Những thông tin chính xác về khách hàng sẽ giúp ích rất nhiều cho ngân hàng
trong những công việc có liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý tiền
vay. Thông tin càng chính xác, kịp thời, đầy đủ và toàn diện thì công tác tín
dụng của ngân hàng càng được thực hiện tốt và các rủi ro sẽ được hạn chế ở
mức thấp nhất có thể,
20 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 2295 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng, những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - Dài hạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng, những nhân tố ảnh hưởng tới chất
lượng tín dụng trung - dài hạn
Tác giả
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân
Về phía khách hàng:
Các chỉ tiêu định tính đó là:
- Dự án sử dụng vốn vay trung - dài hạn của ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý,
kinh tế, kỹ thuật để thực hiện được.
- Vốn vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, đảm bảo đủ khả năng
trả ngân hàng nợ gốc và lãi, trang trải chi phí khác và để lại cho doanh nghiệp
một khoản thu nhập.
Các chỉ tiêu định lượng đó là:
- Thời gian thi công, thực hiện dự án đảm bảo đúng tiến độ.
- Chi phí phải không được vượt quá mức chi phí cho phép.
- Doanh thu phải không được thấp hơn mức doanh thu dự kiến.
- Lợi nhuận phải đạt hoặc vượt quá mức lợi nhuận đã định trong dự án.
Về phía ngân hàng
Các chỉ tiêu định tính đó là:
- Cho vay phải tuân thủ ba nguyên tắc: vốn vay phải được đảm bảo bằng tài
sản đảm bảo nợ vay, phải hoàn trả vốn, lãi đúng thời hạn và theo cam kết tại
hợp đồng tín dụng đã ký.
- Cho vay phải tuân thủ các điều kiện như lập hồ sơ cho vay, có phương án
sản xuất kinh doanh, có báo cáo tài chính, sản xuất kinh doanh phải có hiệu
quả, có tài sản thế chấp hợp pháp… kèm theo đó là việc kiểm tra trước, trong
và sau khi vay.
Các chỉ tiêu định lượng đó là:
- Chỉ tiêu nợ quá hạn: là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản cho
vay:
Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không đủ tiền để trả và
không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn.
Nợ quá hạn chính là điều mà ngân hàng không hề mong muốn nhưng nó
không phải là thước đo chuẩn để căn cứ vào đó đánh giá chất lượng tín dụng
của món vay. Trên thực tế, các ngân hàng luôn cố gắng tìm cách để hạ tỷ lệ
nợ quá hạn tới mức thấp nhất có thể được.
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ nợ quá hạn của trung - dài hạn chiếm bao nhiêu
phần trăm trong tổng dư nợ tín dụng. Tỷ lệ này không có hoặc càng nhỏ càng
tốt.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi:
Nếu tỷ lệ này cao thì nó phản ánh rằng món cho vay của ngân hàng có chất
lượng rất thấp, hoạt động của ngân hàng không có hiệu quả và các chỉ tiêu
khác để đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn trở nên không có giá trị.
Vì vậy chỉ tiêu này không có hoặc càng thấp càng tốt.
- Chỉ tiêu lợi nhuận:
Thông qua chỉ tiêu này, ta sẽ thấy được khả năng sinh lời của tín dụng trung -
dài hạn. Bất kỳ một khoản tín dụng nào cho dù đó là khoản ngắn hạn hay
trung - dài hạn không thể xem là có chất lượng cao nếu nó không đem lại lợi
nhuận thực tế cho ngân hàng. Tuy nhiên đối với các ngân hàng, đặc biệt là
các ngân hàng quốc doanh thì lợi nhuận nhiều khi không phải là cái đích để
ngân hàng hướng tới mà điều quan trọng là thực hiện được chủ trương, chính
sách của Đảng và nhà nước. Đặc biệt đối với NHNo & PTNT, với chức năng
cho vay trung - dài hạn với mức lãi suất kể cả lãi suất ưu đãi tín dụng để thực
hiện các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì trong nhiều trường
hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu mà ngân hàng cần phải hướng tới. Nói
như vậy không có nghĩa là ngân hàng không quan tâm tới lợi nhuận. Vì sự
tồn tại và phát triển của bản thân ngan hàng mà ngân hàng không thể cho vay
các món vay có lợi nhuận bằng không hoặc nhỏ hơn không. Nhìn chung nếu
như c các chỉ tiêu khác giữa các dự án cho vay là như nhau thì dự án cho vay
nào đem lại lợi nhuận cao hơn vẫn thường được các ngân hàng ưu ái hơn.
Thường thì chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
- Chỉ tiêu vòng quay của vốn:
Chỉ tiêu này cho ta biết ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng tín
dụng được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án mới. Vòng quay của vốn
càng lớn thì càng tốt vì điều đó khẳng định ngân hàng thu được nhiều nợ và
chứng tỏ nguồn vốn trung - dài hạn ngân hàng đã đầu tư hoạt động có hiệu
quả. Ngược lại, nếu vòng quay của vốn càng nhỏ thì việc thu nợ của ngân
hàng là kém và nguồn vốn trung - dài hạn mà ngân hàng đã đầu tư hoạt động
kém hiệu quả.
Như vậy khi xem xét đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn, ta không
thể căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể nào mà phải sử dụng tổng hợp một hệ
thống các chỉ tiêu để có thể đưa ra kết luận chính xác. Giữa chất lượng tốt và
chất lượng chưa tốt không phải lúc nào cũng rạch ròi mà có thể rất khó nhận
ra. Ngay cả khi ta sử dụng mọi chỉ tiêu thì ta cũng chưa thể đánh giá chính
xác được chất lượng cho vay vì chất lượng tín dụng vừa mang tính cụ thể vừa
mang tính trìu tượng. Sự trìu tượng, mơ hồ ở các dự án nhiều khi là rất lớn,
đặc biệt thể hiện trong các dự án cho vay vì mục tiêu xã hội hay theo định
hướng phát triển kinh tế của đất nước.
Tóm lại, các chỉ tiêu đánh giá, xem xét chất lượng tín dụng phải luôn được
xem xét phân tích thường xuyên cả hai mặt định tính và định lượng, cả về lợi
nhuận thuần tuý và lợi ích xã hội, cả trên quan điểm ngân hàng và khách
hàng. Thực hiện được điều này sẽ giúp cho bản thân các ngân hàng cũng như
khách hàng đánh giá được chất lượng tín dụng một cách chính xác đầy đủ
nhất. Qua đó có thể giải quyết được những hạn chế, vướng mắc cũng như
phát huy được những ưu điểm để nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài
hạn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn
Những nhân tố khách quan
Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng đều tác động tới
chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu sự thay đổi theo chiều hướng tốt thì
chất lượng của các khoản tín dụng trung - dài hạn sẽ được nâng cao. Ngược
lại, sự thay đổi theo chiều hướng xấu thì sẽ làm cho chất lượng các khoản tín
dụng trung - dài hạn xấu đi ngoài ý muốn. Ví dụ khi nền kinh tế có hiện
tượng lạm phát tăng vọt, giá cả đồng tiền giảm sút, chỉ số giá cả tăng nhanh
gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tác động xấu đến khả năng thu hồi
công nợ của ngân hàng. Hay khi có sự biến động lớn trong tỷ giá do sự thay
đổi chính sách tiền tệ của Nhà nước, đồng nội tệ bị giảm giá, các doanh vốn
bằng ngoại tệ mà không có nguồn thu bằng ngoại tệ sẽ gặp khó khăn trong
việc trả nợ ngân hàng. Sự biến động về tỷ giá như vậy cũng khiến các doanh
nghiệp phải nhập thiết bị nước ngoài lẽ ra đã vay ngân hàng đủ tiền sẽ trở
thành không đủ tiền để nhập gây ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản
vay.
Nói như vậy không có nghĩa là chỉ môi trường kinh tế trong nước này thay
đổi sẽ tác động tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn mà sự thay đổi của môi
trường kinh tế thế giới cũng gây ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là đối với
doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Sự thay đổi ấy thể hiện trực tiếp qua
sự biến động về nhu cầu thị trường, sự biến động về tỷ giá khiến cho các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ ảnh hưởng tới việc trả nợ
ngân hàng của doanh nghiệp.
Môi trường chính trị - xã hội
Môi trường chính trị - xã hội ổn định sẽ giúp cho các doanh nghiệp mạnh dạn
đầu tư lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu môi trường
chính trị - xã hội mà bất ổn thì các doanh nghiệp sẽ không dám mạnh dạn đầu
tư mà chỉ duy trì ở mức tái sản xuất giản đơn để bảo đảm an toàn vốn. Điều
này sẽ ảnh hưởng tới quy mô các khoản tín dụng trung - dài hạn của ngân
hàng, các món vay chủ yếu sẽ là ngắn hạn còn khoản tín dụng trung - dài hạn
sẽ không có hoặc rất nhỏ vì sự không ổn định về chính trị - xã hội dẫn đến
việc kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro, bất trắc hơn nên nó sẽ
ảnh hưởng tới công tác thu nợ của ngân hàng.
Tuy nhiên, không chỉ có tình hình chính trị xã hội mà cả tình hình chính trị -
xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài
hạn bởi vì hiện nay các quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng được mở rộng cho
nên các loại hình doanh nghiệp đa quốc gia cũng ngày càng tăng cả về số
lượng và quy mô hoạt động. Vì vậy, mọi biến động về kinh tế - xã hội ở nước
ngoài đều có ảnh hưởng tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và
ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn.
Môi trường pháp lý
Pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với
những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động của nền kinh tế
không thể trôi chảy được. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường pháp lý
cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả
kinh tế cao, là cơ sở để giải quyết khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Môi
trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng và cho hoạt
động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung là một nhân tố rất
quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh nợ quá hạn. Hệ thống pháp luật
quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ, đồng bộ, hợp
lý sẽ không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động
kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Như vậy,
pháp luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung
và chất lượng tín dụng trung - dài hạn nói riêng.
Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là kim chỉ nan đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng
quỹ đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của mọi ngân hàng. Một
chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều ngân hàng, đảm bảo khả
năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp
luật, đường lối chính sách của nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội. Ngược
lại, nếu chính sách tín dụng không hợp lý, chồng chéo sẽ gây khó khăn cho
ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng. điều đó có nghĩa là chất lượng
tín dụng trung - dài hạn phụ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của
ngân hàng có đúng đắn hay không.
Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên có một ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của
ngân hàng nói chung đặc biệt là tín dụng trung - dài hạn nói riêng bởi vì thiên
tai là một yếu tố bất khả kháng, chúng ta không thể dự đoán một cách chắc
chắn là khi nào những thiên tai như bão lũ lụt, hạn hán, hoả hoạn, dịch
bệnh…sẽ xảy ra và mức độ ảnh hưởng, thiệt hại của chúng là như thế nào.
Thông thường khi thiên tai xảy ra, nó thường gây thiệt hại rất lớn cho các
ngành sản xuất, dịch vụ, gây ra các biến động xấu ngoài dự kiến trong mối
quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các khách hàng của mình làm cho vốn
của ngân hàng đầu tư vào các doanh nghiệp sẽ ít nhiều bị ảnh hưởng và dẫn
tới rủi ro làm giảm chất lượng tín dụng.
Các nhân tố chủ quan
Về phía khách hàng
- Năng lực của khách hàng
Không một khách hàng nào khi đi vay lại không muốn món vay đem lại hiệu
quả nhưng nhiều khi do năng lực có hạn nên họ không thể thực hiện được ý
đồ của mình. Do hạn chế về khả năng, họ không dự đoán đúng những biến
động lên xuống của nhu cầu thị trường hoặc do yếu kém trong quản lý, trong
việc giới thiệu, quảng cáo sản phẩm mà hoạt động của doanh nghiệp không
thể phát triển hoặc do thiếu kinh nghiệm trên thương trường mà doanh nghiệp
dễ dàng bị gục ngã trong cạnh tranh… Tất cả những điều đó khiến cho chất
lượng tín dụng bị ảnh hưởng ngoài ý muốn của cả ngân hàng lẫn khách hàng.
- Sự trung thực của khách hàng
Nếu khách hàng trung thực, sử dụng vốn vay đúng mục đích thì xác suất xảy
ra rủi ro sẽ giảm đi đáng kể vì tính khả thi của dự án cũng đã được ngân hàng
thẩm định một cách kỹ càng trước khi ra quyết định cho vay. Nhưng việc sử
dụng vốn vay sai mục đích của khách hàng đã góp phần không nhỏ vào việc
đổ bể của các tổ chức tín dụng.
Chẳng hạn như sử dụng vốn vay đầu tư vào tài sản cố định, vào bất động sản,
sau đó các tài sản này bị sụt giá dẫn đến việc doanh nghiệp không trả được nợ
cho ngân hàng. Các doanh nghiệp còn chiếm dụng vốn lẫn nhau dẫn đến các
doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân
hàng.
- Rủi ro trong công việc kinh doanh của khách hàng
Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc tính toán triển
khai dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong khoa học,
không thực hiện kỹ càng… Tuy nhiên trong một số trường hợp cho dù
phương án sản xuất kinh doanh của người đi vay đã được tính toán một cách
chi tiết, khoa học, chính xác đến mức tối đa thì công việc đầu tư vẫn luôn
chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro do những thay đổi bất ngờ, ngoài ý muốn
và bất khả kháng của các điều kiện sản xuất kinh doanh, gây tác động xấu
đến công việc làm ăn, mang lại rủi ro cho doanh nghiệp. Ví dụ các thiệt hại
doanh nghiệp phải gánh chịu do sự biến động của thị trường cung cấp như:
khi giá cả nguyên vật liệu biến động tăng vọt làm tăng giá thành công xưởng
của sản phẩm, nếu giá bán của sản phẩm không thay đổi nó sẽ làm cho thu
nhập tạo ra trên một sản phẩm giảm, làm giảm tổng lợi nhuận được của cả dự
án, ảnh hưởng xấu tới việc trả nợ ngân hàng. Nếu đảm bảo thu nhập của
mình, doanh nghiệp nâng giá bán của sản phẩm lên thì điều này sẽ làm cho
việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, khả năng thu hồi vốn sản xuất bị chậm
trễ, dễ dàng vi phạm việc trả nợ ngân hàng về mặt thời hạn.
Về phía ngân hàng
Công tác thẩm định
Tín dụng trung - dài hạn được tiến hành chủ yếu dựa trên các dự án đầu tư.
Muốn xem xét dự án có đủ độ tin cậy để có thể cho vay được hay không,
ngân hàng cần tiến hành thẩm định dự án đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức, xem xét một cách khách quan, khoa
học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư để
ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Mục đích của việc thẩm định dự án đầu tư là nhằm giúp ngân hàng rút ra kết
luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi
ro có thể xảy ra của dự án để đưa ra quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay.
Thông qua công tác thẩm định, ngân hàng sẽ phát hiện, bổ sung thêm những
giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của dự án đồng thời làm cơ sở để xác
định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Thẩm định tín dụng một cách kỹ càng, đúng quy trình thẩm định sẽ góp phần
giảm được những rủi ro của tín dụng trung - dài hạn, giúp ngân hàng thu
được lợi nhuận và đảm bảo tính ổn định của các khoản vay. Công tác thẩm
định tập trung ở hai nội dung:
+ Thẩm định toàn diện các nội dung của luận chứng kinh tế, kỹ thuật, báo cáo
kinh tế của các dự án tiền khả thi.
+ Thẩm định toàn diện tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
Bước đầu tiên của thẩm định dự án là phải thu thập thông tin sau đó sẽ tiếp
đến tiến hàng phân tích những thông tin đó. Những thông tin thu thập phải
đồng bộ, từ nhiều nguồn khác nhau như:
- Thẩm định về phương diện thị trường:
+ Kiểm tra cân đối cung cầu về sản phẩm của dự án, tuỳ theo phạm vi tiêu
thụ sản phẩm ở trong nước hay xuất khẩu:
. Nhu cầu của thị trường, dự báo mức độ gia tăng
. Sản phẩm có khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường về cả khối lượng và chất
lượng.
. Đánh giá những sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm của dự án trong
tương lai, độ bền của nhu cầu sử dụng của sản phẩm thay thế.
. Khả năng đáp ứng các nguồn cung cấp đầu vào: tính ổn định và tính thường
xuyên của nguồn cung ứng.
+ Căn cứ vào khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về sản phẩm:
. Ưu thế tương đối của sản phẩm do dự án sản xuất về: giá thành, chất lượng,
mẫu mã, điều kiện lưu thông và tiêu thụ.
. Khả năng và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ thị trường về sản phẩm,
kênh phân phối, khả năng nắm bắt thông tin.
. Những con số cụ thể về khả năng tiêu thụ sản phẩm trong quá khứ và tương
lai.
- Thẩm định về phương diện kỹ thuật:
+ Xem xét việc lựa chọn địa điểm và mặt bằng xây dựng dự án, việc lựa chọn
hình thức đầu tư và công suất của dự án.
+ Khai thác tiềm năng sẵn có và lâu dài, có khả năng đáp ứng được nhu cầu
cần thiết, tối ưu hoá hiệu quả của dự án.
+ Nhu cầu về dây chuyền công nghệ và lựa cho thiết bị máy móc, khả năng
tìm kiếm, lựa chọn công nghệ thích hợp, kiểm tra tính pháp lý của hợp đồng
chuyển giao công nghệ.
+ Thẩm định tiến độ thực hiện của dự án.
- Thẩm định về phương diện tổ chức:
+ Xem xét cơ cấu tài chính: vấn đề về quyền lợi và trách nhiệm được kết nối
như thế nào.
+ Năng lực tài chính, quản lý của nhóm điều hành, của nhân viên: có những
hoạt động đào tạo trước mắt và lâu dài.
- Thẩm định về mặt tài chính của dự án
Đây chính là vấn đề cốt lõi nhất khi thẩm định dự án đầu tư đối với bất kỳ
một ngân hàng nào khi đưa ra quyết định cho vay mà đặc biệt là cho vay
trung - dài hạn. Thẩm định về mặt tài chính được coi là sự đảm bảo tối thiểu
cho khoản vay sắp cung cấp. Thẩm định tài chính bao gồm các nội dung
chính là:
+ Vốn xây lắp: thường được tính toán trên cơ sở khối lượng công tác xây lắp
và đơn giá xây lắp tổng hợp hay suất vốn đầu tư.
+ Vốn thiết bị: căn cứ vào danh mục thiết bị để kiểm tra giá cả mua và chi phí
vận chuyển, bảo quản theo quy định của nhà nước. Đối với những thiết bị
được chuyển giao công nghệ thì tính gồm cả chi phí chuyển giao công nghệ.
+ Vốn kiến thiết cơ bản khác: cần tính tới nhu cầu vốn lưu động ban đầu và
nhu cầu bổ sung vốn lưu động và những khoản mục chi phí cần thiết khác.
Dựa trên những tính toán cơ bản thì chủ dự án có trách nhiệm bỏ một phần
vốn tự có của mình vào tổng khoản vay và đó được coi là điều kiện cần đảm
bảo về uy tín và độ an toàn, phòng tránh rủi ro của khoản tín dụng trung - dài
hạn.
- Tiến độ bỏ vốn đầu tư: có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là đối với những
công trình có thời gian xây dựng dài, cần thiết phải phân bổ tiến độ bỏ vốn
theo giai đoạn thích hợp để tạo điều kiện cho việc điều hành vốn của ngân
hàng.
- Yếu tố quyết định trực tiếp cho việc lựa chọn cho vay hay không chính là
khả năng sinh lợi của dự án vì ngân hàng cũng là một đơn vị sản xuất kinh
doanh nên họ cũng phải quan tâm tới lợi nhuận của dự án. Vì vậy, trước khi
bỏ vốn đầu tư, khách hàng và ngân hàng thường tiến hành thẩm định tính khả
thi của dự án qua một số chỉ tiêu sau:
+ Khả năng thu nhập của dự án trên doanh thu và chi phí vận hành hàng năm
của dự án
Doanh thu thuần = Doanh thu toàn bộ - Thuế VAT
Nếu tỷ suất lợi nhuận của dự án > lãi suất tiền gửi thì nên đầu tư
+ Thời gian hoàn vốn: là số năm mà dự án cần thiết phải hoạt động để tổng số
lợi nhuận và khấu hao thu được bù đắp số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
Thời gian hoàn vốn phản ánh hiệu quả của đầu tư, thời gian hoàn vốn càng
nhanh thì hiệu quả đầu tư càng có hiệu quả.
+ Giá trị hiện tại ròng (NPV): cho ta biết quy mô của thu nhập từ dự án trong
suốt quá trình hoạt động từ khi khởi đầu cho đến khi kết thúc.
Trong đó:
n: số năm
r: tỷ lệ chiết khấu
Ti: khoản thu của dự án ở năm thứ i
Ci: khoản chi cho đầu tư ở năm thứ i
Ngân hàng cho vay khi NPV > 0 vì khi đó dự án có tính khả thi, doanh
nghiệp sẽ có lãi và có thể trả nợ ngân hàng.
+ Chỉ tiêu suất thu hồi nội bộ (IRR)
Suất thu hồi nội bộ là lãi suất chiết khấu mà tương ứng với nó giá trị của
NPV = 0
Suất thu hồi nội bộ là lãi suất lớn nhất mà dự án có thể chịu đựng được. Dự
án có tính khả thi khi IRR > lãi suất vay dự án vì khi đó doanh nghiệp vừa trả
được nợ ngân hàng và vừa có lãi.
Ngoài các công tác thẩm định nêu trên, ngân hàng còn phải thẩm định độ
nhạy của dự án đối với sự thay đổi của các yếu tố, lãi suất tỷ giá, xu thế biến
động của nền kinh tế…
Hơn nữa ngân hàng còn phải tiến hành thẩm định khách hàng vay vốn bao
gồm: thu nhập và phân tích tài liện trong hồ sơ cho vay, phân tích tài chính
khách hàng: phân tích tình hình tài chính qua các năm, phân tích các chỉ số
tác nhân chung để đánh giá doanh nghiệp… và đưa ra đánh giá, kết luận tổng
quát về tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Tóm lại, do đặc điểm của tín dụng trung - dài hạn là thời gian dài, độ rủi ro
cao nên công tác thẩm định theo đúng và đầy đủ các trình tự nêu trên thì sẽ
góp phần nâng cao chất lượng món vay và đảm bảo cho sự an toàn của bản
thân ngân hàng.
Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của một ngân hàng là kim chỉ nan cho hoạt động tín
dụng của ngân hàng đó. Bên cạnh việc phải phù hợp với đường lối phát triển
của nhà nước thì chính sách tín dụng còn phải đảm bảo kết hợp hài hoà quyền
lợi của người gửi tiền, người đi vay và quyền lợi của chính bản thân ngân
hàng. Chính sách tín dụng phải tạo ra sự công bằng, không những phải đảm
bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng mà còn phải đảm bảo đủ sức hấp
dẫn đối với khách hàng. Một chính sách tín dụng đồng bộ, thống nhất và đầy
đủ, đúng đắn sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng.
Ngược lại, một chính sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất sẽ
tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng
không đúng đối tượng tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn không đem lại hiệu
quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng.
Ví dụ về chính sách lãi suất, khi lãi suất cho vay quá cao thì khách hàng sẽ
không đến vay ngân hàng, ngân hàng sẽ bị ứ đọng vốn gây một hiệu quả tồi
tệ đến hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay quá thấp thì
sẽ có rất nhiều khách hàng đến vay và lúc này ngân hàng khó có khả năng
đáp ứng hết khả năng về vốn trung - dài hạn cho khách hàng vì hiện nay tỷ
trọng khoản tiền gửi trung - dài hạn so với tổng nguồn vốn huy động của
ngân hàng là không lớn. Mặt khác, lãi suất cho vay thấp dẫn tới việc ngân
hàng không bù đắp được việc phải trả lãi tiền gửi và trả lãi suất tiền gửi…
Chất lượng nhân sự
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng
nói riêng cũng như trong hoạt động của ngân hàng nói chung. Việc tuyển
chọn sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với
nghề, giởi chuyên môn, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc
biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, năm vững những văn bản pháp luật
có liên quan đến hoạt động tín dụng, có năng lực phân tích và xử lý dự án xin
vay, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cho vay
đến khi thu hồi được nợ hoặc xử lý xong món nợ theo quy định của ngân
hàng… sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể
xảy ra khi thực hiện chi kỳ khép kín của một khoản tín dụng. Tuy nhên đối
với những cán bộ không được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về ngành kinh
doanh mà mình đang tài trợ, trong khi ngân hàng không có đủ các số liệu
thống kê, các chỉ tiêu để phân tích, so sánh, đánh giá vài trò vị trí của doanh
nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, chu kỳ, vòng
đời sản phẩm … dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án xi vay làm rủi
ro tín dụng của ngân hàng.
Công tác tổ chức của ngân hàng
Công tác tổ chức không chỉ tác động tới chất lượng tín dụng mà còn tác động
tới mọi hoạt động của ngân hàng. Nếu công tác tổ chức không khoa học sẽ
làm ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định đối với món vay, không đáp ứng
kịp thời các yêu cầu của khách hàng, không theo dõi sát sao được công việc.
Sự phân công công việc nếu không hợp lý, khoa học sẽ dẫn đến sự không rõ
ràng, chồng chéo khiến cho các cán bộ tín dụng ỷ lại, thiếu trách nhiệm đối
với công việc của mình. Công tác tổ chức ở đây cũng đề cập tới vấn đề giao
việc đúng người, đúng việc. Mỗi một cán bộ cần được giao cho công việc
phù hợp để có thể phát huy hết khả năng và giữa các bộ phận cần có sự phối
hợp nhịp nhàng, chặt chẽ để công việc tiến hành nhanh chóng, chính xác.
Nếu được tổ chức tốt, các công việc đối với một món vay sẽ được thực hiện
tuần tự, chặt chẽ, vừa đảm bảo về mặt thời gian vừa không có sự sơ hở nên sẽ
làm cho chất lượng của món vay được nâng cao.
Thông tin tín dụng
Những thông tin chính xác về khách hàng sẽ giúp ích rất nhiều cho ngân hàng
trong những công việc có liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý tiền
vay. Thông tin càng chính xác, kịp thời, đầy đủ và toàn diện thì công tác tín
dụng của ngân hàng càng được thực hiện tốt và các rủi ro sẽ được hạn chế ở
mức thấp nhất có thể, chất lượng tín dụng được nâng cao hơn. Tuy nhiên nến
thiếu thông tin tín dụng hoặc thông tin tín dụng không chính xác, kịp thời,
chưa có danh sách phân loại doanh nghiệp, chưa có sự phân tích đánh giá
doanh nghiệp một cách khách quan, đúng đắn sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng cao
làm giảm chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cac_chi_tieu_danh_gia_chat_luong_7608.pdf