, Công ty Bảo hiểm với mục đích đơn giản là giải quyết nguồn vốn khả dụng dư thừa của họ. . Việc mua bán lại tín phiếu còn chưa phổ biến đối với công chúng khiến cho lượng tín phiếu mà các TCTD sau khi mua được hầu như lại nằm im trong két của họ điều đó cũng làm giảm ý nghĩa và sự sôi động của thị trường sơ cấp. .Trên thị trường mở ,khối lượng giao dịch còn thấp , số thành viên tham gia chưa nhiều nên tác độngcủa thị trường mở đến lượng vốn khả dụng của các NHTM còn rất hạn chế. Như vậy,từ các tồn tại trên đòi hỏi phải có những định hướng cơ bản và các giải pháp cụ thể để có thể sử dụng các công cụ của CSTT một cách có hiệu quả ở Việt Nam. 31 Chương 3 định hướng và giảI pháp hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam 3.1. Định hướng 3.1.1.Bối cảnh trong nước và quốc tế Bước sang thế kỷ 21,đất nước chúng ta có những điều kiện thuận lợi để phát triển đó là : sự ổn định về chính trị-xã hội,sự phát huy các lợi thế so sánh của đất nước phục vụ cho sự phát triển .Tuy vậy nền kinh tế của chúng ta từ khi đổi mới đến nay sau những năm phát triển liên tục,cao thì lại đang có xu hướng chững lại, tình hình giảm phát đã thể hiện rõ điều này.Lý do được giải thích có thể là do hậu quả thiên tai ,lũ lụt đã liên tiếp xảy ra hoặc xuất phát từ chính các yếu tố,lĩnh vực của sản xuất đang bộc lộ rõ sự yếu kém tụt hậu tương đối so với khu vực và thế giới . Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của chúng ta đã tiến triển rất tốt đẹp tạo cơ hội để phát triển đất nước ;chúng ta đã có quan hệ với rất nhiều các quốc gia trong khu vực và thế giới ,tham gia nhiều hiệp ước kinh tế như AFTA,WTO đặc biệt có nhiều quan hệ tốt đẹp với các tổ chức,định chế tài chính lớn như IMF,WB,ADB.. Mặt khác ,nền kinh tế thế giới và khu vực Đông á,Đông Nam á đang có dấu hiệu phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm qua.Đây là một trong những nhân tố quan trọng góp phần ổn định thị trường tàI chính tiền tệ ở nước ta . Trong xu hướng tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ thì việc nâng cao hiệu quả các công cụ của CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn VN là vấn đề còn phải lưu tâm rất nhiều . 32 3.1.2. Một số định hướng cơ bản: -Việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bước hoà nhập với thông lệ quốc tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước . -Nhất quán quan điểm cơ bản là: từng bước một chuyển đổi từ việc sử dụng các công cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu quả hơn. -Việc áp dụng ,điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính thực tiễn đó là thực trạng nền kinh tế VN và đặt trong mối quan hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế . 3.2.Giải pháp : 3.2.1.Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trường thuận lợi -Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó trong một chỉnh thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT cần được độc lập với chính sách tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. -Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng cố và phát triển để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là cơ chế lan truyền tốt nhất để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT. -Theo hướng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện,cơ cấu lại hệ thống NH để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động . -Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong việc thu thập ,xử lý thông tin và ra quyết định điều hành CSTT -Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng ,tài chính để cơ chế thực thi CSTT nói chung ,các công cụ của CSTT nói riêng được nghiêm minh và có hiệu quả hơn. 33 -Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp thói quen mới trong tâm lý của các cá nhân ,các doanh nghiệp để giúp việc thực hiện các công cụ của CSTT có hiệu quả hơn ,ví dụ: tạo thói quen thanh toán qua ngân hàng của các tổ chức kinh doanh ,thói quen sử dụng hoạt động thị trường mở của các tổ chức tín dụng ... 3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ . Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát thực tiễn VN -phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới CSTT.Hệ thống các công cụ phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng hỗ trợ ,phối hợp thúc đẩy lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau .Cụ thể: *Đối với công cụ hạn mức tín dụng: NHTN tuy không coi đây là một công cụ thường xuyên nhưng cũng cần phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và NHNN sẽ can thiệp vào hoạt động này trong điều kiện cụ thể. *Đối với công cụ lãi suất : Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trường trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền,tổ chức tín dụng và người vay tiền, tạo điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế . Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù hợp các tổ chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố:Lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp;sự biến động của quan hệ cung cầu;vốn đầu tư; mức độ lạm phát và diễn biến lãi suất trên thị trường . NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền vay dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn dài hạn đầu tư cho nền kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính đến xu hướng tăng hay giảm lãi suất ngắn hạn trong từng thời kỳ . Việc duy trì các mức lãI suất ưu đãi cho các đối tượng dân cư gặp điều khó khăn là phù hợp ; tuy vậy chính phủ cần tìm các nguồn ngân sách và các 34 kênh tài trợ hoạt động này đặt ngoài hoạt động kinh doanh của các NHTM quốc doanh. Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một cách hợp lý ,từng bước giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tượng “đô la hoá” trên đất Việt Nam . Trước mắt, trong những tháng đầu năm 2001 nền kinh tế đang có những biểu hiện thiếu vốn, trong khi đó việc huy động và cung ứng vốn của các TCTD đang gặp phải một số khó khăn; có ý kiến cho rằng việc NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản với biên độ như hiện nay là còn rộng, từ đó làm nảy sinh những hiện tượng thiếu tích cực trong cạnh tranh giữa các NHTM. Do vậy, NHNN có thể nên điều chỉnh giảm biên độ dao động của mức lãi suất cơ bản. Về phía Nhà nước nên có chính sách tài chính phù hợp với các tổ chức tín dụng, các NHTM ở Việt Nam đang phải chịu một tỷ lệ thuế vốn khá cao, do vậy thuế đánh vào các tổ chức tín dụng cần được điều chỉnh lại cho phù hợp theo hướng giảm tỷ lệ thuế hoặc tính thuế trên lợi nhuận trước thuế Hiện nay chúng ta chưa thể tiến hành tự do hoá lãi suất tuy vậy cần phải hướng theo mục tiêu đó và thực hiện từng bước bởi một lẽ đó là xu hướng tất yếu và khi đó vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước bằng công cụ lãi suất vẫn được thể hiện qua sự định hướng theo tín hiệu thị trường . * Đối với công cụ dự trữ bắt buộc : -Vì dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng huy động và cung ứng tín dụng cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng ,do vậy trong cơ chế thị trường thì NHNN cần phải có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh,bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng: nên mở rộng đối tượng áp dụng qui chế dự trữ bắt buộc,tỷ lệ dự trữ bắt buộc đưa ra phải phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ ,với mục tiêu CSTT và đặc điểm cụ thể của các tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam - Cần phải có những biệp pháp tăng cường kiểm tra việc chấp hành dự trữ bắt buộc, đi đôi với việc xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm qui chế 35 dự trữ để đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tài chính ,ngân hàng thực hiện tốt mục tiêu CSTT -NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt các qui chế dự trữ như:quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc phù hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho số tiền gửi dư thừa của các tổ chức tín dụng với mức lãi suất phù hợp với khả năng tài chính NHNN. -Trong thời gian trước mắt ,để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải giảm bớt ở mức độ phù hợp để tạo điều kiện cho các NHTM thúc đẩy quá trình huy động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế . -Trong tương lai, khi thị trường tiền tệ ,thị trường vốn đã phát triển, các công cụ khác có thể phát huy tác dụng một cách một cách mạnh mẽ thì ngân hàng Nhà nước nên có dự kiến giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM để họ được linh động, mạnh dạn hơn trong hoạt động kinh doanh của mình . * Đối với công cụ cho vay tái chiết khấu: -Thương phiếu, hối phiếu chính là sự ghi nhận của các quan hệ tín dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường ,ở nước ta hiện nay các hình thức tín dụng thương mại đã xuất hiện,doanh số hoạt động mua bán chịu có thời hạn ,giao nhận hàng thanh toán gối đầu giữa các doanh nghiệp là rất lớn .Do vậy cần thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các thương phiếu trong các quan hệ tín dụng thương mại. Muốn vậy nó cần phải có một cơ sở pháp lý đảm bảo ,trước mắt đó là việc xúc tiến các hoạt động để đưa pháp lệnh thương phiếu (hiệu lực từ 1/7/2000) đi vào thực tiễn. -NHNN nên có cơ chế phù hợp để kiểm soát một cách chặt chẽ các dự án cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu vì điều này nó ảnh hưởng quan trọng tới hiệu quả việc điều chỉnh mức cung tiền . -Nên xoá bỏ tình trạng bao cấp trong thực hiện cho vay chiết khấu và nên mở rộng đối tượng được vay chiết khấu để phát huy vai trò “người cho vay cuối cùng” của NHNN và đảm bảo sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng. 36 - Phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng (qui mô,chất lượng) để NHNN có cơ sở chính xác hơn trong việc định ra mức lãi suất cho vay tái chiết khấu ,tạo ra tín hiệu tốt đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM .Mặt khác ,cùng với xu hướng tự do hoá lãi suất thì vai trò của mức lãi suất tái chiết khấu sẽ ngày càng tăng lên ,trở thành một công cụ gián tiếp điều tiết lãi suất thị trường một cách hữu hiệu ,thúc đẩy sự phát triển kinh tế * Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Phải phát triển thị trường mở theo hướng đưa nó trở thành một công cụ hữu hiệu ,linh hoạt nhất của CSTT ở Việt Nam.Muốn vậy cần phải: -Theo dõi ,tính toán ,dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng ,diễn biến lạm phát lãi suất ,đầu tư...để trên cơ sở đó NHNN có quyết định can thiệp vào thị trường mở như thế nào (mua bán tín phiếu) ,với lượng là bao nhiêu. -NHNN cần có các quy định rõ về các công cụ, đối tượng tham gia thị trường mở và linh hoạt trong cơ chế mua bán tại thi trường mở. -Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở: làm đại lý phát hành tín phiếu ,trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho phép NHTM phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi...Muốn vậy NHNN phảI nắm được ( quản lý) được các hoạt động này đồng thời tạo ra tính “thanh khoản”, hấp dẫn cao của các công cụ trên thị trường mở. -Có cơ chế thích hợp, để khuyến khích các tổ chức tín dụng coi nghiệp vụ thị trường mở là một “thói quen” trong hoạt động của họ -Để thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần có sự phát triển đồng bộ của các thị trường khác đặc biệt là thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường thứ cấp 37 Kết luận Như vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng. Việc sử dụng các công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời điểm cụ thể. ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì việc áp dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới việc áp dụng các công cụ điều tiết trực tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và thúc đẩy trưởng kinh tế. Tuy vậy thời gian gần đây chúng đã bộc lộ rõ những hạn chế khi nền kinh tế bước sang một giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó các công cụ điều chỉnh gián tiếp mới được đưa vào sử dụng và chưa thực sự phát huy hết, hoặc chưa thể hiện rõ vai trò của nó do nhiều nguyên nhân gắn với thực lực của nền kinh tế. Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng và giải pháp đúng trong việc hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cần phải có sự phát triển đồng bộ về năng lực NHNN, hệ thống NHTM... và nhiều sự phối hợp đồng bộ khác. Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam phải được coi là cả một quá trình lâu dài và cần được tiếp tục phát triển về sau. 38

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfChính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường_ cstt ở việt nam.pdf